Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3

pdf 26 trang vanhoa 7165
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_lop.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh lớp 3

  1. PHÒNG GD CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐỀ TÀI: GIÁO DỤC KỸ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH LỚP 3 I. PHẤN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ Cùng với xu thế phát triển của thời đại, giáo dục đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỉ XXI, mà thực chất là cách tiếp cận kỹ năng sống, đó là: Học để biết, học để làm, học để tự khẳng định mình và học để cùng chung sống. - Xuất phát từ đặc điểm của xã hội hiện nay, nên việc hình thành và phát triển kỹ năng sống trở thành một yêu cầu quan trọng của nhân cách con người hiện đại. - Giáo dục kỹ năng sống là thực hiện quan điểm hướng vào người học, một mặt đáp ứng những thách thức của cuộc sống và nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân. Là những trải nghiệm có hiệu quả nhất, giúp giải quyết hoặc đáp ứng các nhu cầu cụ thể,trong suốt quá trình tồn tại và phát triển của con người. Bao gồm cả hành vi vận động của cơ thể và tư duy của con người, hình thành một cách tự nhiên, thông qua giáo dục hoặc rèn luyện của các em Hiện nay, đa số học sinh sống trong hai môi trường có hoàn cảnh khác nhau: một là các em được sự quan tâm chăm sóc quá sức chu đáo của phụ huynh vì sống trong gia đình ít con, hoàn cảnh kinh tế ổn định; hai là những em sống trong gia đình với nhiều lo toan cho cuộc mưu sinh, phụ huynh bỏ mặc con cái. Ngoài những khó khăn lứa tuổi, các em là con em thành phố và nông thôn, trong đó có nhiều em nông thôn có nhiều hoàn cảnh khác nhau, có nhiều thói quen trong sinh hoạt còn chưa văn minh, thiếu kỹ năng thực hành, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề, kỹ năng đối phó với những khó khăn trong cuộc sống và khả năng tự phục vụ bản thân Hơn thế nữa trong nền kinh tế thị trường, cuộc sống hiện đại vận động hết sức khẩn trương và chứa đựng nhiều yếu tố khôn lường đòi hỏi thế hệ trẻ không làm chủ tri thức, rút ngắn khoảng cách về chênh lệch tri thức giữa các vùng nông thôn và thành thị mà còn phải thực sự tự tin; phải nắm bắt kịp thời các cơ hội cũng như phải có một số kỹ năng: sống khỏe, sống tốt, sống lành mạnh, cập nhật thông tin nhanh nhạy và hội nhập với thế giới, góp phần tích cực cho cuộc sống cá nhân và cộng đồng tốt đẹp hơn, nhằm thích ứng với mọi biến động của hoàn cảnh. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là một trong những nội dung được Bộ GD&ĐT triển khai khi thực hiện phong trào thi đua xây dựng “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” đối với các trường trung học phổ thông nói chung và bậc tiểu học nói riêng . 1
  2. - Dựa trên thực tế cho thấy, nếu các em có kiến thức, có thái độ tích cực mới đảm bảo sự thành công, xuất phát từ việc cải cách, đổi mới giáo dục. Từ những lí do trên, tôi chọn đề tài “Tìm hiểu việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học nhằm góp phần vào việc nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục kỹ năng sống cho các em” . II/. PHẤN THỨ HAI: NHỮNG BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ Căn cứ vào tình hình thực tế hiện nay, tôi thấy các em còn thiếu những kỹ năng sống trầm trọng. Chính vì vậy tôi đã đưa ra 1 số phương pháp giáo dục kỹ năng sống cho các em. Dựa trên thực trạng học sinh nông thôn và thành thị tôi hướng dẫn các em hình thành một số các kỹ năng cơ bản sau: 1. Kỹ năng tự phục vụ: Giáo dục cho các em từ những việc nhỏ nhất như: Giao tiếp cư xử với các bạn bè trong và ngoài lớp, nói năng phải lễ độ với tất cả mọi người xung quanh và biết làm mộr số công việc nhỏ phù hợp với độ tuổi của các em như vệ sinh cá nhân, đánh răng, rửa mặt, tắm rửa hàng ngày, vệ sinh xong phải rửa tay, trước khi ăn cơm phải rửa tay. Ngoài ra các em biết quét nhà, quét lớp, rửa ấm chén, như mắc màn trước khi đi ngủ, gấp chăn màn gọn gàng vào buổi sáng, mỗi ngày, chăm sóc cây xanh, thân thiện với môi trường, hay vui chơi giải trí giảm căng thẳng. 2
  3. Các em đang chăm sóc cây của lớp Các em làm vệ sinh lớp và nhặt rác 2. Kỹ năng giao tiếp: Kỹ năng giao tiếp là khả năng có thể bày tỏ ý kiến của bản thân theo hình thức nói, viết hoặc sử dụng ngôn ngữ có thể một cách phù hợp với hoàn cảnh và văn hóa, đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng ý kiến người khác ngay cả khi bất đồng quan điểm. Bày tỏ ý kiến bao gồm bày tỏ về suy nghĩ, ý tưởng, nhu cầu, mong muốn và cảm xúc, đồng thời giáo dục cho các em biết đánh giá tình huống giao tiếp và điều chỉnh cách giao tiếp một cách phù hợp, hiệu quả; cởi mở bày tỏ suy nghĩ, cảm xúc nhưng không làm hại hay gây tổn thương cho người khác, giúp các em có mối quan hệ tích cực với người khác, bao gồm biết gìn giữ mối quan hệ tích cực với các thành viên trong trong lớp ,khác lớp nơi sinh sống là nguồn hỗ trợ quan trọng cho các em; đồng thời biết cách xây dựng mối quan hệ với bạn là yếu tố rất quan trọng đối với niềm vui trong cuộc sống. 3
  4. Trao đổi trong giờ học nhóm 3. Kỹ năng quản lý thời gian: Giúp các em quản lý thời gian là khả năng các em biết sắp xếp các công việc theo thời khoá biểu, biết tập trung vào giải quyết công việc trọng tâm trong một thời gian nhất định. Giờ ăn, giờ học, giờ làm, giờ chơi một cách hợp lí. Kỹ năng này rất cần thiết cho việc giải quyết vấn đề, lập kế hoạch, đặt mục tiêu và đạt được mục tiêu đó; đồng thời giúp các em tránh được căng thẳng do áp lực trong việc học và việc làm . Quản lý thời gian là một trong những kỹ năng quan trọng làm chủ bản thân. góp phần rất quan trọng vào sự thành công của cá nhân . 4. Kỹ năng thể hiện sự tự tin: Các em biết tự tin vào bản thân, hài lòng với bản thân; tin rằng mình có thể trở thành một người có ích và tích cực, có niềm tin về tương lai, cảm thấy có nghị lực để hoàn thành các nhiệm vụ. Các em thể hiện sự tự tin giúp các em giao tiếp hiệu quả hơn, mạnh dạn bày tỏ suy nghĩ và ý kiến của mình, quyết đoán trong việc ra quyết định và giải quyết vấn đề, thể hiện sự kiên định, đồng thời cũng giúp các em có suy nghĩ tích cực và lạc quan trong cuộc sống, là yếu tố cần thiết trong giao tiếp. 5. Kỹ năng giải quyết vấn đề: Kỹ năng giải quyết vấn đề là khả năng của cá nhân biết quyết định lựa chọn phương án tối ưu và hành động theo phương án đã chọn, để giải quyết vấn đề hoặc tình huống gặp phải trong tập và trong cuộc sống. Để giải quyết vấn đề có hiệu quả, các em cần nhiều kỹ năng sống khác : Giao tiếp , xác định giá trị , tư duy phê phán , tư duy sáng tạo , tìm kiếm sự hỗ trợ. 6. Kỹ năng hợp tác: Hợp tác là cùng chung sức làm việc, giúp đỡ, hỗ trợ lẫn nhau trong học tập, trong công việc, một lĩnh vực nào đó vì mục đích chung, các em biết chia sẻ trách nhiệm, biết cam kết và cùng làm việc có hiệu quả với những thành viên trong lớp, trong giờ học nhóm, hoặc những nơi khác. Sự hợp tác trong học tập hay trong công việc các em điều biết giúp đỡ cho nhau hỗ trợ cho nhau, bổ sung cho nhau, tạo nên sức mạnh trí tuệ, tinh 4
