Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp Một
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp Một", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_gop_phan_nang_cao_cha.doc
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp Một
- 4.4. Hướng dẫn viết từ ứng dụng: Dạy viết các từ ứng dụng ngoài việc giúp học sinh thực hiện các yêu cầu về viết chữ ghi tiếng như viết nối chữ, viết liền mạch, đặt dấu thanh đúng, tôi còn quan tâm nhắc nhở học sinh lưu ý khoảng cách chữ sao cho đều đặn hợp lí. Khoảng cách chữ ghi tiếng thường được ước lượng bằng chiều rộng một chữ cái o viết thường. Điều này tuy không khó nhưng đối với học sinh lớp 1, các em hay quên cho nên trong một bài viết, có khi khoảng cách chữ của các em không đều nhau. Có bài khoảng cách chữ gần nhau quá, không tách bạch được chữ ghi tiếng, làm cho bài viết không rõ ràng, khó đọc, thiếu đi tính thẩm mĩ. Vì vậy, tôi phải thường xuyên nhắc nhở điều này khi học sinh viết từ ứng dụng. Với những em thường mắc phải lỗi như thế, khi viết bài vào vở, tôi đến bên cạnh để chỉ dẫn thêm, giúp học sinh điều chỉnh kịp thời. Nhờ quan tâm khắc sâu ở những chỗ học sinh thường gặp khó khăn trong quá trình hướng dẫn học sinh tập viết, theo dõi giúp học sinh điều chỉnh kịp thời những lỗi sai, tôi nhận thấy học sinh đã có sự tiến bộ rõ rệt về chữ viết. Các em viết đúng các chữ cái, nối nét hợp lí, đặt dấu thanh đúng vị trí khi viết chữ ghi tiếng, khoảng cách chữ đều đặn hơn khi viết từ ứng dụng. 5. Hướng dẫn học sinh viết chữ viết hoa: Mẫu chữ cái viết hoa có nhiều nét cong, nét lượn, thường được “biến điệu” từ các nét cơ bản. Điều đó làm học sinh khó nhớ; hoặc có khi bằng mắt nhìn, các em đã xác định được hình dáng của chữ viết hoa nhưng bàn tay non trẻ của các em chưa điều khiển được ngòi bút đúng theo ý định mình. Vì vậy, các chữ viết hoa của các em thường không đều nét, độ rộng, độ cao của chữ không cố định. Nắm bắt những khó khăn của học sinh, tôi luôn cố gắng quan tâm và kiên trì giúp đỡ các em trong lúc luyện viết. 19
- Theo chương trình phần tập viết ở môn Tiếng Việt1- Công nghệ giáo dục, từ tuần 20 đến tuần 26 là nội dung “hướng dẫn viết chữ cái hoa”. Tôi luôn nhắc cho học sinh nhớ là các chữ cái viết hoa đều có độ cao 2 li rưỡi, ngoại trừ chữ G, Y viết hoa cao 4 li. Khi dạy viết ở việc 2, tôi giúp học sinh nhận biết về độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm chuyển hướng, điểm kết thúc và quy trình viết của một chữ cái viết hoa. Mục đích tôi hướng dẫn là để học sinh nhận diện chữ cái viết hoa để phục vụ cho yêu cầu thực hành luyện viết chứ không sa vào phân tích lý thuyết cấu tạo nét chữ vì các nét ở chữ viết hoa đã có nhiều biến điệu. Khi viết mẫu chữ trên bảng lớp, tôi viết thật chậm kết hợp nêu quy trình viết chữ. Sau đó, tôi cho học sinh luyện viết nhiều lần ở bảng con để rút kinh nghiệm. Tôi đặc biệt chú ý giúp học sinh điều chỉnh các nét cong hoặc các đường uốn lượn, hướng cho các em viết được các nét theo chữ viết hoa mẫu, phải mềm mại và