Sáng kiến Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tư duy trong bộ môn Địa lí 9

doc 14 trang Giang Anh 21/03/2024 670
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tư duy trong bộ môn Địa lí 9", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_giup_hoc_sinh_ren_luyen_ki_nang_tu_duy_trong_bo_mo.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tư duy trong bộ môn Địa lí 9

  1. I. PHẦN MỞ ĐẦU 1.LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI: Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Đảng ta đã xác định con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của phát triển xã hội, cần phải có những người lao động mới phát triển toàn diện, do vậy cần phải đổi mới giáo dục nói chung và đổi mới giáo dục phổ thông nói riêng. Trước xu thế phát triển chung của nền kinh tế xã hội thế giới, nhiệm vụ đổi mới giáo dục đã được thể hiện rõ trong các Nghị quyết của Đảng và Quốc hội. Mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẩm mĩ và nghề nghiệp ; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.Thực chất là cách tiếp cận kĩ năng sống đó là: Học để biết, Học để làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Mục tiêu giáo dục phổ thông đã và đang chuyển hướng từ chủ yếu là trang bị kiến thức sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em học sinh. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã và đang được đổi mới theo hướng phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, sáng tạo của người học, phù hợp với đặc điểm của từng lớp học, tăng cường khả năng làm việc theo nhóm, rèn luyện kĩ năng vận dụng kiến thức vào thực tiễn, tác động đến tình cảm, đem lại niềm vui, hứng thú học tập cho học sinh. Phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong các trường phổ thông cùng với các cuộc vận động lớn khác thì phong trào đã trở thành nhiệm vụ cấp thiết và có tầm quan trọng đặc biệt trong sự nghiệp giáo dục hiện nay. Một trong những nội dung cơ bản của phong trào là rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh, bởi vì các em chính là những chủ nhân tương lai của đất nước, là những người sẽ quyết định sự phát triển của đất nước trong những năm tới. Nếu không có kĩ năng sống, các em sẽ không thực hiện được tốt trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và đất nước. Lứa tuổi học sinh là lứa tuổi đang hình thành những giá trị nhân cách, giàu ước mơ, ham hiểu biết, thích tìm tòi, khám phá song còn thiếu hiểu biết sâu sắc về xã hội, thiếu kinh nghiệm sống, dễ bị lôi kéo, kích động đặc biệt là trong bối cảnh hội nhập quốc tế và cơ chế thị trường hiện nay, vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống cho thế hệ trẻ là rất cần thiết, giúp các em rèn luyện hành vi có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, cộng đồng và Tổ quốc, giúp các em có khả năng ứng phó tích cực trước các tình huống của cuộc sống, xây dựng mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè và mọi người, sống tích cực, chủ động, an toàn, hài hòa và lành mạnh. 3