  5. thần và thể chất, vượt qua khó khăn, đem lại chất lượng và hiệu quả cao hơn trong học tập, trong công việc chung. - Biết giao tiếp hiệu quả, tôn trọng, đoàn kết và cảm thông, chia sẻ với các bạn - Biết bày tỏ ý kiến, tham gia xây dựng kế hoạch hoạt động của bản thân. Đồng thời biết lắng nghe, tôn trọng, xem xét các ý kiến, quan điểm của mọi người . - Nỗ lực phát huy năng lực, sở trường của bản thân để hoàn thành tốt nhiệm vụ đã được phân công. Đồng thời biết hỗ trợ, giúp đỡ mọi người khác trong quá trình hoạt động. - Biết cùng chia sẻ đồng cam cộng khổ vượt qua những khó khăn, vướng mắc để hoàn thành mục đích, mục tiêu hoạt động chung. - Có trách nhiệm về những thành công hay thất bại, về những sản phẩm do mình tạo ra. 7. Kỹ năng tìm kiếm sự hỗ trợ: Trong cuộc sống, nhiều khi các em gặp những vấn đề, tình huống phải cần đến sự hỗ trợ, giúp đỡ của những người khác mà nếu các em không tự tìm kiếm sự hỗ trợ thì người khác khó có thể biết để giúp đỡ, chia sẻ các em có thể nhận được những lời khuyên, sự can thiệp cần thiết để tháo gỡ, giải quyết những vấn đề, tình huống của mình; đồng thời là cơ hội để các em chia sẻ, giải bày khó khăn, giảm bớt được căng thẳng tâm lý do bị dồn nén cảm xúc. Biết tìm kiếm sự giúp đỡ kịp thời sẽ giúp các em không cảm thấy đơn độc, bi quan, và trong nhiều trường hợp, giúp các em có cách nhìn mới và hướng đi mới. Giáo dục kỹ năng sống là giáo dục cách sống tích cực trong xã hội hiện đại, xây dựng những hành vi lành mạnh và thay đổi những hành vi, thói quen tiêu cực trên cơ sở giúp học sinh có thái độ, kiến thức, kỹ năng, giá trị cá nhân thích hợp với thực tế xã hội. Mục tiêu cơ bản của giáo dục kỹ năng sống là làm thay đổi hành vi của học sinh, chuyển từ thói quen thụ động, có thể gây rủi ro, dẫn đến hậu quả tiêu cực thành những hành vi mang tính xây dựng tích cực và có hiệu quả để nâng cao chất lượng cuộc sống cá nhân và góp phần phát triển xã hội bền vững. Giáo dục kỹ năng sống còn mang ý nghĩa tạo nền tảng tinh thần để học sinh đối mặt với các vấn đề từ hoàn cảnh, môi trường sống cũng như phương pháp hiệu quả để giải quyết các vấn đề đó. Khi tham gia vào bất kì hoạt động nghề nghiệp nào phục vụ cho cuộc sống đều đòi hỏi các em phải thoả mãn những kỹ năng tương ứng. Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh là giúp các em rèn luyện kỹ năng ứng xử thân thiện trong mọi tình huống; có thói quen và kỹ năng làm việc theo nhóm, kỹ năng hoạt động xã hội; Giáo dục cho học sinh thói quen rèn luyện sức khoẻ, ý thức bảo vệ bản thân, phòng ngừa tai nạn giao thông, đuối nước và các tệ nạn xã hội. Đối với học sinh tiểu học việc hình thành các kỹ năng cơ bản trong học tập và sinh hoạt là vô cùng quan trọng, ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách sau này. Kỹ năng nghe, nói, đọc, viết, múa, hát, đi, đứng, chạy, nhảy kỹ năng tư duy logic, sáng tạo, suy nghĩ nhiều chiều, phân tích, tổng hợp, so sánh, nêu khái niệm, đặt câu hỏi 5
  6. Trang bị cho học sinh những kiến thức, giá trị thái độ và kỹ năng phù hợp, trên cơ sở đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực, loại bỏ những hành vi thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt động hàng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận của mình và phát triển toàn diện về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức. Để việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh đạt hiệu quả, cần phải thay đổi tư duy, tiếp đó là tiến hành nhiều giải pháp đồng bộ. Giáo dục kỹ năng sống, theo cách hiểu hiện này là giáo dục những cách ứng phó với những thử thách như: Tai nạn, điện giật, bị ngộ độc, động vật cắn, bị xâm hại tình dục, phòng chống các tệ nạn xã hội đây mới chỉ là mục đích trước mắt. Mục đích quan trọng nhất, lâu dài đó là hình thành nhân cách cho học sinh, trong đó quan trọng nhất là giáo dục tình thân ái và các ứng xử văn hoá. Hiện nay, các nội dung dạy học đều có một phần lồng ghép giáo dục kỹ năng sống cho học sinh từ cấp tiểu học. Theo tôi nghĩ việc giáo dục kỹ năng sống được lồng vào trong các môn học là rất cần thiết. Tuy nhiên chúng ta phải giáo dục như thế nào mới là điều quan trọng. Như chúng ta thấy giáo dục là quá trình bao gồm giáo dục và giáo dưỡng. Trong giáo dục có giáo dưỡng, trong giáo dưỡng có giáo dục. Vậy để hai quá trình này tạo thành mục tiêu chung thì giáo dục đóng vai trò chủ đạo, tích cực để hướng tới mục tiêu đó. Trong xu thế phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ ngày nay, mỗi nội dung giáo dục được thể hiện theo xu hướng chung. Trong việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học được thể hiện trên nhiều mặt từ hoạt động trên lớp, hoạt động ngoại khoá và hình thức giáo dục khác. Cái lợi thế nhất trong hoạt động giáo dục đó là hoạt động của tổ chức Đội Thiêu niên Tiền phong. Các tổ chức này có nhiệm vụ bồi dưỡng giáo dục lý tưởng sống; rèn luyện cho các em nề nếp, tác phong, tư cách đạo đức; hướng các em vào tất cả các hoạt động văn hoá xã hội, thể dục thể thao và nhiều phong trào khác để giúp các em trở thành những con người tiến bộ và phát triển toàn diện. Trong xu thế phát triển hiện nay vấn đề giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học không phải là mới cũng không phải là việc gì to tác rộng lớn. Tuy nhiên nội dung nào được đưa vào giáo dục cho các em, vấn đề cụ thể nào cũng cần quan tâm đến việc giáo dục kỹ năng sống hiện nay là cấp bách. Theo tôi nghĩ vấn đề giáo dục đạo đức lối sống, văn hoá con người, văn hoá dân tộc, văn hoá ứng xử là vấn đề quan trọng nhất. Vì tôi thấy ngày nay các em học sinh thông minh, tiếp thu kiến thức nhanh và vận dụng rất tốt. Nhưmg việc ứng xử một số vấn đề mang tính văn hoá, mang tính xã hội còn rất hạn chế. Trước đây hoạt động Đội Thiếu niên sinh hoạt rất phong phú về nội dung, đa dạng về hình thức và được nhiều thời gian, còn hiện nay thì giờ học trên lớp rất nhiều, thời gian hoạt động ngoại khoá rất hạn hẹp. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh được thể hiện trên nhiều mặt từ hoạt động trên lớp, lồng vào các môn học như đạo đức, tự nhiên xã hội, Tiếng Việt, . Vì các môn học mang tính xã hội rộng lớn hoạt động ngoại khoá và các hình thức giáo dục khác. Trong phong trào “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong đó nội dung thứ ba trong năm nội dung chính là “Rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh”: - Rèn luyện kỹ năng ứng xử hợp lý với các tình huống trong cuộc sống, thói quen và kỹ năng làm việc, sinh hoạt theo nhóm. 6
