Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 3 phát âm chuẩn tiếng Việt và đọc diễn cảm

pdf 16 trang Giang Anh 21/03/2024 2642
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 3 phát âm chuẩn tiếng Việt và đọc diễn cảm", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_giup_hoc_sinh_lop_3_phat_am_chuan_tien.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Giúp học sinh lớp 3 phát âm chuẩn tiếng Việt và đọc diễn cảm

  1. Ví dụ: * Các âm/ vần, thường mắc khi đọc và viết: “ a /ă ”; “ ơ / â ”; “ s / x ”; “ i / y ”; “ ch / tr ”; “nh / ng/ ngh”; “ anh/ ang”; “ an/ăn/ang” ;” ong/ ông”; “ơng/âng/ơng”; “ân/ ơn”; ắc/ ác” ; “ at/ ac” v v * Các thanh thường mắc lỗi, như: “thanh nặng/ thanhhỏi/ thanh ngã ” ; “ thanh ngã/ thanh sắc”; “thanh huyền/thanh nặng” vv Đặc biệt ngày nay xã hội ta ngày càng phát triển thì nhu cầu đồi hỏi về tri thức con người ngày càng cao, trong đó ngôn ngữ “nói chuẩn và viết đúng chính tả” của môn Tiếng Việt là vô cùng cần thiết cho mỗi người. Mỗi thành công không phải tự nhiên mà có được, mà phải trải qua một quá trình rèn luyện và kiên trì uốn nắn trong nhà trường và gia đình ngay từ đầu. Để góp phần nâng cao chất lượng cho học sinh nói - viết đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm, từ đó cảm nhận nội dung ý nghĩa của câu chuyện, bài văn, bài thơ. Theo tôi được biết thì đề tài này từ ngày thành lập trường Trần Quốc Toản đến nay chưa có giáo viên nào nghiên cứu để áp dụng tại lớp hay trong khối. Vì thế tôi mạnh dạn chọn đề tài này với hy vọng sẽ đóng góp một vài kinh nghiệm nhỏ của mình về vấn đề: “giúp học sinh lớp 3 phát âm chuẩn Tiếng Việt và đọc diễn cảm”, cùng với việc giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt . TaiLieu.VN Page 4
  2. PH ẦN THỨ HAI Giải quyết vấn đề Điều tra hiện trạng Qua hai năm giảng dạy ở lớp 3 tại điểm trường thôn Đăk Na, cũng như quá trình quan sát, tiếp cận, sống và cư trú tại điểm trường lâu năm với người dân địa phương. Đồng thời căn cứ vào quá trình dạy và học của thầy trò trong thời gian trước đây, tôi có những nhận xét sau: Về người dạy học: Giáo viên khá tôn trọng phương pháp học mới: “Thầy thiết kế, trò thi công” lấy học sinh làm trung tâm. Giáo viên cố gắng tìm tòi nghiên cứu để giảng dạy phân môn tập đọc chỉnh sửa lỗi các chữ gần âm, nhưng chất lượng đem lại chưa cao. Bởi vì giáo viên chỉ coi trọng vấn đề đọc thành tiếng, đọc to, rõ hoặc có hướng dẫn sửa tại lớp và tổ chức đọc diễn cảm, nhưng việc liệt kê các lỗi sai cụ thể, sửa chữa hằng ngày để rèn cho học sinh phát âm chuẩn, đọc diễn cảm thì còn ít. Về người học: Học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, nhưng còn chậm và phát âm còn sai nhiều lỗi ở các dấu thanh, các phụ âm đầu và các âm vần khó dễ lẫn, do lỗi phát âm địa phương. Ví dụ như: * Các âm/ vần, thường mắc khi đọc và viết: “ a /ă ”; “ ơ / â ”; “ s / x ”; “ i / y ”; “ ch / tr ”; “nh / ng/ ngh”; “ anh/ ang”; “ an/ăn/ang” ;” ong/ ông”; “ơng/âng”; “ân/ ơn”; ắc/ ác” ; “ at/ ac” vv * Các thanh thường mắc lỗi, như: “thanh nặng/ thanhhỏi/ thanh ngã ” ; “ thanh ngã/ thanh sắc”; “thanh huyền/thanh nặng” vv Vì thế chất lượng cảm nhận nội dung văn bản trong bài học, câu chuyện, bài văn, bài thơ của học sinh còn hạn chế. Các em không nêu được ý chính của bài, chưa biết đọc diễn cảm toàn bài văn. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngừng nghỉ như nhau, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm. Chưa thể hiện được lời của nhân vật Qua điều tra khảo sát chất lượng học sinh đầu năm học 2011 – 2012, tôi đều thấy số lượng học sinh đã biết đọc đúng chuẩn âm và đọc diễn cảm bài văn, bài thơ rất ít, cần được quan tâm và có phương pháp cải thiện hiệu quả. Cụ thể điều tra chất lượng đọc của học sinh lớp 3C đầu năm học 2011-2012 này, tôi có số liệu cụ thể như sau: Tổng số học Đọc nhỏ, ấp úng, lí Đọc to, lưu loát, sai Đọc to, đúng chuẩn TaiLieu.VN Page 5
  3. sinh nhí, âm và diễn cảm vần cuối dễ lẫn 15 6 = 40 % 6 = 40 % 3 = 20 % 1/ Phương pháp nghiên cứu Trước hiện trạng đó, tôi đã phân tích và tự đặt ra cho mình câu hỏi: phải làm gì? làm như thế nào? để khắc phục tình trạng đó và nâng cao chất lượng đọc cho học sinh. Qua quá trình nghiên cứu tôi đã tiến hành sử dụng phối hớp nhiều phương pháp nghiên cứu đó là: -Phương pháp điều tra. -Phương pháp đối chứng . -Phương pháp tổng quát. Phương pháp điều tra không chỉ dừng lại ở điều tra thực trạng mà còn phải điều tra từng giai đoạn trong suốt năm học. Ở mỗi giai đoạn tôi đều lấy kết quả đã đạt được để đối chứng với kết quả giai đoạn trước, với kết quả năm trước và cuối cùng đi tổng hợp số liệu và rút ra bài học kinh nghiệm. 1/ Những công việc thực tế đã làm: Từ yêu cầu thực tiễn của môn tập đọc nói chung và rèn luyện kỹ năng nói – viết đúng chuẩn âm cho học sinh lớp 3, tôi đã tự đặt cho mình phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng, yêu cầu của bộ môn, đặc biệt về nội dung và phương pháp rèn kĩ năng đọc đúng, đọc diễn cảm để đáp ứng với yêu cầu đề ra. Trong giảng dạy môn tập đọc, qua nhiều năm gần đây, tôi đã tích cực nghiên cứu, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy, cách truyền thụ kiến thức, đặc biệt là việc rèn luyện kĩ năng đọc đúng âm, đúng thanh điệu đọc diễn cảm cho học sinh. Muốn rèn cho học sinh đọc tốt, trước hết trong mọi giờ tập đọc giáo viên cần hướng dẫn học sinh cách phát âm chuẩn, đọc đúng dấu thanh, có ý thức, đọc trôi chảy, sau đó mới yêu cầu học sinh đọc diễn cảm. Trong phương pháp dạy học những yêu cầu đó gọi là “chất lượng đọc” được thể hiện đồng thời và chi phối lẫn nhau. Tính đúng đắn sẽ nâng cao tốc độ đọc và cho phép đọc có ý thức hơn. Nếu không hiểu cái đang đọc thì không thể đọc lưu loát và diễn cảm được. TaiLieu.VN Page 6