hợp lí. Trường hợp dạy chữ cái hoa thứ hai có nhiều điểm giống chữ cái hoa thứ nhất, tôi không tập trung hướng dẫn nữa để đỡ mất thời gian mà chỉ cho học sinh so sánh để nhận ra điểm giống nhau và khác nhau giữa hai chữ cái viết hoa, bổ sung thêm nét để hoàn chỉnh chữ mới. Ví dụ: Học sinh viết chữ A viết hoa, thêm dấu thì được Ă, hoặc thêm dấu ^ thì được Â. (Tương tự với các chữ cái viết hoa D-Đ, E-Ê, O-Ô-Ơ, U-Ư). Từ tuần 27 về sau là nội dung “hướng dẫn viết ứng dụng chữ cái viết hoa”. Giai đoạn này, học sinh được ôn lại kĩ thuật viết chữ cái viết hoa một lần nữa. Tuy nhiên, điều tôi tập trung hơn là chỗ nối nét từ chữ cái viết hoa sang chữ cái viết thường. Ngoài 29 chữ cái viết hoa, học sinh còn được học các chữ hoa ghi âm có hai, ba chữ cái như: Ch, Gh, Gi, Kh, Ng, Ngh, Nh, Ph, Th, Tr. Lúc này, tôi giúp các em ghi nhớ quy tắc viết hoa: chỉ viết hoa chữ cái đầu tiên của chữ ghi tiếng. Tôi kết hợp dạy viết chữ hoa với việc dạy luật chính tả về viết hoa,; giúp học sinh hiểu rõ yêu cầu viết đúng ở môn Tiếng Việt là viết 20
- đúng con chữ, đúng kiểu chữ, đúng kích cỡ và đúng chính tả, khi các em thấy xuất hiện luật chính tả về viết hoa chỗ nào thì phải viết hoa ở chỗ ấy, chứ không được tùy tiện viết chữ hoa. Khi luyện viết chữ viết hoa ở vở Em tập viết, học sinh có thể quan sát mẫu ở đầu trang nhưng khi viết chính tả hoặc viết ở những vở khác thì một số em lại lúng túng do quên mẫu chữ, vì chữ viết hoa ít được ứng dụng hơn chữ viết thường. Để giúp học sinh nhớ kĩ các mẫu chữ viết hoa, tôi làm tấm bìa có chiều rộng 3cm, chiều dài khoảng 15cm, trên đó, tôi ghi 29 chữ cái viết hoa nằm trên đường kẻ li (viết cả hai mặt), rồi pho to bằng giấy cứng phát cho mỗi học sinh. Khi viết bài, học sinh có thể đặt tấm bìa chữ sát lề vở, nhìn chữ mẫu khi viết và đối chiếu lại khi viết xong để rút kinh nghiệm. Từ khi quan tâm hướng dẫn học sinh viết chữ hoa, tôi nhận thấy học sinh đỡ lúng túng hơn khi gặp luật chính tả viết hoa, các em ít sai chính tả về lỗi viết hoa, các chữ viết hoa của các em dần dần được cải thiện, đúng mẫu quy định, trông mềm mại và đẹp hơn trước. 6. Đánh giá bài viết của học sinh: Qua việc đánh giá, tôi giúp học sinh nhận ra những thành công của mình để phát huy và những chỗ mình còn thiếu sót để khắc phục, điều chỉnh. Đồng thời qua việc đánh giá, tôi còn thống kê được những lỗi còn sai phổ biến ở học sinh để kịp thời tìm biện pháp giúp các em sửa chữa. Khi đánh giá bài viết ở bảng con, tôi thường tạo điều kiện cho học sinh tham gia nhận xét chữ viết của bạn. Tôi gợi ý cho học sinh nhận xét về hình dạng, độ cao, độ rộng chữ, về cách ghi dấu thanh, nối nét, để giúp học sinh có thói quen nhận xét cụ thể. Tôi còn tập cho học sinh thói quen tự đánh giá bài viết của mình. Sau khi viết xong, các em có thể tự so sánh bài viết của mình với chữ mẫu in sẵn hoặc 21