  7. Các em thảo luận nhóm giáo tiếp trao đổi lẫn nhau trong giờ học tự nhiên xã hội Rèn luyện sức khỏe và ý thức bảo vệ sức khỏe, kỹ năng phòng, chống tai nạn giao thông, đuối nước và các tai nạn thương tích khác. Giờ thực hành hướng dẫn học sinh đi xe đạp an toàn - Rèn luyện kỹ năng ứng xử văn hóa, chung sống hòa bình, phòng ngừa bạo lực và các tệ nạn xã hội. Việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh có thành công hay không, phụ thuộc rất lớn vào tư chất, đạo đức và năng lực của thầy giáo, cô giáo. Muốn giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tốt, trước hết, mỗi thầy giáo, cô giáo phải giáo dục cho học sinh bằng sự nêu gương. Thầy giáo, cô giáo phải gương mẫu trong ứng xử, trong giáo dục nhân cách. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh rất cần sự chung tay, chung sức của tất cả gia đình phụ huynh, nhà trường và các tổ chức xã hội. 7
  8. - Ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo giáo viên luôn đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh. Sử dụng các phương pháp và kĩ thuật dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm kỹ năng sống trong quá trình học tập. Thực hiện lồng ghép, tích hợp giáo dục đạo đức, giáo dục ngoài giờ lên lớp, giáo dục hướng nghiệp, giáo dục giá trị sống, giáo dục kỹ năng sống trong các môn học và các hoạt động giáo dục - Giáo viên chủ nhiệm: Quan tâm gần gũi đối với các em học sinh là người cha, người mẹ thứ hai của các em để hiểu được tâm tư nguyện vọng của các em, phối hợp chặt chẽ với gia đình học sinh, làm cho họ nhận thức được tầm quan trọng và cùng với nhà trường giáo dục và rèn luyện cho con em về kỹ năng sống. - Đối với Đội + Gắn việc rèn luyện kỹ năng sống với những nội dung cụ thể của Phong trào thi đua xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực như: trang trí phòng học, chăm sóc cây xanh , Các em trang trí phòng học Chỉ đạo Đội trong nhà trường phối hợp tổ chức các hội thi văn nghệ nhân các ngày lễ lớn trong năm như: 20/11 8
  9. Thực tế các kỹ năng này được đưa vào mục tiêu cụ thể từng môn học, bài học mà tập trung nhiều nhất là môn Đạo đức, tự nhiên xã hội và tiếng Việt. Song, để có hiệu quả cao, tôi tổ chức tốt các biện pháp sau đây: - Đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính độc lập, sáng tạo của học sinh gắn với thực tiễn, có tài liệu bổ trợ phong phú, sử dụng thiết bị dạy học và ứng dụng trong dạy học, luôn tạo cho các em tính chủ động, tích cực, hứng thú trong học tập; phát huy tính sáng tạo, tạo được bầu không khí cởi mở thân thiện của lớp của trường. Trong giờ học, giáo viên cần tạo cơ hội cho các em được nói, được trình bày trước nhóm bạn, trước tập thể, nhất là các em còn hay rụt rè, khả năng giao tiếp kém qua đó góp phần tích lũy kỹ năng sống cho các em. - Quán triệt mục tiêu giảng dạy môn Đạo đức, nhất là hình thành các hành vi đạo đức ở tiết 2. Giáo viên chủ nhiệm làm tốt công tác kiểm tra đánh giá phân loại hạnh kiểm của học sinh, rèn cho học sinh khả năng tự học, tự chăm sóc bản thân, biết lễ phép, hiếu thảo, tự phục vụ bữa ăn và vệ sinh cá nhân. - Tổ chức tốt hoạt động ngoại khóa, ở phạm vi lớp khối của mình. Mỗi năm học sẽ có một số chủ đề rèn luyện kỹ năng sống được triển khai. Trong đó nhà trường cần phát huy vai trò của tổ chức Đội thiếu niên Tiền phong Hồ Chí Minh và Sao nhi đồng theo các chủ điểm hàng tháng. Tổ chức các trò chơi dân gian, hát dân ca và các loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian vào trường học, qua đó mà rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. - Giáo viên chủ nhiệm phải làm tốt công tác chủ nhiệm mà nhà trường phân công, thường xuyên thay đổi các hình thức sinh hoạt lớp, luân phiên nhau cho các em làm lớp 9
  10. trưởng, tổ trưởng, không nên trong năm học chỉ để một em làm lớp trưởng. Với học sinh tiêu học, thầy cô giáo là người mẹ hiền thứ hai của các em, các em luôn luôn nghe lời dạy bảo và làm theo những gì thầy cô dạy, thầy cô giáo phải là tấm gương sáng về đạo đức, nhất là tấm gương về cách ứng xử văn hóa, chuẩn mực trong lời nói và việc làm. Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh sẽ khó hơn khi chính thầy cô không phải là một tấm gương sáng. - Nhà trường tổ chức tốt các buổi chào cờ đầu tuần. Theo đó mục tiêu buổi chào cờ không chỉ là đánh giá xếp loại nền nếp, học tập, các hoạt động giáo dục trong tuần qua của giáo viên trực, triển khai kế hoạch tuần tới của Ban giám hiệu nhà trường cần thay đổi hình thức buổi lễ chào cờ một cách sáng tạo, rèn luyện các kỹ năng cho học sinh. Chẳng hạn như để các em được thay mặt lớp trực đánh giá, nhận xét thêm phần giao lưu với toàn trường qua các tiết mục văn nghệ, kể chuyện, câu đố, trò chơi do chính các em đứng ra tổ chức dưới sự giúp đỡ và hướng dẫn của giáo viên chủ nhiệm. Nhà trường đã tổ chức các hoạt động như diễn đàn “Văn hóa ứng xử trong học đường”, “Phòng, chống bạo lực học đường”, “Một số kỹ năng cần thiết” Vào kỳ nghỉ hè, trường học kết hợp với địa phương tổ chức các em sinh hoạt hè, tổ chức hoạt động cung cấp kiến thức và kỹ năng giữ môi trường xanh – sạch – đẹp , thân thiên với thiên nhiên, với môi trường xung quanh, quét dọn hè phố, các khu di tích để tử đó các em hình thành được thói quen biết bảo vệ môi trường sống của trái đất của con người. Công tác giáo dục kỹ năng sống cho học sinh bậc tiểu học. Qua đó, học sinh không chỉ có kiến thức văn hóa từ sách vở mà còn có kỹ năng sống, thiết thực phục vụ trong cuộc sống hàng ngày. Một nội dung quan trọng trong việc thực hiện phong trào này là các trường học coi trọng tổ chức hoạt động tập thể vui tươi, lành mạnh vào các ngày sinh hoạt ngoại khóa. Qua đó giúp hoc sinh hiểu hơn về truyền thống quê hương . Ngoài ra ban giám hiệu có kế hoạch Triển khai chiếu phim giới thiệu cho học sinh những giá trị di sản văn hoá vật thể và phi vật thể nhân loại nói chung của địa bàn học sinh, sinh sống nói riêng (như đề án “Bảo tồn và phát huy những giá trị văn hoá vùng biển đảo của quê hương đất nước” để các em biết giữ gìn và bảo vệ vùng biển thiêng liêng của tổ quốc không để kẻ thù xâm phạm. 10