  4. Phát âm chuẩn thể hiện ở các dấu thanh, ngữ điệu, biết nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở dấu phẩy, hoặc chỗ cần tách ý, biết đọc liền các tiếng trong từ ghép, từ láy hoặc c ụm từ cố định. Ngoài ra cần biết đọc đúng giọng trong các câu kể, câu hỏi biết phân biệt giọng người dẫn chuyện với từng tuyến nhân vật có tính cách khác nhau. Đọc chuẩn là biểu hiện cao của đọc có ý thức và chỉ thực hiện đựơc trên cơ sở đọc đúng và đọc nhanh. Do vậy dù đọc ở mức độ nào cũng phải yêu cầu phát âm đúng, song cũng không nên qua nhấn mạnh ở các phụ âm: tr – ch; r d– gi; n – l; s – x làm giọng đọc mất tự nhiên. Để đạt được những yêu cầu trên tôi đã tiến hành phương pháp giúp cho học sinh phát âm chuẩn Tiếng Việt như sau: * Phương pháp tiến hành. Sau khi nhận lớp, tôi đã cho lớp ổn định chung về cách tổ chức lớp. Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh về lựa chọn, đặc biệt là về kĩ năng đọc và phân loại học sinh theo ba đối tượng: - Đối tượng 1: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng, lý nhí, ngọng. - Đối tượng 2: Học sinh biết đọc to, lưu loát. - Đối tượng 3: Học sinh đọc to, chuẩn âm và đọc diễn cảm. Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Những em đọc yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để đôi bạn cùng tiến. Tôi tiến hành công việc tiếp theo là giới thiệu cấu tạo chương trình môn tập đọc để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu tầm quan trọng, yêu cầu cơ bản về việc rèn luyện kỹ năng đọc, cách phát âm chuẩn các phụ âm và 6 thanh điệu, vần cuối, âm gần nhau dễ lẫn để giúp các em đọc – viết đúng bài văn, bài thơ của từng chủ đề. Hướng dẫn mỗi em đóng một quyển sổ để ghi lại những âm, vần, tiếng, từ các thanh dễ lẫn để theo dõi sửa chữa khi đoc và viết. Để các em luyện và ghi nhớ. Sau khi tiến hành như vậy, tôi đưa vào giảng dạy theo các bước sau: Bước 1: a/ Đối với học sinh: Trước khi học bài tập đọc, tôi dặn học sinh đọc nhiều lần ở nhà cho trôi chảy. Sau đó đánh dấu vào các tiếng, các từ có âm, vần và dấu thanh dễ lẫn khó phát âm. Chuẩn bị TaiLieu.VN Page 7
  5. trư ớc phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù h ợp với từng đối tượng học sinh. Ví dụ: Khi dạy bài “Cậu bé thông minh” Bài văn được viết theo thể kể chuyện - kể về một cậu bé thông minh, tài giỏi, nhanh trí. Tình tiết câu chuyện hấp dẫn, sinh động. Khi đọc học sinh cần làm rõ những chi tiết đó bằng cách đọc nhấn giọng vừa phải ở các từ ngữ. “ầm ĩ”, “tìm được”, “trọng thưởng” Đặc biệt những câu đối thoại giữa Đức vua và cậu bé ngữ điệu đọc phải toát lên vẻ ngộ nghĩnh, ngây thơ nhưng thể hiện sự thông minh của cậu bé. “Cậu bé kia, sao dám đến đây làm ầm ĩ?” Và câu trả lời hồn nhiên vô tư của cậu bé. “Muôn tâu Đức vua - cậu bé đáp - bố con mới đẻ em bé, bắt con đi xin sữa cho em”. Vua quát. - Thằng bé này láo, dám đùa với trẫm! Bố ngươi là đàn ông/ thì đẻ sao được! Giáo viên cần hướng dẫn học sinh đọc câu hỏi và câu cảm trong bài tập đọc thật tốt. - Với câu hỏi cần hỏi cao giọng ở cuối câu đồng thời nhấn giọng “ầm ĩ”. - Với câu cảm, giáo viên phải hướng dẫn học sinh lưu ý sự