- chữ trên bảng lớp để phát hiện những lỗi sai cần sửa chữa. Tuy học sinh có thể chưa nhận ra hết những hạn chế về chữ viết của mình nhưng các em sẽ nhớ kĩ hơn những lỗi sai mà tự mình phát hiện để không phạm phải nữa. Đối với bài viết trong vở Em tập viết, khi xem, tôi thường gạch chân những chữ học sinh còn viết chưa đúng để các em nhận ra và điều chỉnh. Tôi cố gắng ghi lời nhận xét thật cụ thể, dễ hiểu, giúp học sinh dễ dàng thấy được mình viết chưa đạt chỗ nào và vì sao mình viết chưa đạt. Ví dụ: “Chữ viết đúng về độ cao nhưng khoảng cách chữ hơi hẹp.”; “Chữ viết rõ ràng, em cần luyện viết dấu thanh nhỏ lại”, Ở giai đoạn đầu năm, tôi ưu tiên đánh giá nhận xét bằng lời nói vì học sinh chưa đọc được chữ. Khi đó, tôi không thu bài viết mà đến tận nơi, vừa nhận xét, vừa chỉ cụ thể những nét chữ đúng, đẹp; những nét chữ chưa đúng cần điều chỉnh, sửa chữa. Tôi không chỉ quan tâm đánh giá về chất lượng chữ viết mà còn đánh giá về tốc độ viết. Thời gian đầu, khi học sinh mới học âm và chữ ghi âm, tôi thường dành thời gian cho học sinh viết thật kĩ, nhớ cấu tạo chữ cái, thuộc và viết đúng các nét. Về sau, khi viết các chữ ghi vần, ghi tiếng, học sinh chỉ cần ghép những chữ cái và lưu ý kĩ thuật nối nét, đặt dấu thanh. Vì vậy, ở mỗi bài viết tôi đều đặt yêu cầu về thời gian để học sinh tập viết nhanh dần. Không chỉ đánh giá chữ viết ở vở Em tập viết, tôi còn quan tâm nhận xét chữ viết của học sinh ở tất cả các môn học khác, đặc biệt là Chính tả. Sự nghiêm khắc về chất lượng chữ viết ở tất cả các môn học là cần thiết vì như thế học sinh mới được củng cố đồng bộ và thường xuyên. Tôi thường xuyên liên hệ với phụ huynh học sinh, giúp phụ huynh hiểu rõ về quan điểm đánh giá mới. Từ đó, phụ huynh cũng tham gia đánh giá kết quả học tập của con em mình. Cũng nhờ thế, phụ huynh có sự quan tâm hơn đến 22
- chữ viết của các em, bổ sung cho các em đầy đủ dụng cụ học tập và có những biện pháp riêng để khích lệ học sinh cố gắng rèn chữ viết tiến bộ hơn. Thông qua việc đánh giá, tôi nhận ra những cố gắng, nỗ lực của học sinh, từ đó kịp thời động viên các em tiếp tục rèn luyện. Việc đánh giá nhận xét cụ thể, rõ ràng, đồng bộ đã giúp học sinh điều chỉnh chữ viết rõ ràng hơn, đẹp hơn. 7. Hướng dẫn học sinh trình bày bài viết trên vở ô li: Tôi dùng vở ô li để giúp học sinh luyện viết vào các tiết buổi chiều. Giai đoạn đầu năm, tôi phải viết mẫu đầu dòng cho học sinh để giúp các em xác định dòng viết và nhìn mẫu viết theo. Dần dần, tôi để các em tự viết, chỉ viết mẫu cho những em viết còn chậm hoặc còn sai. Giai đoạn mới chuyển từ chữ cỡ vừa sang chữ cỡ nhỏ học sinh thường gặp khó khăn do lẫn lộn về độ cao chữ. Lúc này, chữ viết của học sinh thường mắc phải các lỗi sai như: nét này là chữ cỡ vừa nhưng nét kia là chữ cỡ nhỏ. Vì vậy, tôi phải hướng dẫn tỉ mỉ cho học sinh trong những bài viết đầu tiên để các em không bị lẫn lộn. Trước khi viết bài, tôi đều hỏi lại độ cao chữ cái, độ cao các nét có trong chữ cái nhằm giúp học sinh nhớ và viết đúng. Từ tuần học thứ 23, tôi tập cho học sinh đề thứ, ghi bài hàng ngày bằng chữ cỡ nhỏ vào vở ô li. Lúc này, tôi phải sử dụng bảng phụ kẻ li như một trang vở để hướng dẫn. Tôi giúp học sinh trình bày thứ, tên phân môn, tên bài học cân đối trên trang vở. Đối với những em tiếp thu chậm, tôi phải đến bên cạnh hướng dẫn từng phần. Do một thời gian dài học sinh quen viết chữ cỡ vừa trên vở ô li, trình bày viết một dòng, bỏ một dòng vở. Chuyển sang chữ cỡ nhỏ, học sinh vẫn có thói quen trình bày như vậy. Vì thế, mỗi khi học sinh viết bài, tôi dùng bảng có kẻ li để hướng dẫn các em viết từng dòng. 23