  11. Biển đảo quê hương Việt Nam Xây dựng trường, lớp an toàn – xanh - sạch - đẹp. Trong đó cần chú trọng tạo môi trường tự nhiên gần gũi với cuộc sống như trồng vườn cây thuốc nam, các câu khẩu hiệu ở các cây xanh, bồn hoa để thông qua đó mà giáo dục ý thức bảo vệ môi trường ở các em. Ngoài ra, nhà trường cần phối hợp với gia đình, các tổ chức xã hội trong và ngoài nhà trường để cùng góp phần giáo dục kỹ năng sống cho các em. Tổ chức các buổi hoạt động ngoài giờ lên lớp, các cuộc thi bằng các hình thức như vẽ tranh, xé dán tranh, tiểu phẩm về bảo vệ môi trường , Sản phẩm xé dán tranh về bảo vệ môi trường của lớp 3A Hàng năm nhà trường tổ chức cho các em chăm sóc đình, Miếu, thăm và chăm sóc bà mẹ Việt Nam anh hùng neo đơn, 11
  12. Các em chăm sóc Khu di tích lịch sử Miếu Phủ Thành thăm và thắp hương các anh hùng liệt sĩ, dã ngoại, du lịch như cha ông ta đã nói: “Đi một ngày đàng, học một sàng khôn”. Dạy kỹ năng sống cho tuổi trẻ học đường trong giai đoạn hiện nay là một yêu cầu cấp thiết ở các trường phổ thông nói chung, bậc tiểu học nói riêng. Trong lúc nội dung về rèn luyện kỹ năng sống chưa được đưa vào thành một chương trình riêng mà chủ yếu được giáo viên lồng ghép trong từng bộ môn như giáo dục đạo đức, tự nhiên xã hội, Tiếng Việt hay trong các tiết chào cờ đầu tuần. Với thời lượng hạn hẹp như vậy, các em chưa được trang bị đầy đủ các kỹ năng sống. Đó là điều đang còn khó khăn, lúng túng cho giáo viên nhằm rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh. Một trong những mục tiêu được chú trọng trong năm học 2009-2010 mà Bộ GD-ĐT yêu cầu lòng ghép vào giảng dạy kỹ năng sống cho học sinh tiểu học. Mong rằng các thầy cô giáo trực tiếp giảng dạy, các nhà quản lý giáo dục quan tâm và thực hiện tốt nội dung này. Tuy nhiên, làm thế nào để triển khai hoạt động rèn kỹ năng sống một cách hiệu quả thu hút được học sinh và các bậc phụ huynh đang là trăn trở của các thầy cô giáo, các nhà trường và toàn xã hội hiện nay. Tùy vào hoàn cảnh thực tế của từng địa phương, nhà trường tổ chức sao cho sáng tạo và hiệu quả.đưa giáo dục kỹ năng sống (giáo dục kỹ năng sống) lồng ghép vào một số môn học như thế nào? Làm sao để không gây quá tải đối với học sinh là vấn đề đặt ra với nhà trường.Trong xã hội hiện đại, chúng ta phải đối diện với việc khi xã hội có gì, trong nhà trường. Hệ quả là, những vụ án học sinh hay đánh nhau có thể gây thương tích, cố ý gây thương tích mà đối tượng gây án là học sinh và nạn nhân chính là bạn học. Nhiều em học giỏi, nhưng ngoài điểm số cao, khả năng tự chủ và kỹ năng giao tiếp lại rất kém. Và dường như câu chuyện kỹ năng sống theo trào lưu, a dua và đua đòi theo cái xấu, cái tiêu cực đang là thực tế nhức nhối, học sinh chưa bao giờ được dạy cách đương đầu với những khó khăn của cuộc sống như cha mẹ ly hôn, gia đình phá sản, kết quả học tập kém Các em không được dạy để hiểu về giá trị của cuộc sống. Trong khi đó, giáo viên đến lớp chỉ mỗi việc dạy học các môn theo chương trình không có thời gian để giáo dục thêm mốt số kỹ năng sống cho các em. Việc Bộ GD&ĐT quyết định đưa giáo dục kỹ năng sống lồng ghép vào giảng dạy các môn là phù hợp với xu hướng quốc tế cũng như mong đợi của xã hội. Học sinh cần phải được rèn luyện song song cả kiến thức và kỹ năng, nếu chỉ có kiến thức không thì 12
  13. các em sẽ gặp khó khăn trong cuộc sống, dễ bị vướng vào tệ nạn xã hội. Tình trạng bạo lực học đường cũng một phần do các em thiếu các kỹ năng sống như kỹ năng kiềm chế. Cảm xúc, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn, kỹ năng đoàn kết Hiện nay; chúng ta vẫn thường hay nói đến việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh, giáo dục kỹ năng sống tức là không chỉ dạy cho học sinh kiến thức mà là giáo dục toàn diện về đức, trí , thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc sống. Hạn chế của giáo dục hiện nay là mới chủ yếu dạy chữ, chưa thật sự quan tâm đến dạy người một cách toàn diện. Các gia đình coi điểm các bộ môn là thước đo của sự tiến bộ của con cái, tạo thành sức ép buộc học sinh chỉ nghĩ đến chuyện phải học để có điểm cao. Các trường học cũng đã tích cực triển khai phong trào thi đua “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhưng cũng còn dập khuôn, máy móc. Nhiều gia đình chưa thực sự quan tâm, cùng với nhà trường giáo dục con cái cũng là nguyên nhân của tình trạng trên. Giáo dục kỹ năng sống, góp phần xây dựng đạo đức, lối sống lành mạnh cho học sinh là trách nhiệm và cần có sự phối hợp chặt chẽ của gia đình, nhà trường, và của toàn xã hội. Môi trường hoàn cảnh khác nhau thường mang đến cho các em một thiếu sót lớn trong từng bước trưởng thành, đó là kỹ năng sống. Vì vậy, việc giáo dục kỹ năng sống cho học sinh tiểu học qua học tập – sinh hoạt ở trường là điều hết sức cần thiết. III/.PHẤN THỨ BA: KẾT QUẢ VÀ HIỆU QUẢ PHỔ BIẾN ỨNG DỤNG NỘI DUNG VÀO THỰC TIỄN 1.KẾT QUẢ Theo đó, bằng trách nhiệm, bằng kinh nghiệm và vốn sống của mình, tôi cần từng bước một giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua từng bài dạy, thông qua các hoạt động ở trường, ở lớp. Qua giáo dục hàng ngày trên lớp hoặc thông qua các tiết dạy tôi thấy các em đã biết và làm quen được một số kỹ năng làm việc theo nhóm: biết cách phân công, công việc, lắng nghe ý kiến người khác, tranh luận, biết chấp nhận đúng sai, thống nhất ý kiến, thực hiện đúng ý kiến đã thống nhất. Các em biết làm việc trong tập thể. Ở môn kĩ thuật, các em biết được việc khâu may, nấu cơm, rửa chén bát, li cốc, luộc rau, quét nhà, quét lớp, chăm sóc cây đơn giản và biết tránh những việc làm xấu như nói không với thuốc lá, ma túy, rượu dứt khoát với những lời dụ dỗ, lôi kéo vào những thói hư tật xấu. Ở môn đạo đức, qua các bài học giáo viên lồng ghép thêm giáo dục các em biết chào hỏi lễ phép, kính trọng ông bà, cha mẹ, anh chị em, thầy cô giáo, biết chia sẻ yêu thương, giúp đỡ người già, em nhỏ, bạn bè, và những người có công lao to lớn , huy sinh gian khổ bảo vệ quê hương đất nước như các anh hùng thương binh - liệt sĩ, những người lao động nghèo khổ. Bằng những hành vi, thái độ, việc làm nho nhỏ hằng ngày, biết xác định các giá trị hành vi đạo đức. Ở môn tự nhiên xã hội, giáo dục các em yêu thiên nhiên, gần gũi với 13