  2. Nhằm thực hiện yêu cầu đổi mới giáo dục phổ thông, hòa hợp với xu thế chung của nhiều quốc gia trên thế giới, Bộ Giáo dục đã chỉ đạo Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam tổ chức biên soạn bộ tài liệu về giáo dục kĩ năng sống cho học sinh và đã được triển khai, thực hiện thông qua một số môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp, nhưng không phải theo hình thức lồng ghép, tích hợp thêm vào các môn học mà theo một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không làm nặng nề, qúa tải thêm nội dung các môn học và hoạt động giáo dục, mà ngược lại, còn làm cho các giờ học và hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn, thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh. Môn Địa lí trong các cấp học nói chung và trong trường trung học cơ sở nói riêng với đặc trưng là môn học, cung cấp cho các em những kiến thức về các điều kiện tự nhiên, những hiện tượng tự nhiên xảy ra xung quanh mình cũng như các đặc điểm về dân cư, kinh tế, xã hội của đất nước cũng như các vùng lãnh thổ khác trên thế giới, từ những kiến thức đã được học các em biết vận dụng vào trong cuộc sống, giải thích được các hiện tượng địa lí đó. Vì vậy việc giáo dục kĩ năng sống trong môn Địa lí là hết sức cần thiết, nhằm giúp học sinh có những kĩ năng hành động, ứng xử phù hợp với môi trường tự nhiên, với xã hội, có khả năng ứng phó và giải quyết một số vấn đề thường gặp trong cuộc sống do điều kiện tự nhiên cũng như xã họi mang lại. Đặc biệt trong chương trình địa lí lớp 9 các em được cung cấp các kiến thức về địa lí dân cư, sự phát triển kinh tế của đất nước, của các vùng kinh tế trong cả nước. Trong qúa trình dạy học, giáo dục, bên cạnh việc hình thành các kĩ năng mang tính kĩ thuật, gắn với chuyên môn, như kĩ năng sử dụng bản đồ, tranh ảnh Các em còn được rèn luyện các kĩ năng như kĩ năng tư duy, giao tiếp, làm chủ bản thân, giải quyết vấn đề , trong đó kĩ năng tư duy là một kĩ năng sống quan trọng bởi vì trong học tập cũng như trong cuộc sống các em luôn gặp phải những tình huống, hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra, khi đó các em cần phải đưa ra những quyết định, những hành động phù hợp. Là giáo viên bộ môn Địa lí, thực hiện theo chỉ đạo của các Ngành cấp trên, theo yêu cầu đổi mới của giáo dục phổ thông, nhiều năm liền được phân công giảng dạy ở khối lớp 9, áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực phù hợp với mục tiêu về kiến thức và kĩ năng mà các em cần đạt được, hình thành cho các em những phẩm chất, đức tính của con người “lao động mới”, mặc dù còn nhiều hạn chế nhưng trong quá trình giảng dạy tôi cũng rút ra được một số kinh nghiệm, vì vậy tôi chọn đề tài:”Giúp học sinh rèn luyện kĩ năng tư duy trong bộ môn Địa lí 9 ”, rất mong được sự góp ý chân thành của các các quý Thầy cô và đồng nghiệp. 4
  3. 2. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU : - Góp phần nâng cao chất lượng dạy và học môn Địa lí ở trường THCS - Góp phần phổ biến, giáo dục, hình thành các kĩ năng sống cho học sinh qua các môn học ở trường THCS. 3. PHẠM VI, ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU : - Học sinh lớp 9 trường THCS An Phú - Rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh trong dạy học Địa lí 9 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÌM HIỂU : - Phương pháp đọc sách và các tài liệu tham khảo - Phương pháp quan sát sư phạm - Phương pháp so sánh, đối chiếu sản phẩm hoạt động sư phạm. 5
  4. II. PHẦN NỘI DUNG ĐỀ TÀI 1.CƠ SỞ LÍ LUẬN : Mục tiêu giáo dục phổ thông đã chuyển từ chủ yếu là trang bị kiến thức cho học sinh sang trang bị những năng lực cần thiết cho các em, đặc biệt là năng lực hành động, năng lực thực tiễn. Phương pháp giáo dục phổ thông cũng đã được đổi mới theo hướng « phát huy tính tích cực, tự giác, chủ động, tư duy sáng tạo của người học, bồi dưỡng cho người học năng lực tự học, khả năng thực hành, lòng say mê học tập và ý chí vươn lên ». Với mục tiêu giáo dục đã đặt ra, môn Địa lí có khả năng bồi dưỡng cho học sinh một khối lượng tri thức phong phú về tự nhiên – Kinh tế – xã hội và những kỹ năng kỹ xảo hết sức cần thiết trong cuộc sống, đặc biệt là các kiến thức về tự nhiên, dân cư, kinh tế, xã hội của đất nước nói chung và của các vùng miền nói riêng trong môn Địa lí 9. 