- Trong một buổi học, tôi không cho học sinh viết nhiều quá, vì như thế các em sẽ bị mỏi tay, viết không đẹp nữa. Tôi tập cho học sinh thói quen: trước khi viết phải đọc nhẩm chữ để nhớ trong đầu, sau khi viết xong cũng phải đọc nhẩm lại để kiểm tra xem mình đã viết đúng, viết đủ nét, đủ dấu phụ, dấu thanh chưa. Lúc học sinh tập viết bằng bút chì hay luyện viết ở bảng con, chữ nào không đúng hoặc không vừa ý, học sinh có thể bôi xóa đi rồi viết lại dễ dàng. Đến khi sử dụng bút mực, một số em quen bôi xóa làm cho bài viết dơ, nhòe mực, không đẹp. Tôi luôn nhắc nhở học sinh cố gắng cẩn thận khi viết, không để bị sai. Nếu đã lỡ viết sai cũng không được bôi xóa mà cũng dùng viết mực gạch ngang một đường giữa chữ bỏ đi. Trang vở muốn sạch sẽ, học sinh phải biết gạch hàng ngay ngắn. Đầu tiên, tôi hướng dẫn học sinh cầm thước và bút chì tập kẻ những đoạn thẳng trên giấy nháp. Những học sinh kẻ chưa đẹp, chưa thẳng, chưa ngay đường kẻ đậm, tôi cho các em tập kẻ lại. Một số học sinh không biết tì đầu bút chì vào thước kẻ, tôi phải đến tận nơi cầm tay tập cho các em kẻ. Khi học sinh đã kẻ được những đường thẳng trên đường kẻ đậm, tôi mới cho các em tự kẻ hàng, trình bày trong vở theo quy định. Những việc làm trên, giáo viên chịu khó theo dõi giúp đỡ học sinh một thời gian. Khi các em đã quen, các em sẽ tự thực hiện, không còn sai nữa. Tập vở học sinh nhờ thế mà sạch sẽ hơn, các em cũng có tình cảm yêu quý, trân trọng bài viết của mình hơn. 8. Quan tâm động viên học sinh rèn chữ và chú ý đến các đối tượng học sinh trong lớp: Để động viên khích lệ học sinh ham thích rèn luyện chữ viết, tôi thường tạo ra những phong trào thi đua trong lớp như: Ai viết đẹp nhất? Ai viết nhanh 24
- nhất? Ai có cố gắng nhiều hơn? Cuối tuần, người được các bạn bình chọn nhiều nhất sẽ được tuyên dương trước lớp. Tôi không xem việc xếp loại vở sạch chữ đẹp hàng tháng là một hình thức để cập nhật kết quả mà là một phong trào thi đua thường xuyên, kích thích sự phấn đấu trong học sinh. Cuối mỗi tháng, sau khi xếp loại vở sạch chữ đẹp, tôi luôn tuyên dương những em có vở và chữ được xếp loại A. Làm như vậy, học sinh thích thú và hăng say hơn trong việc rèn luyện chữ viết. Những em chưa được khen cũng cố gắng luyện viết để lần sau mình được khen. Nhờ đó, chữ viết của học sinh ngày càng tiến bộ rõ rệt. Vào lúc rảnh rỗi, tôi kể cho học sinh nghe các câu chuyện về những tấm gương luyện chữ như: Cao Bá Quát, Nguyễn Văn Siêu, Nguyễn Ngọc Ký, Qua đó, tôi giáo dục học sinh cố gắng hơn trong việc rèn luyện chữ viết rõ ràng, sạch đẹp. Trong lớp học, không phải khả năng học tập của học sinh