  14. thiên nhiên, động vật, thực vật để từ đó các em biết giá trị của sống quan trọng như thế nào để từ đó các em cảm nhận được bảo vệ môi trường là hết sức quan trọng đối với cuộc sống của con người . Trong sinh hoạt hằng ngày các em biết sử dụng đúng các quy tắc : ứng xử giao tiếp với mọi người , biết thông cảm chia sẻ với mọi niềm vui, nỗi buốn với mọi người xung quanh . Luôn luôn là một người mẫu mực, trung thực là niền tự hào của cha mẹ . 2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM Là giáo viên, bản thân hiểu rõ tầm quan trọng trong công tác trồng người. Vì thế, bản thân luôn cố gắng trao dồi kinh nghiệm, học hỏi từ đồng nghiệp cũng như đúc kết kinh nghiệm giảng dạy của bản thân, nâng cao đạo đức và chuyên môn, luôn tôn trọng và kiên nhẫn, nhất là tạo cơ hội cho các em được nói, được diễn đạt, bày tỏ thoải mái ở mọi nơi mọi lúc để các em có cơ hội phát triển một cách toàn diện. - Bản thân luôn học tập, rèn luyện, nêu cao khẩu hiệu là một giáo viên có tấm gương tốt cho học sinh noi theo . - Phát huy sức mạnh tổng hợp của các lực lượng trong và ngoài nhà trường để xây dựng môi trường an toàn, thân thiện, hiệu quả, phù hợp với điều kiện của địa phương đáp ứng nhu cầu mới của xã hội . Học và học nữa , học mãi và không ngừng nghiên cứu thực hiện các giải pháp phát huy cao độ tính chủ động, khả năng sáng tạo của, giáo viên, tổng phụ trách đội xây dựng nhà trường “ Xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực”. Qua phong trào phát động của Phòng giáo dục và đào tạo Thành phố Phan Rang- Tháp Chàm- Tỉnh Ninh Thuận “Rèn kỹ năng sống đi đôi với xây dựng trường học thân thiện , học sinh tích cực” giáo viên chủ nhiệm kết hợp cùng với trách cán bộ quản lý , giáo viên, tổng phụ trách đội có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc rèn luyện cho các em phẩm chất đạo đức năng lực học tập và tự học của các em, xây dựng cho các em những kế hoạch thiết thực, những buổi học tổ, nhóm, học sinh giỏi khá kèm những học sinh yếu kém. Hình thành và phát triển các kỹ năng ứng xử hợp lý các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt . Là giáo viên chủ nhiệm người có vai trò quan trọng trong việc nhắc nhở động viên, phát hiện những mặt tích cực, tiêu cực của học sinh lớp mình nhanh nhất. “Xây dựng và tổ chức thực hiện mô hình giáo dục giá trị sống, rèn luyện kỹ năng sống cho học sinh, nâng cao hiệu quả giáo dục kỹ năng sống cho học sinh một cách tích cực” mang lại một ý nghĩa rất quan trọng và là công việc hết sức cần thiết, bởi lẽ các em sẽ học được cách rèn luyện và rút ra những kinh nghiệm, kỹ năng mà các em sẽ gặp lại trong cuộc sống, là bài học quí báu mang ý nghĩa giáo dục sâu sắc để các em tự hoàn thiện mình. Qua đó, giúp các em nhìn lại những việc làm của mình từ trong hành động, trong suy nghĩ, lời nói việc làm. Nó còn giúp các em hoàn thiện hơn về nhân cách, về lối sống, các em sẽ tích cực hơn. Có kỹ năng tham gia các hoạt động mang ý nghĩa cộng đồng, đoàn kết, yêu thương,trách nhiệm, hợp tác, hòa đồng, thân ái, đồng cảm chia sẻ với mọi người xung quanh và hơn hết là sống tốt, sống có ý nghĩa và có một niềm tin thiết tha hơn về cuộc sống hiện tại và tương lai. 3 .KẾT LUẬN 14
  15. Thực hiện giáo dục kĩ năng sống cho học sinh cũng cần được thông tin đến phụ huynh để phụ huynh thấy được tầm quan trọng của kỹ năng sống đối với con em mình, cùng với giáo viên thực hiện, theo dõi, ủng hộ động viên các em. Nếu được sự hỗ trợ của phụ huynh học sinh thì việc thực hiện sẽ dễ dàng thành công hơn. Trong quá trình thực hiện và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm, tôi đã rút ra được những bài học quí giá để bổ sung kinh nghiệm nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ năm học như sau: Thực hiện đúng theo các văn bản chỉ đạo của Ngành, bám sát chủ đề kế hoạch thực hiện phù hợp với đặc điểm tâm lý và hoàn cảnh cụ thể của từng học sinh trong lớp . Có bước chủ động trong công việc, nắm bắt kết quả qua các bước thực hiện một cách nhanh nhất để đưa vào việc điều chỉnh kế hoạch đúng lúc, đúng thời điểm. Luôn tạo sự đổi mới, sáng tạo trong công việc để tăng sự thu hút từ phía học sinh. Phối hợp nhịp nhàng với các đoàn thể trong nhà trường, phụ huynh học sinh. Luôn lắng nghe những ý kiến về những khó khăn của học sinh Mô hình này rất dễ dàng thực hiện dành cho học sinh tiểu học với các hình thức phong phú nêu trên, làm cho các em cảm nhận được kỹ năng sống, giá trị sống là những kỹ năng chuẩn mực trong một xã hội văn minh. Nó có thể xem là hành trang hết sức cần thiết cho các em trong cuộc sống, là những vốn sống không thể thiếu đối với các em, trong thời kỳ đất nước ta đang hội nhập với nền kinh tế thế giới, đang tiến hành công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Trước mắt giúp cho các em đổi mới phương pháp, tích cực học tập, có năng lực tự học và biết tự điều chỉnh hành vi, tự giác chấp hành tốt nội qui nhà trường. Chuyên đề có được sự thành công như đã nêu trên là nhờ sự quan tâm chỉ đạo của nhà trường hơn hết là sụ phối hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường sự hăng hái tích cực của các thành viên là học sinh . Cùng kết hợp với phụ huynh học sinh đoàn kết, phối hợp với nhau cùng đưa các em trở thành những học sinh có đủ đức và tài qua sự kết hợp giáo dục toàn diện về đức, trí, thể, mỹ, giúp các em biết ứng xử có văn hóa, biết cách xử lý những tình huống xảy ra trong cuộc sống, một cách có hiệu quả thiết thực và có hiệu quả cao trong phong trào giáo dục toàn diện. Toàn khối nói chung Lớp 3A nói riêng quyết tâm thực hiện các tiêu chí thi đua xây dựng phong trào, gương tốt việc tốt và học tấp tốt năm điều Bác Hồ dạy “Tuổi nhỏ làm việc nhỏ, tuy theo sức của mình. Chính vì vậy mà các em đã thực hiện được một cách tích cực” theo các quy định của trường, lớp. Hình thành và phát triển các kỹ năng ứng xử hợp lý các tình huống trong cuộc sống, sinh hoạt Bản thân đã cố gắng áp dụng những kinh nghiệm, sáng tạo thêm những phương pháp mới nhằm nâng cao nhiều kỹ năng sống tốt cho học sinh từ môi trường giáo dục ở nhà trường, giáo dục và xây dựng cho các em có năng lực tốt, lối sống lành mạnh để các em có thể tự lập, tự tin hơn trong cuộc sống, đem lại niềm vui, hạnh phúc cho các em, gia đình và xã hội. Trên đây là những suy nghĩ của bản thân về việc nghiên cứu một số biện pháp giáo dục và rèn kỹ năng sống cho học sinh lớp 3 thông qua các môn học và hoạt động giáo dục ngoài giờ lên lớp. 15