2. THỰC TRẠNG: Địa lí là môn học cung cấp cho học sinh những hiểu biết cả về tự nhiên và xã hội, một số vấn đề của thế giới đương đại, cả những mặt tích cực cũng như những mặt tiêu cực, một số vấn đề về tự nhiên và xã hội Việt Nam, thông qua những nội dung này có thể giáo dục cho các em một số kĩ năng sống như kĩ năng ứng phó và tự bảo vệ trước những thiên tai, những hiểm họa trong xã hội có nguy cơ ảnh hưởng tới cuộc sống an toàn và lành mạnh của các em, đồng thời cũng hình thành ở các em kĩ năng cảm thông, chia sẻ với những con người sống ở mọi nơi trên đất nước ta nói riêng cũng như trên thế giới nói chung gặp những khó khăn, bất hạnh, rủi ro trong cuộc sống, kĩ năng tư duy khi phân tích, so sánh, phán đoán ; tìm kiếm xử lí thông tin về các sự vật, hiện tượng địa lí Tuy nhiên trong học tập môn Địa lí ở hầu hết các trường THCS hiện nay, các em học sinh chưa thật sự chú trọng, say mê, yêu thích môn học, coi đó là môn học phụ, chỉ học đối phó khi kiểm tra, thi cử, vì thế chất lượng bộ môn còn thấp, hoặc khi tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi với khối lượng kiến thức lớn, các em ngại phần học thuộc lí thuyết nên lựa chọn thường ưu tiên cho những môn học khác. Là một giáo viên có tâm huyết với nghề, qua thời gian đứng lớp nhiều và kinh nghiệm của bản thân, thực hiện dạy học theo chuẩn kiến thức kĩ năng của chương trình giáo dục phổ thông và hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng môn Địa lí của Bộ GD&ĐT, thực hiện giáo dục kĩ năng sống trong môn Địa lí ở trường THCS, chất lượng của bộ môn ngày càng được nâng cao, các em có hứng thú với môn học, có kĩ năng giải quyết các vấn đề, các tình huống học tập, từ đó các 6
  5. em thêm yêu thích môn học say mê nghiên cứu, hình thành cho các em những phẩm chất, đức tính của con người lao động mới phát triển toàn diện. 3. GIẢI PHÁP, BIỆN PHÁP : 3.1. Những đặc trưng của các kĩ năng tư duy : a. Kĩ năng tư duy sáng tạo : Tư duy sáng tạo là khả năng nhìn nhận và giải quyết vấn đề theo một cách mới, với ý tưởng mới, theo phương thức mới, cách sắp xếp và tổ chức mới ; là khả năng khám phá và kết nối mối quan hệ giữa các khái niệm, ý tưởng, quan điểm, sự việc, độc lập trong suy nghĩ. Kĩ năng tư duy sáng tạo giúp con người tư duy năng động với nhiều sáng kiến và óc tưởng tượng, biết cách phán đoán và thích nghi, có tầm nhìn và khả năng suy nghĩ rộng hơn những người khác, không bị bó hẹp vào kinh nghiệm trực tiếp đang trải qua, tư duy minh mẫn và khác biệt. Tư duy sáng tạo là một kĩ năng sống quan trọng bởi vì trong cuộc sống con người thường xuyên bị đặt vào những hoàn cảnh bất ngờ hoặc ngẫu nhiên xảy ra.Khi gặp những hoàn cảnh như vậy đòi hỏi chúng ta phải có tư duy sáng tạo để có thể ứng phó một cách linh hoạt và phù hợp. Khi một người biết kết hợp tốt giữa kĩ năng tư duy phê phán và tư duy sáng tạo thì năng lực tư duy của người ấy càng được tăng cường và sẽ giúp ích rất nhiều cho bản thân trong việc giải quyết vấn đề một cách thuận lợi và phù hợp nhất. b. Kĩ năng tư duy phê phán : Kĩ năng tư duy phê phán là khả năng phân tích một cách khách quan và toàn diện các vấn đề, sự vật, hiện tượng xảy ra. Để phân tích một cách có phê phán, con người cần : - Thu thập thông tin về vấn đề, sự vật, hiện tượng đó từ nhiều nguồn khác nhau. - Sắp xếp các thông tin thu thập được theo từng nội dung và một cách hệ thống - Phân tích, so