nào cũng giống nhau. Với đối tượng học sinh viết chưa đạt, viết chậm luôn luôn cần sự giúp đỡ của giáo viên. Vì vậy, tôi thường xuyên quan tâm tới các em trong giờ học. Khi học sinh gặp khó khăn, tôi phải đến tận nơi hỗ trợ cầm tay tập viết. Giáo viên tuyệt đối không được nóng vội, cũng không nên quá cầu toàn vì như thế sẽ làm cho các em căng thẳng, chịu áp lực, không thích viết. Với các em học sinh này, tôi thường yêu cầu giảm số lần viết khi tập viết để các em tập trung nhớ chữ, viết đúng chữ theo yêu cầu. Ví dụ: Bài viết ở vở Em tập viết quyển 2, trang 28, tôi yêu cầu học sinh trong lớp viết một dòng “ai”, một dòng “trai”, hai hoặc ba dòng “giải nhất” trong vở Em tập viết, còn những em viết chậm, tôi chỉ yêu cầu viết một dòng “ai”, một dòng “trai”, một dòng “giải nhất”. 25
- Tôi dành thời gian các tiết học Tiếng Việt buổi chiều để hướng dẫn cho học sinh luyện viết thêm những chữ mà các em chưa đạt yêu cầu. Nhờ thế, dần dần các em tiến bộ và viết đúng, viết nhanh hơn. Ở lớp tôi có một học sinh bị bệnh hay đổ mồ hôi tay, khi tập viết em cầm bút dễ bị tuột, khó điều khiển ngòi bút nên nét chữ của em không ngay ngắn, trang vở viết thường rất dơ. Tôi xếp học sinh này ngồi cạnh cửa sổ và cho em chuẩn bị một chiếc khăn tay sạch. Mỗi sáng, tôi giúp em làm ẩm khăn và treo lên móc cạnh cửa. Trước khi viết, em chỉ cần với tay lấy khăn lau mồ hôi rồi mới viết. Từ khi thực hiện như thế, tôi nhận thấy vở của em sạch hơn, chữ viết ngay ngắn, rõ ràng hơn. Trong quá trình dạy học, tôi cũng chú ý chọn ra những học sinh có năng khiếu viết, ham thích viết để bồi dưỡng thêm. Vào các tiết học bồi dưỡng năng khiếu buổi chiều, tôi hướng dẫn các em kĩ thuật viết nét thanh, nét đậm, cách trình bày bài viết trên trang giấy Viết được những trang chữ đẹp, các em rất vui và tự hào. Điều đó đã góp phần bồi dưỡng cho các em lòng tự trọng, tôn trọng chữ viết của mình như mục tiêu rèn kĩ năng viết trong môn Tiếng Việt đã đặt ra. 26
- Phần III: KẾT QUẢ Qua thời gian áp dụng các giải pháp trên vào thực tiễn rèn chữ cho học sinh lớp 1B, tôi nhận thấy chữ viết của học sinh lớp tôi có sự chuyển biến tích cực. Học sinh nắm vững cấu tạo các chữ cái và viết được đúng kiểu chữ viết thường, viết hoa cỡ nhỏ. Các em cũng đã biết nối nét khi ghép các chữ cái thành chữ ghi tiếng, đặt dấu thanh đúng vị trí. Cuối năm, học sinh đã viết được đoạn văn, đoạn thơ khoảng 50 chữ trong thời gian 25 phút, chữ viết rõ ràng, trình bày dòng chữ ngay ngắn trên dòng kẻ li. Một số em trong lớp viết chữ đẹp, đều nét, viết được chữ nét thanh nét đậm. Sự tiến bộ về chữ viết của học sinh được thể hiện qua kết quả xếp loại vở sạch chữ đẹp ở lớp 1B trong năm học 2015 - 2016 như sau: (Chỉ thống kê phần xếp loại chữ đẹp) Thời điểm Số Loại A Loại B Loại C xếp loại học sinh SL TL SL TL SL TL Tuần 9 5 20,8% 15 62,5% 4 16,7% Tuần 18 6 25,0% 16 66,7% 2 8,3% 24 Tuần 27 10 41,7% 13 54,1% 1 4,2% Tuần 33 14 58,3% 9 37,5% 1 4,2% Kết quả bài kiểm tra môn Tiếng Việt phần viết của lớp 1B, năm học 2015 - 2016 như sau: Thời điểm Số học Điểm 9 – 10 Điểm 7 – 8 Điểm 5 – 6 Điểm dưới 5 kiểm tra sinh SL TL SL TL SL TL SL TL Cuối HKI 24 18 75,0% 4 16,7% 2 8,3% 0 Thời điểm hiện tại, các bài viết ở vở Em tập viết và bài viết Chính tả của học sinh đều được đánh giá hoàn thành. Tất cả học sinh đều đạt yêu cầu về 27