  16. Rất mong được nhận sự giúp đỡ góp ý bổ sung của đồng nghiệp và ban lãnh đạo các cấp để đề tài hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! Phan Rang, ngày 14 tháng 3 năm 2014 Người viết Nguyễn Thị Hoa Nhận xét của Hội đồng sáng kiến cơ sở : Trường tiểu học Phủ Hà I PHÒNG GD- TP. PR-TC CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG TH PHỦ HÀ 1 Độc lập – Tự do – Hạnh phúc ĐỀ TÀI: PHƯ NG PHÁP R N ĐỌC DIỄN CẢM CHO HỌC SINH LỚP 3 I.Ph n th nhất : Đặt vấn đề Giáo dục bậc tiểu học là một khoa học giáo dục khó nhất. Nó là nền móng đầu tiên để giúp con người tồn tại và phát triển. Đặc biệt là môn tiếng Việt có vị trí quan trọng trong tất cả các phân môn ở trường, nó hình thành khả năng giao tiếp, là cơ sở để phát triển tư duy cho trẻ để tiếp thu các môn học khác. Tiếng việt ở tiểu học gồm nhiều phân môn : Tập đọc, học thuộc lòng, luyện từ và câu, kể chuyện , tập làm văn, chính tả, tập viết Mỗi phân môn đều có một chức năng riêng nên khi dạy ngữ văn ở tiểu học, giáo viên cần chuẩn bị vốn kiến thức vững vàng để 16
  17. truyền thụ cho học sinh khi lên lớp. Tập đọc là môn học mang tính chất tổng hợp vì vậy ngoài nhiệm vụ dạy học giáo viên cần trao dồi kiến thức về Tiếng Việt cho học sinh(về phát âm, từ ngữ, câu văn ) kiến thức bước đầu về văn học, đời sống và giáo dục tình cảm thẩm mỹ. Môn tập đọc ở tiểu học nói chung và ở lớp 3 nói riêng đặt ra một nhiệm vụ quan trọng. Trong các giờ tập đọc, học thuộc lòng học sinh biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ đã tạo cho các em sự say mê hứng thú và để lại một vốn văn học đáng kể cho các em. Cũng thông qua các bài văn, học sinh học và hiểu được về các vùng miền của đất nước, hiểu được công sức của các tầng lớp nhân dân đang ra sức xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiểu được các truyền thống quý báu của dân tộc. Môn tập đọc có tác dụng mạnh mẽ trong giáo dục mỹ cảm, học sinh yêu cái đẹp, rung cảm trước cái đẹp trong thiên nhiên, cái đẹp trong xã hội, cái đẹp trong văn chương. Môn này có thể rèn luyện cho học sinh tư duy trừu tượng và cả tư duy lôgic. Giờ tập đọc ngoài việc dẫn dắt học sinh và cho học sinh tìm đại ý để phát triển óc tổng hợp, tìm bố cục để phát triển óc phân tích. Ngoài ra học sinh còn được rèn luyện óc tưởng tượng, phán đoán, ghi nhớ. Môn tập đọc không chỉ có nhiệm vụ trên mà còn kết hợp chặt chẽ với chương trình Tiếng việt.Qua các bài văn chọn lọc học sinh vừa cảm thụ được cái hay, cái đẹp vừa học được cách sử dụng từ chính xác, cách đặt câu gọn gàng sinh động, được luyện về nghĩa âm, chính tả, tập làm văn. Ở bậc tiểu học nói chung và lớp 3 nói riêng môn tập đọc có 2 yêu cầu chính là : + Rèn kĩ năng tập đọc. + Giúp học sinh cảm thụ tốt bài văn. Học môn tập đọc, việc đọc và cảm thụ bài văn là hai khâu có quan hệ mật thiết với nhau, gắn bó hổ trợ đắc lực cho nhau. Cảm thụ tốt giúp cho việc đọc diễn cảm tốt, đọc diễn cảm tốt giúp cho việc cảm thụ bài văn thêm sâu sắc. Thật vậy học sinh có đọc thông thạo được và trên cơ sở đã hiểu nội dung câu thơ, câu văn, đoạn thơ, đoạn văn thì các em mới thể hiện được cảm xúc có nghĩa là đã hiểu tường tận về nội dung và nắm được ý nghĩa giáo dục của bài. Điều đó khẳng định rằng trong tiết dạy tập đọc lớp 3, việc luyện rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh là rất cần thiết. Trong giờ học, học sinh biết đọc diễn cảm thì tiết học mới có hiệu quả cao và mới thể hiện được tầm quan trọng của bộ môn. Qua các lớp học dưới, học sinh lớp 3 đã có điều kiện và kĩ năng để đọc diễn cảm tốt. Đọc diễn cảm chính là nghệ thuật đọc thơ văn được tiến hành trong những điều kiện của nhà trường phổ thông.Trong những tầm quan trọng đặc biệt của bộ môn tập đọc nói chung và việc rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 nói riêng trong giờ tập đọc, để có kết quả cao mỗi giáo viên phải nhận thức rõ trong phương pháp giảng dạy. Trong quá trình dạy tập đọc lớp 3 , tôi nhận thấy chất lượng đọc diễn cảm của học sinh còn yếu. Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đòi hỏi về trí thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ nói và viết là vô cùng cần thiết cho mỗi người.Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được mà phải trải qua một quá trình rèn luyện kiên trì ngay từ đầu . 17
  18. Để góp phần nâng cao chất lượng đọc cho học sinh, tôi mạnh dạn đề xuất một vài kinh nghiệm nhỏ của mình về vấn đề : Phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3”. II. Ph n th hai : Giải quyết vấn đề 1. Điều tra hiện trạng: Qua 7 năm giảng dạy ở lớp 3 cũng như quá trình quan sát, dự giờ việc dạy và học của thầy trò trong thời gian trước đây tôi có những nhận xét sau : Về người dạy học : Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới : Thầy thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để giảng dạy phân môn tập đọc nhưng chất lượng chưa cao. Bởi vì giáo viên chỉ coi trọng một vấn đề đọc thành tiếng to, rõ hoặc có hướng dẫn đọc diễn cảm nhưng chỉ lướt qua không có tranh để giới thiệu bài, rèn đọc diễn cảm cho học sinh còn ít. Về người học : Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý và đọc đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít, do vậy không nêu được ý chính của bài, chưa biết đọc diễn cảm toàn bài văn. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm. Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh ngay từ đầu năm học tôi đều thấy số lượng học sinh đã biết đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh lớp 3B đầu năm học 2014-2015 này, tôi có số lượng cụ thể như sau : Tổng s học sinh Đọc nh ấp úng Đọc to r lưu loát Đọc di n cảm 36 10 = 27,8% 20= 55,5% 6 = 16,7% 2. Phương pháp nghi n c u Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi : Phải làm gì ? Làm như thế nào ? Để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hợp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là : Phương pháp điều tra, phương pháp đối chứng và phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước , với kết quả năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu để rút ra bài học kinh nghiệm . 3. Nh ng c ng việc thực tế đ làm : 18
