Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh Lớp 5

pdf 10 trang binhlieuqn2 07/03/2022 6491
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ki_nang_lam_van_t.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh Lớp 5

  1. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. 2. Làm giàu vốn từ cho học sinh: - Khi trực tiếp giảng dạy các tiết Tập làm văn, tôi thấy các em học sinh ít tham gia phát biểu. Lí do là các em không biết thể hiện ý của mình bằng câu văn nào, hoặc khi viết câu văn còn diễn đạt lủng củng, chưa rõ nghĩa bởi lẽ vốn từ của các em còn quá ít. Chính vì thế tôi dùng biện pháp làm giàu vốn từ cho các em qua các phân môn Tập đọc, Luyện từ và câu và từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện, . - Làm giàu vốn từ qua phân môn Tập đọc: số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài thơ, bài văn rất phong phú đồng thời cách sử dụng chúng rất sáng tạo nên khi dạy Tập đọc tôi đã chỉ ra các từ ngữ miêu tả, cách sử dụng biện pháp tu từ, cách đặt câu trong một vài trường hợp đặc sắc để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi dùng chúng. Việc phân tích này giúp các em tiếp cận đựơc với các văn bản nghệ thuật, tiếp cận với kĩ năng viết văn một cách thường xuyên và có chất lượng mà lại nhẹ nhàng không áp đặt. - Hướng dẫn học sinh tích lũy vốn từ qua phân môn Luyện từ và câu: ở lớp 5 phân môn Luyện từ và câu là phân môn có thể giúp học sinh làm giàu vốn từ nhiều nhất. Đặc biệt là các tiết: Mở rộng vốn từ; Từ đồng âm; Từ nhiều nghĩa; Từ trái nghĩa Trong các tiết này có các bài tập mở rộng vốn từ rất cụ thể, thiết thực như tìm từ, ghép từ, dùng từ đặt câu, sắp xếp các từ thành nhóm miêu tả (nhóm miêu tả đặc điểm của cảnh vật, nhóm miêu tả hoạt động) Tôi khuyến khích các em tìm được càng nhiều từ theo yêu cầu càng tốt. * Ví dụ 1: Tìm những từ ngữ miêu tả sóng nước. Đặt câu với một trong các từ ngữ vừa tìm được a. Tả sóng nước. M: ì ầm b. Tả làn sóng nhẹ. M: lăn tăn c. Tả đợt sóng mạnh. M: cuồn cuộn ( Bài tập 4 - SGK Tiếng Việt 5 - trang 78 ). Để giúp các em làm giàu vốn từ của mình qua bài tập trên, tôi hướng dẫn các em thực hiện như sau: + Cho học sinh đọc yêu cầu của bài. + Tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm để tìm từ, đặt câu ra phiếu học tập. + Gọi đại diện các nhóm báo cáo, yêu cầu các nhóm khác nhận xét theo các tiêu chí sau: Những từ ngữ tìm được đã phù hợp với yêu cầu của từng nhóm từ chưa, câu văn đã đặt đúng chưa? + Giáo viên nhận xét, tuyên dương những nhóm tìm được nhiều từ để động viên, khích lệ các em. Còn nhóm nào tìm từ chưa phù hợp, đặt câu chưa đúng thì giáo viên giải thích cho các em hiểu để các em sửa lại. Riêng với phần đặt câu tôi khuyến khích các em đặt câu thêm với các từ khác. Việc làm này sẽ giúp các em biết sử dụng vốn từ để đặt câu. - Làm giàu vốn từ từ các nguồn tài liệu sách, báo, truyện, Tôi khuyến khích các em xuống thư viện đọc sách, báo, truyện, .để tích lũy thêm vốn từ. 3. Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả. * Về cách dùng từ: Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 3
  2. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các cách sử dụng vốn từ trong miêu tả. - Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình cảm một cách rõ ràng. - Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả. - Dùng từ gợi cảm, gợi tả: thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ, tính từ - Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: thường là các từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh - Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ. * Ví dụ: + Dùng từ chính xác: Mặt trăng tròn toả ánh sáng xuống vạn vật. + Dùng từ có hình ảnh: Mặt trăng tròn như vành nón lá toả ánh sáng vằng vặc xuống vạn vật. + Dùng từ trái nghĩa: Vào mùa nước lũ, dòng sông trở nên dữ dằn không hiền hoà chút nào. + Dùng cụm từ so sánh, nhân hóa: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con đom đóm đang lập loè sáng. + Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá chuối . * Về cách đặt câu: - Trong khi làm văn, tôi nhắc nhở học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là các vế trong câu ghép, các thành phần khác của câu - Tôi dạy các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép thế, phép nối, phép liên tưởng biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu (câu hỏi tu từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hoá ). * Ví dụ: + Phép lặp: Mưa xuân lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón những hạt mưa xuân. Với chúng, mưa xuân chính là liều thuốc tiên để sinh tồn và phát triển. + Phép thế: Dòng sông như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang phù sa màu mỡ cho đất đai. + Biện pháp tu từ (thường dùng): . Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào là cảnh gì không? Đó chính là dòng sông Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy! . So sánh: Mặt trời như quả bóng tròn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời. . Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên cỏ cây, hoa lá. - Tôi giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như người viết đang kể lể dài dòng về cảnh. Tôi luôn nhấn mạnh với học sinh: + Câu văn kể: dùng để thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc, sự vật. + Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu, các biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc của cảnh đó. Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 4
  3. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. * Ví dụ: Câu văn kể Câu văn tả Mặt trời chiếu ánh nắng xuống Ông mặt trời vén màn mây trắng, toả những mặt đất. tia nắng vàng óng như tơ xuống mặt đất. Hết năm này đến năm khác, sông cứ cần Lúc nào sông cũng chảy để mang mẫn chảy mang phù sa bồi đắp cho đất đai phù sa cho đất. màu mỡ, cây cối xanh tốt. 4. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh nói riêng. Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả cảnh nói riêng giúp học sinh có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị sai lệch về cả nội dung và hình thức. 4.1/ Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả: * Bước 1: Tìm hiểu đề: - Giúp học sinh xác định được đúng trọng tâm yêu cầu đề bài, tránh làm lạc đề. Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được mình đang làm bài văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu cầu, giới hạn đến đâu - Tôi hướng dẫn học sinh làm những công việc sau: + Đọc kĩ đề. + Phân tích đề. Phân tích đề bằng cách: Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn. Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả. Gạch 3 gạch dưới từ xác định thời gian miêu tả. (việc làm này tùy thuộc vào yêu cầu của đề bài vì có đề bài cho thời gian miêu tả nhưng cũng có đề không cho thời gian miêu tả.) * Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ. Với đề bài trên tôi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả lời các câu hỏi: - Đề bài thuộc thể loại văn nào? (Thể loại văn miêu tả). - Đối tượng miêu tả là gì ? (cánh đồng lúa quê em). - Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào? (sau trận mưa rào đầu mùa hạ). Sau khi đọc đề bài và đã trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch chân trực tiếp trên đề bài. Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em sau trận mưa rào đầu mùa hạ * Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý: - Sau khi tìm hiểu đề, các em đã xác định chính xác đối tượng miêu tả. Để giúp các em định hình được bài viết văn tả cảnh, trước tiên tôi hướng dẫn các em tìm ý cho bài văn tả cảnh. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến hành song song với việc quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc trên, với mỗi một đề bài tôi hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng bằng một số câu hỏi gợi ý để học sinh quan sát và ghi lại tỉ mỉ những nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh để làm tư liệu cho việc lập dàn ý. Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 5