- chữ viết. Các bảng số liệu trên cho thấy từ khi vận dụng đề tài, học sinh đã có tiến bộ về chữ viết, số học sinh viết chữ đúng, đẹp tăng lên. Đa số học sinh trong lớp thích viết, có ý thức rèn chữ viết cẩn thận, yêu quý, tôn trọng chữ viết của mình, biết bảo quản vở để bài viết được sạch đẹp hơn. Tôi tin rằng với kết quả này, học sinh đã có được nền tảng để tiếp tục rèn luyện chữ viết với mục tiêu viết liền mạch, viết đều nét và tiến tới viết đẹp ở các lớp trên. * Một số bài viết minh họa của học sinh lớp 1B, năm học 2015 – 2016: Nguyễn Huy Du- 1B Nguyễn Ngọc Tường Vi- 1B Ngô Gia Bảo- 1B Nguyễn Ngọc Thảo Trinh- 1B 28
- KẾT LUẬN Đối với học sinh, chữ viết vừa là công cụ giao tiếp, vừa là phương tiện giúp các em học tập các môn học khác. Do đó, việc rèn luyện để nâng cao chất lượng chữ viết là mục tiêu quan trọng trong nhà trường, nhất là với đối tượng học sinh lớp 1. Để giúp học sinh lớp 1 rèn chữ viết đạt hiệu quả, trước hết học sinh cần được chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập. Vì vậy, tôi phối hợp với phụ huynh học sinh, hướng dẫn phụ huynh học sinh chuẩn bị đồ dùng học tập phù hợp cho việc rèn luyện chữ viết. Việc làm này không chỉ được quan tâm ở đầu năm học mà suốt trong quá trình học tập phụ huynh phải thường xuyên kiểm tra, bổ sung cho học sinh. Giáo viên cần giúp học sinh rèn những nền nếp học tập ngay từ đầu năm học. Tôi quan tâm hướng dẫn các em những thói quen đúng như: cách cầm bút, để vở, tư thế ngồi để giúp học sinh vừa viết được dễ dàng, bảo quản được vở, vừa tránh được một số bệnh học đường. Trong hai tuần 0, tôi giúp học sinh nhớ kĩ tên gọi các nét cơ bản và luyện viết thành thạo các nét, đặc biệt là các nét khó để làm cơ sở cho việc luyện viết chữ cái. Học sinh được hình thành kĩ năng viết chữ phải trải qua hai giai đoạn: Xây dựng biểu tượng về chữ viết và điều khiển vận động để viết chữ. Ở giai đoạn xây dựng biểu tượng chữ viết, giáo viên phải quan tâm đến các phương tiện trực quan, giúp cho học sinh “mắt thấy tai nghe”. Tôi tận dụng tối đa vai trò của bảng lớp và bộ chữ cái trong danh mục đồ dùng dạy học để giúp học sinh nhận biết, hiểu cấu tạo chữ. Đối với học sinh lớp 1, chữ viết của cô giáo là phương tiện trực quan hiệu quả nhất. Vì vậy, tôi luôn cố gắng rèn luyện chữ viết và thật cẩn thận khi trình bày chữ viết trước học sinh. Không gian lớp học 29