  19. Từ yêu cầu thực tiễn của môn tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh lớp 3, tôi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kỹ năng đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra. Trong giảng dạy môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức,đặc biệt là việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt , trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng đắn, có ý thức , trôi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là chất lượng đọc được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu cái đang đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được. Đọc diễn cảm thể hiện ở kỹ năng dùng ngữ điệu , biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc cụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng câu kể, câu hỏi biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc diễn cảm là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện được trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng song cũng không nên qua nhấn mạnh ở các phụ âm : tr- ch; r-gi; n-l; s-x làm giọng đọc mất tự nhiên . Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh như sau : Phương pháp tiến hành : Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kỹ năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng : - Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm - Đối tương 2 : Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát. - Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, lý nhí, ấp úng , ngọng. Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ cho học sinh những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá , đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kỳ và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn , bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em đóng một quyển sổ để ghi những câu , những đoạn, bài văn, bài thơ hay có giá trị về nội dung và nghệ thuật . Sau khi tiến hành như vậy , tôi vào giảng dạy các bước sau : a. Đối với học sinh : 19
  20. Trước khi học bài tập đọc , tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi ,tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh. Ví dụ : Khi dạy bài Cậu bé thông minh” Bài văn được viết theo thể kể chuyện- kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, nhanh trí. Tình tiết câu chuyện hấp dẫn, sinh động. Khi đọc học sinh cần làm rõ những chi tiết đó bằng cách đọc nhấn giọng vừa phải ở các từ ngữ. âm ĩ” , tìm được”, trọng thưởng” Đặc biệt những câu đối thoại giữa Đức vua và cậu bé ngữ điệu đọc phải toát lên vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ nhưng thể hiện sự thông minh của cậu bé. Cậu bé kia, sao cháu đến đây làm ầm ĩ ?” Và câu trả lời hồn nhiên vô tư của cậu bé . Muôn tâu Đức vua – cậu bé đáp- bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa cho em” Vua quát : - Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao được ! b. Đối với giáo viên : Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc câu hỏi và câu cảm trong bài tập đọc thật tốt. - Với câu hỏi cần hỏi cao giọng ở cuối câu đồng thời nhấn giọng ầm ĩ” . - Với câu cảm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lưu ý sự khác nhau khi đọc câu cảm thứ nhất. - Thằng này láo, dám đùa với trẫm. - ( thể hiện sự hách dịch của nhà vua) - Với câu thứ hai. - Bố ngươi là đàn ông/ thì sao đẻ được !” (Khi đọc gần như là một câu hỏi – tiếng được” hơi cao giọng ) Đối với những bài văn xuôi khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt ( câu hỏi, câu cảm ) để hướng dẫn học sinh đọc. Giaó viên còn phải chú trọng cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm . Đặc biệt phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu câu nhưng đó là chỗ tách ý . Ví dụ : Khi dạy bài : Chiếc áo len” – Tiếng việt 3- tập 1. Nằm cuộn tròn/ trong chiếc chăn bông ấm áp, Lan ân hận quá m muốn ngồi dậy / xin lỗi mẹ và anh, nhưng lại xấu hổ/ vì mình đã vờ ngủ p mặt xuống gối, em mong trời mau sáng / để nói với mẹ : Con không thích chiếc áo ấy nữa. Mẹ hãy để tiền/ mua áo ấm cho cả hai anh em” Cần đọc với giọng nhẹ nhàng, ngắt đúng, nhấn giọng ở từng gạch dưới. Đặc biệt câu nói của Lan khi đọc học sinh thể hiện dưới sự ân hận, có như vậy mới biểu đạt được trạng thái cảm xúc của tác giả. Đối với các bài thơ , tùy theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. 20
  21. Rủ nhau/ xem cảnh/ Kiếm Hồ (2/2/4) Xem cầu Thê Húc,/ xem chùa ngọc Sơn(4/4) Đài Nghiên,? Tháp Bút,/ chưa mòn(2/2/2) Hỏi ai xây dựng/ nên non nước này(4/4) ( Cảnh đẹp non nước - Tiếng việt 3) Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm điệu mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải dựa vào các dòng cụ thể để ngắt dòng cho đúng. Chỉ có ngắt nhịp đúng câu thơ thì ý nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ cho người nghe thấy được vẻ đẹp của đất nước Việt Nam cụ thể là vẻ đẹp của Hồ Gươm ở thủ đô Hà Nội . Trong chương trình cải cách có rất nhiều bài thơ thuộc thể thơ chữ. Nên việc luyện đọc thể thơ này cũng rất cần thiết. Ví dụ : Bài Anh Đom Đóm” ( Tiếng việt – lớp 3 ) Mặt trời gác núi Từng bước, từng bước Bóng tối lan dần Vung ngọn đèn lồng Anh Đóm chuyên cần Anh Đóm quay vòng Lên đèn đi gác Như sao bừng nở. Theo làn gió mát Gà đàn rộn rịp Đóm đi rất êm Đi suốt một đêm Gáy sáng đàng đông Lo cho người ngủ Tắt ngọn đèn lồng Đóm lui về nghỉ Bài thơ Anh Đom Đóm” thuộc thể thơ chữ mang âm hưởng của một bài đồng giao vui nhộn , tươi mát, hồn nhiên, khi được học sinh cần thể hiện âm điệu của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với các con vật của bà con nông dân. Việc đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn thân mật, vui vẻ, ngạc nhiên, căm giận. Đoạn thơ có nhiều ý hóm hỉnh, vui vẻ cần đọc nhấn giọng một số từ ngữ kèm theo cử chỉ nét mặt để thể hiện sắc thái đó. Vui tươi, phấn khởi như khi dạy đọc bài Bộ đội về làng” Các anh về . Đọc liền vắt dòng từ câu 1 sang câu 2 Mái ấm/ nhà vui/ Tiếng hát/ câu cười. . Câu 3 đọc liền vắt dòng sang câu 4 21
  22. Rộn ràng xóm nhỏ// Các anh về Tưng bừng trước ngõ Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau Mẹ thì bịn rịn áo nâu Vui đàn con ở rừng sâu mới về. Với bài : Chú ở bên Bác Hồ” cần đọc với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dàiở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú. Chú ở đâu, ở đâu ? Trường Sơn dài dằng dặc? Trường Sa đảo nổi chìm? Hay Kon Tum, Đắc Lắc? Mẹ đỏ hoe đôi mắt Ba ngước lên bàn thờ Đất nước không còn giặc Chú ở bên Bác Hồ Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một không khí thoải mái để học sinh dễ trực cảm với bài văn, có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đócác em có thể học tập và bắt chước thầy. Trong khi rèn đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến những học sinh rụt rè nhút nhát, Tôi thường xuyên khuyến khích không gắt gỏng để các em luống cuống. - Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp. 22