sánh, đối chiếu, lí giải các thông tin thu thập được, đặc biệt là các thông tin trái chiều. - Xác định bản chất vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng là gì ? - Nhận định về những mặt tích cực, hạn chế của vấn đề, tình huống, sự vật, hiện tượng đó, xem xét một cách thấu đáo, sâu sắc và có hệ thống. Kĩ năng tư duy phê phán rất cần thiết để con người có thể đưa ra được những quyết định, những hành động phù hợp. Nhất là trong xã hội hiện đại ngày nay, khi mà con người luôn phải đối mặt với nhiều vấn đề gay cấn của cuộc sống, luôn phải xử lí nhiều nguồn thông tin đa dạng, phức tạp thì kĩ năng tư duy phê phán càng trở nên quan trọng đối với mỗi cá nhân. 7
  6. Kĩ năng tư duy phê phán phụ thuộc vào hệ thống giá trị cá nhân. Một người có được kĩ năng tư duy phê phán tốt khi biết phối hợp nhịp nhàng với kĩ năng tự nhận thức và kĩ năng xác định giá trị. 3.2. Rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh trong dạy học Địa lí 9 ở trường THCS : Nội dung và các phương pháp dạy học theo hướng tích cực trong môn Địa lí có nhiều khả năng hình thành và rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh như phương pháp thảo luận nhóm, dạy học giải quyết vấn đề, đàm thoại-gợi mở, bản đồ tư duy , trong quá trình làm việc cá nhân hoặc nhóm, học sinh có điều kiện suy ngẫm, hồi tưởng những kiến thức, kĩ năng địa lí đã tiếp nhận trước đó để giải quyết nhiệm vụ được đặt ra, hay học sinh luôn phải tìm kiếm và xử lí thông tin từ sách giáo khoa, từ các nguồn tư liệu khác nhau để có được tri thức cần thiết gắn với nội dung bài học địa lí. Vận dụng các kĩ năng phân tích, so sánh, đối chiếu các hiện tượng, sự vật địa lí giúp học sinh hiểu sâu sắc vấn đề và có thể đưa tới những ý kiến sáng tạo khi đề xuất biện pháp giải quyết tình huống của thực tiễn. Trong chương trình, nội dung môn học Địa lí 9, cung cấp cho các em những kiến thức về địa lí dân cư, sự phát triển các ngành kinh tế, sự phân hóa lãnh thổ ( các vùng kinh tế) trong cả nước, và những đặc điểm của địa lí địa phương nơi các em đang sinh sống và học tập, từ đó các em có điều kiện để phát triển kĩ năng tư duy phê phán khi tiếp cận những hiện tượng tác động tiêu cực đến môi trường, tư duy kinh tế khi đánh giá những thuận lợi và khó khăn của điều kiện tự nhiên đối với việc phát triển kinh tế, tư duy không gian khi làm việc với bản đồ *Một số ví dụ cụ thể - Bài 31 : Vùng Đông Nam Bộ : Mục II : Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên, sau khi HS tìm hiểu các đặc điểm về tài nguyên thiên nhiên của vùng, GV nêu vấn đề : Vì sao phải bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn đồng thời phải hạn chế ô nhiễm nước của các dòng sông ở Đông Nam Bộ ? HS thu thập thông tin thấy được rằng rừng ở Đông Nam Bộ không còn nhiều, bảo vệ rừng là bảo vệ nguồn sinh thủy, giữ gìn cân bằng sinh thái, đây là vùng dân cư tập trung đông đúc, khu công nghiệp lớn trong cả nước vì thế các chất thải sinh hoạt đô thị, chất thải công nghiệp rất lớn  ô nhiễm nguồn nước. - Bài 36 : Vùng Đồng bằng sông Cửu Long ( tt) Mục IV: Tình hình phát triển kinh tế : 1. Dịch vụ. Khi HS nắm được các hoạt động dịch vụ nổi bật của vùng, Gv đặt câu hỏi : Vì sao giao thông thủy có vai trò quan trọng trong đời sống và hoạt động giao lưu kinh tế trong vùng ? HS dựa vào Atlát Địa lí Việt Nam trang 29, từ màu sắc biểu thị địa hình và các kí hiệu nhận thấy được rằng đây là vùng có độ cao trung bình so với mực nước 8