khác nhau khi đọc câu cảm thứ nhất. Thằng này láo, dám đùa với trẫm. (Thể hiện sự hách dịch của nhà vua). Với câu thứ hai. “Bố ngươi là đàn ông / thì sao đẻ được!” (Khi đọc gần như là một câu hỏi - tiếng “được” hỏi cao giọng). Đối với những bài văn xuôi khi đọc ngoài việc tìm những dấu câu đặc biệt (câu hỏi, câu cảm) để hướng dẫn học sinh đọc. Giáo viên còn phải chú trọng cách nghỉ hơi ở dấu chấm, ngắt hơi ở chấm phẩy, dấu hai chấm. Đặc biệt phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dâu câu nhưng đó là chỗ tách ý. TaiLieu.VN Page 8
  6. Ví dụ: Khi dạy bài: “Chiếc áo len” - Tiếng việt 3 - tập 1. “Nằm cuộn tròn / trong chiếc chăn bông ấm áp, Lan ân hận quá Em muốn ngồi dậy / xin lỗi mẹ và anh, nhưng lại xấu hổ / vì mình đã vờ ngủ Áp mặt xuống gối, em mong trời mau sáng / để nói với mẹ : “Con không thích chiếc áo ấy nữa. Mẹ hãy để tiền/ mua áo ấm cho cả hai anh em””. Cần đọc đúng, ngắt đúng, phát âm chuẩn ở các tiếng, từ đã gạch chân. Đặc biệt câu nói của Lan khi đọc học sinh thể hiện dưới sự ân hận, có như vậy mới biểu đạt được trạng thái cảm xúc của tác giả. Đối với các bài thơ, tuỳ theo từng thể loại thơ mà tôi hướng dẫn học sinh cách đọc sao cho đúng nhịp câu thơ. Rủ nhau/ xem cảnh/ Kiếm Hồ (2/2/2) Xem cầu Thê Húc, / xem chùa Ngọc Sơn (4/4) Đài Nghiên, / Tháp Bút, / chưa mòn (2/2/2) Hỏi ai xây dựng / nên non nước này (4/4) (Cảnh đẹp non nước - Tiếng việt 3) Thường thì các bài thơ được sáng tác theo thể thơ lục bát mang một âm điệu mượt mà, tình cảm của thể thơ truyền thống dân tộc. Tuy vậy cũng phải dựa vào các dòng cụ thể để ngắt dòng cho đúng. Chỉ có ngắt nhịp đúng câu thơ thì ý nghĩa đoạn thơ mới được bộc lộ cho người nghe thấy được vẻ đẹp của đất nước Việt Nam cụ thể là vẻ đẹp của Hồ Gươm ở thủ đô Hà Nội. Trong chương trình cải cách có rất nhiều bài thơ thuộc thể thơ 4 chữ. Nên việc luyện đọc thể thơ này cũng rất cần thiết. Ví dụ: Bài “Anh Đom Đóm” (Tiếng việt - lớp 3) Mặt trời gác núi Từng bước, từng bước Bóng tối lan dần Vung ngọn đèn lồng Anh Đóm chuyên cần Anh Đóm quay vòng Lên đèn đi gác Như sao bừng nở Theo làn gió mát Gà đàn rộn rịp TaiLieu.VN Page 9
  7. Đóm đi rất êm Gáy sáng đằng đông Đi suốt một đêm Tắt ngọn đèn lồng Lo cho người ngủ Đóm lui về nghỉ. Bài thơ “Anh Đom Đóm” thuộc thể thơ 4 chữ mang âm hưởng của một bài đồng giao vui nhộn, tươi mát, hồn nhiên, khi được học sinh cần thể hiện âm điệu của một bài ca tuổi thơ nhí nhảnh, tình cảm đối với các con vật của bà con nông dân. Việc đọc đúng và phát âm chuẩn, đọc diễn cảm thường gắn liền với ngữ điệu nên tôi thường dùng cử chỉ, nét mặt, để làm tăng thêm tính gợi cảm của câu văn thân mật, vui vẻ, ngạc nhiên, căm giận. Đoạn thơ có nhiều từ hóm hỉnh, vui vẻ, cần đọc nhấn giọng một số từ ngữ kèm theo cử chỉ nét mặt để thể hiện sắc thái đó. + Vui tươi, phấn khởi như khi dạy đọc bài “Bộ đội về làng”, cần hướng dẫn các em phát âm chuẩn các tiếng có âm, vần khó đã gạch chân như sau: Các anh về Đọc