  23. - Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề ra yêu cầu rèn đọc ở nhà, kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến hành thường xuyên không được ngắt quãng. Tóm lại sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học sinh thông qua đọc thành tiếng( cả 3 đối tượng giỏi khá trung bình) xem các em đã đọc diễn cảm chưa. 4. Kết quả : Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bền bỉ áp dụng những biện pháp rèn đọc như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát và có số liệu như sau: Lớp 3B Sĩ số : 3 học sinh Đọc nh ấp úng. Đọc to r lưu loát. Đọc di n cảm. Đ u năm 10 = 27,8% 20 = 55,5 % 6 = 16,7% Cu i học kì I 5 = 13,8 % 18 = 50 % 13 = 36,2% Cu i học kì II 0 21= 58,4% 15 = 41,6 % 5. Lời ình : Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép, tôi rất phấn khởi thâý trong các giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc diễn cảm được nâng cao rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ lí nhí, chưa trôi chảy, đến cuối năm các em đã đọc to, 23
  24. rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình khá trở lên đã đọc diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được mỹ mãn như ý nhưng đó cũng là thành công bước đầu nghiên cứu, mày mò ra biện pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh của mình. 6. Bài học kinh nghiệm Trên đây là một vài phương pháp rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3, để đạt được những kết quả trên qua kinh nghiệm giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận sư phạm như sau : Muốn rèn cho học sinh đọc diễn cảm tốt trước hết người thầy phải có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của thầy phải chuẩn, hay, có sức cuốn hút học sinh . Vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của thầy giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy đọc và coi đó là chuẩn mực để bắt chước để so sánh đánh giá với giọng đọc của mình. Chính vì vậy thầy cô cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ cô đọc, nói đều phải chuẩn mực. Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh. Giáo viên cần phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn , sách soạn bài để học sinh nắm vững nội dung bài, hướng dẫn rõ cách đọc từng đoạn văn, đoạn thơ cho học sinh hiểu. Thực tế cho thấy sách giáo khoa Tiếng Việt, sách soạn bài và sách hướng dẫn phải thừa nhận là có nhiều ưu điểm nổi bật. Tìm hiểu phần hướng dẫn chung trong sách đa số giáo viên đã nắm được cơ bản của phương pháp giảng dạy mới song đi sâu vào từng bài cụ thể thì sự lúng túng và vấp váp lại không ít. Do vậy nắm vững sách , hiểu ý đồ của người biên soạn là quan trọng song chưa đủ còn đòi hỏi đến vai trò chủ động sáng tạo và ứng xử linh hoạt đối với từng đối tượng học sinh khác nhau mới đem lại hiệu quả cao. Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, phát hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trong học sinh. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận tình chu đáo. Giảm bớt hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong khi học sinh đọc còn yếu. Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn cho các em đọc trước đám đông, tổ chức thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp, trong trường vào những ngày sinh hoạt tập thể, k niệm ngày lễ lớn. êu cầu mỗi học sinh phải có quyển sổ ghi chép để chép những câu thơ, bài văn hay dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Luôn tạo cho học sinh làm quen với nhiều hình thức học tập . Tạo điều kiện cho vấn đề học cá nhân là chủ yếu, học tổ có gắn liền thi đua.Chăm sóc từng học sinh, học sinh 24
  25. giỏi được nâng cao hơn, học sinh yếu luôn được theo dõi, giúp đỡ các em tránh tự ti trong học tập. Luôn tự tin, tự giác tham gia giải quyết vấn đề trong học tập Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn tập đọc với các môn học khác như : Tập Làm Văn, kể chuyện 7. Phạm vi ng dụng đề tài Trên đây là một số suy nghĩ và việc làm cụ thể của tôi về vấn đề rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 trường tiểu học. Với phương pháp rèn đọc này sẽ có tiền đề để tiếp tục dạy môn tập đọc ở lớp , đạt kết quả tốt. Vì vậy nếu có thể cải tiến mở rộng cách hướng dẫn thì đề tài này có thể áp dụng tốt khi dạy môn tập đọc lớp , đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi cao hơn. 8. Nh ng vấn đề c n kiến ngh Để đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi mạn phép đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo như sau : Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, nhất là môn tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên. Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho giáo viên, cho học sinh trong khối, trong trường và thành phố. Những vấn đề còn bỏ ngỏ : Qua quá trình giảng dạy môn tập đọc, đặc biệt về rèn đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 tôi thấy còn nhiều khó khăn và có những mặt hạn chế. Về học sinh : Một số em học sinh còn đọc ngọng, đọc vẫn chưa được hay lắm, bản thân cần phải học hỏi rèn luyện nhiều hơn. III. Ph n th 3 : Kết luận Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày, tôi đi đến kết luận rằng : Muốn rèn luyện cho học sinh đọc diễn cảm tốt thì vai trò của ngườithầy giáo đặc biệt quan trọng bởi người thầy giáo luôn là tấm gương sáng mẫu mực trong cách đọc diễn cảm để học sinh bắt chước.Trong mỗi giờ tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sữa chữa kịp thời tùy theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo. Vì vậy mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, luôn luôn trao dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiệm của các bạn đồng nghiệp để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn đặc biệt là môn tập đọc ở tiểu học. Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ tập đọc lớp 3, trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ , kinh nghiệm , bí quyết nghề nghiệp riêng của mình 25
  26. nhằm mục đích cuối cùng là nâng cao chất lượng dạy và học. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được các cấp trên cùng các bạn đồng nghiệp góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của tôi thêm phong phú, hoàn thiện góp phần nhỏ bé đưa sự nghiệp giáo dục phát triển ngày càng tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Phan Rang, ngày 20 tháng 3 năm 2015 Người viết Nguyễn Thị uế Chi Nhận xét của Hội đồng sáng kiến cơ sở : Trường tiểu học Phủ Hà I 26