  7. biển thấp từ 2- 3m, mạng lưới sông ngòi, kênh rạch chằng chịt, vì thế phương tiện giao thông chủ yếu của vùng là ghe, xuồng, mọi hoạt động sinh hoạt, buôn bán, họp chợ, học tập đều diễn ra trên sông đặc biệt là mùa mưa, lũ, và đây cũng chính là nét nổi bật thu hút khách du lịch của vùng. - Bài 38 : Phát triển tổng hợp kinh tế và bảo vệ tài nguyên, môi trường Biển - Đảo Mục II :Phát triển tổng hợp kinh tế biển đảo. Giáo viên đặt câu hỏi: Thế nào là phát triển tổng hợp? Phát triển tổng hợp là sự phát triển nhiều ngành , giữa các nhiều ngành có mối quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ nhau để cùng phát triển và sự phát triển của một ngành không kìm hãm hoặc gây thiệt hại cho các ngành khác . Giáo viên đặt câu hỏi : Thế nào là phát triển bền vững? Học sinh dựa vào kênh chữ và kênh hình, kết hợp kiến thức thực tế để tìm hiểu. Phát triển bền vững là sự phát triển lâu dài , phát triển trong hiện tại mà không làm tổn hại đến lợi ích của thế hệ mai sau , phát triển phải gắn với việc bảo vệ môi trường và tài nguyên thiên nhiên. Học sinh dựa vào sơ đồ H 38.3 tư duy, nắm bắt được kiến thức về các ngành kinh tế biển, liên hệ thực tế và học sinh tự đưa ra những phương hướng khắc phục. 4. KẾT QUẢ KHẢO NGHIỆM, GIÁ TRỊ KHOA HỌC CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU : Rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh trong dạy học ở trường THCS nói chung và dạy học Địa lí nói riêng không phải là vấn đề mới, từ các phương pháp dạy học truyền thống cho đến các phương pháp dạy học tích cực ít nhiều GV đã vận dụng vào đó, thể hiện qua hệ thống các câu hỏi, các phương pháp tổ chức học tập cho học sinh, tuy nhiên để học sinh có được kĩ năng tư duy trong học tập, trong việc giải quyết mọi vấn đề, tình huống xảy ra trong học tập, lao động và sau này vận dụng vào thực tiễn cuộc sống thì người Gv không chỉ đơn thuần là đưa ra hệ thống các câu hỏi đơn giản, mà phải chắt lọc, lựa chọn phương pháp giảng dạy phù hợp với từng đối tượng học sinh, trong xu thế đổi mới toàn diện nền giáo dục, từ nội dung, chương trình SGK, phương pháp tổ chức dạy học, thiết bị dạy học, người GV có điều kiện để rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh, đa dạng các phương pháp tổ chức học tập như phương pháp thảo luận nhóm, nêu và giải quyết vấn đề, đàm thoại- gợi mở, học sinh có thể thu thập, xử lí thông tin từ nhiều nguồn tri thức khác nhau như nội dung SGK, các tranh ảnh, bản đồ, lược đồ, qua báo chí, mạng Internet Qua nhiều năm giảng dạy, bằng kinh nghiệm của bản thân, thực hiện dạy học theo sự đổi mới, chỉ đạo của các ngành cấp trên, chất lượng bộ môn ngày càng được nâng cao, các em đã có được những kĩ năng cơ bản của việc học tập bộ môn, yêu thích môn học, kết quả học tập của học sinh chính là phản ánh trung thực nhất cho nỗ lực của cả thầy và trò. * Kết quả cụ thể đạt được trong quí 2/2020 như sau: 9
  8. Học kì I, năm học 2019-2020 : Tổng số Hs khối 9 Giỏi Khá Trung bình Yếu 225 học sinh 153 HS 55 HS 15HS 2 HS Học kì II, năm học 2019-2020 : Tổng số Hs khối 9 Giỏi Khá Trung bình Yếu 222 học sinh 168 HS 42 HS 12 HS 0 Tỉ lệ số học sinh khá giỏi nhiều hơn so với học kì 1, đặc biệt là không có học sinh yếu kém. * Ngoài rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh trong quá trình giảng dạy trên lớp tôi cũng áp dụng trong khi ôn tập, bồi dưỡng Học sinh giỏi để dự thi các cấp, đây là những em có học lực giỏi, có khả năng tư duy tốt từ đó giúp các em có được những kiến thức, kĩ năng cơ bản nhất từ lớp 6 đến lớp 9, giải quyết tốt được các vấn đề đặt ra, trong 2 năm học tôi đã bồi dưỡng cho các em đội tuyển học sinh giỏi và đạt được : * Năm học 2018-2019 : có 3 em đạt học sinh giỏi cấp Quận và 1 em đạt giải ba cấp Thành phố. * Năm học 2019-2020 :có 5 em đạt học sinh giỏi cấp Quận và 1 em đạt giải nhì cấp Thành phố ( kết quả ngày 17/6/2020). 10