liền vắt dòng từ câu 1 sang câu 2 Mái ấm/ nhà vui/ Tiếng hát/ câu cười Câu 3 đọc liền vắt dòng sang câu 4 Rộn ràng xóm nhỏ// Các anh về Tưng bừng trước ngõ Lớp lớp đàn em hớn hở theo sau Mẹ gìa bịn rịn áo nâu Vui đàn con ở rừng sâu mới về + Với bài: “Chú ở bên Bác Hồ” cần đọc với giọng trầm lắng pha chút trang nghiêm. Kết hợp với cách ngắt nhịp, nhấn giọng kéo dài ở một số từ và cao giọng ở cuối câu hỏi. Để tạo nên âm hưởng biểu lộ sự xúc động niềm thương nhớ của Nga và bố mẹ trước sự hi sinh của người chú và phát âm chuẩn các tiếng, từ có âm vần dễ lẫn như sau: Chú ở đâu, ở đâu? TaiLieu.VN Page 10
  8. Trư ờng Sơn dài dằng dặc? Trư ờng Sa đảo nổi, chìm? Hay Kon Tum, Đắc Lắk? Mẹ đỏ hoe đôi mắt Ba ngước lên bàn thờ Đất nước không còn giặc Chú ở bên Bác Hồ Vì vậy khi học sinh luyện đọc giáo viên phải tạo được trong lớp một không khí thoải mái để học sinh dễ trực cảm với bài văn, bài thơ có tâm trạng chờ đợi và chú ý nghe giáo viên đọc và cũng từ đó các em có thể học tập và bắt trước thầy. Trong khi rèn đọc đúng và đọc diễn cảm tôi thường xuyên chú ý đến: - Những học sinh rụt rè nhút nhát, tôi thường xuyên khuyến khích không gắt gỏng để các em luống cuống. - Đối với học sinh nghịch ngợm phân tán tư tưởng, không chú ý đến tiết học, tôi thường để ý thỉnh thoảng chỉ định các em đọc tiếp và uốn nắn. - Đối với học sinh đọc yếu, ngoài việc hướng dẫn đọc dứt khoát từng từ, cụm từ, với câu dài cho học sinh ngắt hơi đúng chủ đề, ra yêu cầu rèn đọc ở nhà, kiểm tra lại những yêu cầu đã đề ra đối với học sinh, việc này phải được tiến hành thường xuyên không được ngắt quãng. Tóm lại sau mỗi giờ tập đọc tôi thường kiểm tra chất lượng đọc của học sinh thông qua đọc thành tiếng, đọc chuẩn âm (cả 3 đối tượng giỏi + khá + Trung bình) xem các em đã đọc đúng và đọc diễn cảm chưa. 1. Kết quả Qua quá trình giảng dạy, nhờ đã kiên trì bền bỉ, áp dụng những biện pháp rèn đọc đúng, như đã nêu trên. Tôi đã tiến hành khảo sát và có số liệu như sau: Lớp 3C3( năm học: 2010 – 201): Sĩ số: 16 học sinh. Kết quả thay Đọc nhỏ, ấp Đọc to, lưu loát, sai âm, Đọc to, đúng chuẩn âm đổi theo thời TaiLieu.VN Page 11
  9. điểm úng, lí nhí, vần cuối dễ lẫn và diễn cảm Đầu năm 10/16 = % 6/16 = % 0 = % Cuối học kì I 8/16 = % 6/16 = % 2/16 = % Cuối học kì II 4 /16 = % 5/16 = % 6/16 = % 2. Lời bình Qua kết quả khảo sát và số liệu ghi chép tôi rất phấn khởi thấy trong các giờ tập đọc học sinh say mê học và lớp học sôi nổi, kỹ năng đọc to đọc đúng, diễn cảm được nâng cao rõ rệt. Có nhiều em đầu năm học đọc nhỏ lí nhí, chưa trôi chảy, đến cuối kỳ II các em đã đọc to, rõ ràng, lưu loát hơn. Những em học trung bình khá trở lên đã đọc đúng chuẩn âm và đọc diễn cảm bài văn theo đúng yêu cầu đề ra. Tuy kết quả chưa được mỹ mãn như ý nhưng đó cũng là thành công bước đầu nghiên cứu, mày mò ra biện pháp rèn đọc cho học sinh của mình. 3. Bài học kinh nghiệm Trên đây là một vài phương pháp “giúp học sinh đọc – viết, đúng chuẩn âm