- cũng được tôi tận dụng để treo bảng chữ cái, các bài viết chữ đẹp để học sinh xem và luyện viết theo. Trong quá trình hướng dẫn viết chữ, tôi tập trung lưu ý kĩ cho học sinh những chỗ khó, những chỗ các em thường viết sai như: quy trình viết chữ cái, cách nối nét khi dạy chữ ghi tiếng, khoảng cách chữ khi viết từ ứng dụng, cách ghi dấu thanh dấu phụ, Những học sinh viết chưa đạt yêu cầu, tôi kiên trì giúp các em tập viết ở bảng con cho quen, cho thạo rồi mới viết vào vở. Luyện viết chữ hoa là yêu cầu tương đối khó với học sinh lớp 1. Giai đoạn hướng dẫn viết chữ cái hoa, tôi quan tâm giúp học sinh nhận biết về độ cao, độ rộng, điểm đặt bút, điểm chuyển hướng, điểm kết thúc và quy trình viết của một chữ cái viết hoa. Các em được luyện viết nhiều lần ở bảng con để điều chỉnh những nét cong nét lượn cho giống mẫu. Giai đoạn hướng dẫn viết ứng dụng chữ cái viết hoa, tôi tập trung dạy cách nối nét từ chữ cái viết hoa sang chữ cái viết thường và kết hợp dạy viết chữ hoa với việc dạy luật chính tả về viết hoa. Khâu đánh giá bài viết của học sinh cũng rất cần thiết. Tôi tạo cơ hội cho học sinh tự đánh giá bài viết của mình, tham gia nhận xét bài viết của bạn. Điều quan trọng là học sinh phải nhận ra điều mình làm được và chưa làm được để điều chỉnh, khắc phục. Tôi còn khuyến khích phụ huynh tham gia đánh giá bài viết của con em để cùng với giáo viên động viên các em cố gắng rèn chữ. Trong quá trình dạy học, tôi luôn quan tâm các đối tượng học sinh trong lớp, đặt ra yêu cầu phù hợp cho từng nhóm đối tượng học sinh. Tôi kiên trì giúp đỡ những học sinh còn gặp khó khăn trong khi thực hành viết chữ, giúp các em từng bước đạt yêu cầu về chữ viết. 30
- Giai đoạn học sinh chuyển sang viết chữ cỡ nhỏ, tôi đặc biệt quan tâm hướng dẫn kĩ để giúp học sinh nhớ độ cao của chữ và cách trình bày chữ cỡ nhỏ trong vở ô li. Tôi không chỉ quan tâm rèn viết cho học sinh ở những giờ tập viết, mà ở tất cả các môn học, tôi đều nhắc nhở học sinh chú ý rèn chữ viết cẩn thận. Tôi luôn cố gắng tạo cho học sinh tâm lí thoải mái, thích viết, khích lệ học sinh cố gắng viết được, viết đúng, viết đẹp, viết nhanh. Với những giải pháp đã thực hiện, chất lượng chữ viết của học sinh lớp 1B có sự tiến bộ rõ rệt. Học sinh viết chữ rõ nét, đặt dấu hợp lí, trình bày thẳng hàng, đều đặn trên dòng kẻ và đạt yêu cầu về tốc độ viết. Những giải pháp góp phần nâng cao chất lượng chữ viết cho học sinh lớp 1 được nêu ở đề tài này có thể nhân rộng và áp dụng đối với các lớp 1 ở các trường trong huyện Tân Thạnh và một số trường đang thực hiện chương trình Tiếng Việt 1- Công nghệ giáo dục trong tỉnh Long An. 31
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Hữu Châu (2007), “Phương pháp dạy học các môn ở tiểu học”. Nhà xuất bản Giáo dục. 2. Trần Mạnh Hưởng (Chủ biên) , “Dạy và học Tập viết ở Tiểu học”. Nhà xuất bản Giáo dục. 3. Hồ Ngọc Đại, “ Sách giáo khoa Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục Tập 1, Tập 2, Tập 3”. 4. Hồ Ngọc Đại , “ Sách thiết kế Tiếng Việt 1- Công nghệ Giáo dục Tập 1, Tập 2, Tập 3”. 5. Hồ Ngọc Đại, “ Vở Em tập viết- Công nghệ Giáo dục Tập 1, Tập 2, Tập 3”. 6. Phòng Giáo dục và Đào tạo Tân Thạnh (2012), “ Hướng dẫn trình bày sáng kiến kinh nghiệm”. (Công văn số 223/HD- PGDĐT ngày 3/5/2012 ) 32
- MỤC LỤC Lời nói đầu Trang 3 Thực trạng Trang 5 Giải pháp Trang 9 Kết quả Trang 27 Kết luận Trang 29 33