  9. III. KẾT LUẬN Nhà trường không phải là nơi chỉ cung cấp những tri thức rời rạc, ngược lại thông qua những tri thức cốt lõi, chắt lọc nhà trường phổ thông phải huấn luyện người học cách học, nghĩa là chiếm lĩnh cái « tại sao » và cái « làm thế nào » của kiến thức. Muốn phát triển trí sáng tạo của học sinh phải áp dụng kiểu dạy tích cực – phân hóa. GV phải biết hướng dẫn, tổ chức cho học sinh mình tự khám phá kiến thức mới, dạy cho học sinh không chỉ kiến thức mà cả phương pháp học, trong đó cốt lõi là phương pháp tự học. Chính trong các hoạt động tự lực mà từng cá nhân hoặc nhóm nhỏ tiến hành, tiềm năng sáng tạo của mỗi học sinh được bộc lộ và phát huy. Giáo viên phải biết luyện tập cho các em có thói quen nhìn nhận một sự kiện dưới những góc độ khác nhau, biết đặt ra nhiều giả thuyết khi phải lí giải một hiện tượng, biết đề xuất những giải pháp khác nhau khi phải xử lí một tình huống. Phải giáo dục cho học sinh không vội bằng lòng với giải pháp đầu tiên được nêu ra, khong suy nghĩ cứng nhắc theo những qui tắc đã học trước đó, không máy móc áp dụng những mô hình hành động đã gặp trong các bài học, trong sách vở để ứng xử trước những tình huống mới. Trong bối cảnh nền kinh tế tri thức đang tác động mạnh mẽ đến sự phát triển của lực lượng sản xuất thì việc rèn luyện khả năng tư duy cho học sinh là điều hết sức cần thiết. Bởi lúc này, tri thức đã trở thành quyền lực, thành chìa khóa để mở cánh cửa vào tương lai. Đối với lứa tuổi học sinh THCS việc giáo dục, rèn luyện cho các em những kĩ năng sống là hết sức cấn thiết, đó chính là hành trang quí giá để giúp các em bước tiếp vào các bậc học tiếp theo. Môn Địa lí ở trường THCS với những đặc trưng riêng về nội dung, phương pháp lên lớp người giáo viên có điều kiện rèn luyện cho các em những kĩ năng sống trong đó có kĩ năng tư duy để giúp các em có khả năng lĩnh hội những tri thức trong nhà trường từ đó vận dụng vào thực tiễn cuộc sống, có những kĩ năng cơ bản của con người « lao động mới » trong xã hội mới, đó là : kĩ năng tư duy, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng giải quyết vấn đề, kĩ năng ra quyết định Trong điều kiện đề tài, tôi chỉ trình bày trong giới hạn 1 số bài ở lớp 9 và còn rất nhiều các vấn đề khác tùy thuộc vào điều kiện dạy học ở từng địa phương khác nhau mà người giáo viên có những cách khai thác vấn đề khác nhau nhằm đem lại 11
  10. hiệu quả cao nhất của quá trình dạy- học. Rèn luyện kĩ năng tư duy cho học sinh không chỉ ở lớp 9, trong môn Địa lí mà ngay từ những bậc học nhỏ hơn như Mầm non, Tiểu Học, ở các khối lớp 6, 7, 8, trong nhiều môn học khác ở trường phổ thông. Đáp ứng được mục tiêu của giáo dục phổ thông là đào tạo con người Việt Nam phát triển toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, thẫm mĩ và nghề nghiệp ; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực công dân, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày 20 tháng 6 năm 2020 Người viết Mai Trần Thị Hồng Vân 12
  11. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa, sách giáo viên Địa lí 9 2. Tài liệu hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng năm 2009 3. Giáo dục kĩ năng sống trong môn Địa lí ở trường THCS – NXB Giáo dục Việt Nam 4. Một số chuyên đề bồi dưỡng cán bộ quản lí và giáo viên THCS – Bộ Giáo dục và Đào tạo 5. Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học Địa lí ở trường THCS – NXB Giáo dục 13