Tiếng Việt” cho học sinh lớp 3C, để đạt được những kết quả trên qua kinh nghiệm giảng dạy tôi tự rút ra một số kết luận sư phạm như sau: Muốn rèn cho học sinh “đọc – viết đúng chuẩn âm Tiếng Việt” và đọc diễn cảm tốt, trước hết người thầy phải có nghiệp vụ sư phạm tốt, đặc biệt đọc mẫu của thầy phải chuẩn, hay, có sức cuốn hút học sinh, vì trong khâu rèn đọc thì việc đọc mẫu của thầy giáo có ảnh hưởng rất lớn đối với học sinh. Các em sẽ theo dõi lắng nghe thầy đọc và coi đó là chuẩn mực để bắt trước và so sánh, đánh giá với giọng đọc của mình. Chính vì vậy thầy cô cũng phải có sự chuẩn bị chu đáo, mỗi từ ngữ cô đọc, nói đều phải chuẩn mực. Giáo viên phải nắm chắc đối tượng học sinh để có những biện pháp dạy học đạt kết quả cao nhất nhằm phát huy hết tính tích cực trong học tập, tổ chức điều khiển khéo léo gây bầu không khí sôi nổi, kích thích hứng thú học tập và nâng cao ý thức tự giác của học sinh. Giáo viên cần phải tìm hiểu chắc nội dung cơ bản của chương trình sách giáo khoa, sách hướng dẫn, sách soạn bài để học sinh nắm vững nội dung bài, hướng dẫn rõ cách đọc từng đoạn văn, đoạn thơ cho học sinh hiểu. Thực tế cho thấy sách giáo khoa Tiếng TaiLieu.VN Page 12
  10. Vi ệt, sách soạn bài và sách hướng dẫn phải thừa nhận là có nhiều ưu điểm nổi bật. Tìm hi ểu phần hướng dẫn chung trong sách đa số giáo viên đã nắm được cơ bản của phương pháp giảng dạy mới, song đi sâu vào từng bài cụ thể thì sự lúng túng và vấp váp lại không ít. Do vậy nắm vững sách, hiểu ý đồ của người biên soạn là quan trọng, song chưa đủ mà nó còn đòi hỏi đến vai trò chủ động, sáng tạo và ứng xử linh hoạt đối với từng đối tượng học sinh khác nhau, có như vậy mới đem lại hiệu quả cao. Giáo viên giàu lòng yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, phát hiện kịp thời đọc sai, đọc ngọng trọng học sinh. Giáo viên phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa cách phát âm sai cho học sinh thật tận tình chu đáo. Giảm bớt hoặc sửa lại câu hỏi cho sát với từng đối tượng học sinh, tránh giảng triền miên, nói nhiều, viết nhiều trong khi học sinh đọc còn yếu. Luôn động viên khuyến khích học sinh khi các em có tiến bộ. Rèn cho các em đọc trước đám đông, tổ chức thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm trong lớp, trong trường vào những ngày sinh hoạt tập thể, kỷ niệm ngày lễ lớn. Yêu cầu mỗi học sinh phải có quyển sổ ghi chép để chép những câu thơ, câu văn, bài thơ, bài văn hay và nhật ký ghi chépcác tiếng, từ có âm, vần dễ lẫn v v dưới sự hướng dẫn của giáo viên. Phối hợp nhịp nhàng về chương trình môn tập đọc với các môn học khác như: Tập làm văn, kể chuyện 4. Phạm vị ứng dụng đề tài Trên đây là một số suy nghĩ và việc làm cụ thể của tôi về vấn đề rèn đọc đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3C trường Ttiểu học Trần Quốc Toản. Với phương pháp rèn đọc này sẽ là tiền đề để tiếp tục dạy và học môn tập đọc ở lớp 4, 5 đạt kết quả tốt. Vì vậy nếu có thể cải tiến mở rộng cách hướng dẫn thì đề tài này có thể áp dụng tốt khi dạy môn tập đọc lớp 4, 5 đáp ứng những yêu cầu đòi hỏi cao hơn. 5. Những vấn đề cần kiến nghị Để việc đọc của học sinh tiếp tục được nâng cao, tôi tạm mạnh dạn đưa ra một vài ý kiến đề xuất với các cấp chỉ đạo có liên quan như sau: Cần quan tâm hơn nữa đối với giáo viên tiểu học, thường xuyên bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên ở các phân môn, trong đó đó có tập đọc. Có đầy đủ đồ dùng dạy học cho giáo viên. TaiLieu.VN Page 13
  11. Hàng năm tổ chức phong trào thi kể chuyện, ngâm thơ, đọc diễn cảm cho giáo viên và cho học sinh trong khối, trong trường và toàn huyện. Những vấn đề còn bỏ ngỏ: - Giáo viên: Qua qua trình giảng dạy môn tập đọc đặc biệt về rèn đọc đúng chuẩn âm, đọc diễn cảm cho học sinh lớp 3 tôi thấy còn nhiều khó khăn và có những mặt hạn chế. - Về học sinh: Một số em học sinh còn đọc ngọng, đọc nhỏ và lí nhí chưa phát âm đúng. Bản thân các em cần phải chịu khó rèn luyện nhiều hơn. TaiLieu.VN Page 14
  12. PH ẦN THỨ BA Kết luận Thông qua thực tế giảng dạy trên lớp hàng ngày tôi đi đến kết luận rằng: Muốn rèn luyện cho học sinh đọc đúng chuẩn âm Tiếng Việt và đọc diễn cảm tốt thì vai trò của người thầy giáo đặc biệt quan trọng, bởi người thầy giáo luôn là tấm gương sáng, mẫu mực trong cách phát âm chuẩn Tiếng Việt và đọc diễn cảm, để học sinh bắt trước. Trong mỗi giờ tập đọc, người thầy phải hướng dẫn cách đọc cho học sinh thật tỉ mỉ từng từ ngữ, từng câu văn, từng đoạn văn, phải kiên trì uốn nắn, sửa chữa kịp thời tuỳ theo từng đối tượng học sinh thật tận tình chu đáo. Để làm được việc đó, mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình gương mẫu trong phương pháp soạn giảng, luôn luôn trau dồi nghiệp vụ, học hỏi kinh nghiêm của các bạn đồng nghiệp, để nâng cao chất lượng dạy và học ở các môn, đặc biệt là môn tập đọc ở tiểu học. Trên đây mới là một số kinh nghiệm nhỏ của tôi trong việc rèn đọc diễn cảm cho học sinh trong giờ tập đọc lớp 3C, trong thực tế giảng dạy mỗi người đều có suy nghĩ, kinh nghiệm, bí quyết nghề nghiệp khác nhau, nhằm mục đích cuối cùng là “nâng cao chất lượng dạy và học”. Có lẽ đề tài của tôi còn nhiều thiếu sót và hạn chế, tôi mong được các cấp trên, cùng các bạn đồng nghiệp, góp ý kiến bổ sung để kinh nghiệm dạy học của tôi thêm phong phú, hoàn thiện hơn, góp phần nhỏ bé vào sự nghiệp giáo dục ngày càng phát triển. Tôi xin chân thành cảm ơn! TaiLieu.VN Page 15
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO. 1/ Sách giáo khoa Tiếng Việt 3. Tập 1, Tập 2- Nhà xuất bản GD, năm 2007 2/ Sách giáo viên Tiếng Việt 3. Tập 1, Tập 2 - Nhà xuất bản GD, năm 2007 3/ Hướng dẫn chuẩn kiến thức, kĩ năng các môn học Lớp 3- Bộ GD&ĐT năm 2009. 4/ Phương pháp dạy học các môn học ở Tiểu học- Nhà xuất bản GD, năm 2007. 5/ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học. Tác giả: Nguyễn Quý Thành, trường Đại học Quy Nhơn, năm 2010. TaiLieu.VN Page 16