  4. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. * Ví dụ: Để quan sát và tìm ý bài: “ Tả con đường vào buổi sáng mỗi ngày đến trường” tôi đưa ra hệ thống câu hỏi gợi ý như sau: + Em hãy giới thiệu về con đường từ nhà đến trường. Cho biết thời gian định tả về con đường đó? + Con đường từ nhà em đến trường dài bao nhiêu cây số? + Vào mỗi buổi sáng trông con đường như thế nào? + Lòng đường rộng, hẹp ra sao? + Em thấy mặt đường có đặc điểm gì? + Hai bên đường cây cối, thảm cỏ có gì đẹp? + Miêu tả lại một số hoạt động nổi bật trên con đường lúc đó. + Những âm thanh nào để lại ấn tượng nhất trong em? + Em có tình cảm thế nào với con đường? - Kết hợp với việc quan sát hình ảnh minh họa - Từ đó các em đã lập được dàn ý bài văn - Sau khi tìm ý, học sinh cần xác định trình tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh có thể là trình tự không gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để lựa chọn cho phù hợp. * Ví dụ: Với bài tả dòng sông chọn trình tự miêu tả là thời gian. + Buổi sáng, ông mặt trời từ từ nhô lên tỏa những tia sáng rực rỡ xuống mặt sông làm mặt sông như khoác trên mình chiếc áo lụa đào thướt tha Trưa về, sông thay chiếc áo xanh lộng lẫy trông thật duyên dáng . Chiều đến, là lúc sông mặc áo ráng vàng quyến rũ Khi mặt trăng đã lên cao. Trên bầu trời xuất hiện những vì sao thì sông nhanh chóng thay chiếc áo hoa lấp lánh ánh sao . Ta cũng có thể chọn trình tự không gian như: + Nhìn từ xa dòng sông như dải lụa mềm mại uốn lượn quanh thôn xóm. Nước sông trong veo in rõ từng mảng mây trời. Trên mặt sông một vài đám lục bình đang lững lờ trôi. Bờ bên trái là hàng phi lao xanh mướt đang in bóng xuống mặt sông như những nàng thiếu nữ yểu điệu soi gương chải tóc. Bên phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh duyên cùng dòng sông - Khi đã xác định được trình tự miêu tả thì học sinh tiến hành lập dàn ý theo khung dàn ý chung như sau: + Mở bài: Giới thiệu bao quát về cảnh sẽ tả. + Thân bài: Tả từng phần của cảnh hoặc sự thay đổi của cảnh theo thời gian. + Kết bài: Nêu nhận xét hoặc cảm nghĩ của người viết. Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 6
  5. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. * Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh: Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất. Trên cơ sở dàn bài vừa lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết bài). Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh, cuốn hút người đọc tôi đã định hướng cho học sinh làm tốt cả ba phần ( mở bài, thân bài, kết bài ). - Mở bài: Là phần đầu tiên, phần trước nhất đến với người đọc, gây cho người đọc cảm giác ấn tượng về bài viết. Phần này có vai trò và tầm quan trọng khá đặc biệt, vì vậy một mở bài ngắn gọn, hấp dẫn sẽ tạo được hứng thú cho người đọc và báo hiệu một bài văn hay. Để học sinh làm tốt phần mở bài các em cần hiểu được thế nào là mở bài trực tiếp, gián tiếp, ưu nhược điểm của từng loại. + Mở bài trực tiếp: Là giới thiệu ngay với người đọc cảnh mà mình sẽ miêu tả. Với kiểu mở bài này tôi đã hướng dẫn học sinh một số cách vào bài trực tiếp như sau: . Mở bài bằng một câu cảm nhận xét, đánh giá về cảnh. Ví dụ: Ôi, dòng sông quê em mới đẹp làm sao ! . Mở bài bằng cách nêu cảnh miêu tả và vị trí hoặc thời gian quan sát cảnh. Ví dụ: Trước trường em, có dòng sông hiền hòa thơ mộng. + Mở bài gián tiếp: Là nói chuyện khác có liên quan rồi dẫn vào giới thiệu đối tượng mình định tả. Khi dạy kiểu mở bài này tôi hướng dẫn các em một số cách mở bài gián tiếp như: . Mở bài bằng cách so sánh. Ví dụ: Tuổi thơ của tôi gắn liền với nhiều kỉ niệm. Con đường thơ mộng ngày hai buổi đưa đôi chân nhún nhảy của tôi đến trường. Triền đê - nơi tôi và các bạn thi nhau thả diều vào mỗi buổi chiều hè. Nhưng thân thiết với tôi nhất vẫn là cảnh nhộn nhịp của sân trường vào giờ ra chơi. . Mở bài bằng một câu nói. Ví dụ: “ Ôi! Sao tự nhiên trời tối thế nhỉ?” Ngước mắt nhìn lên trời, em thấy mây đen ùn ùn kéo đến. Gió thổi mạnh làm lá cây trong vườn bay lả tả. Chắc trời sắp mưa rồi đây. Với mỗi bài văn tôi luôn khuyến khích học sinh mở bài theo cách gián tiếp. Vì mở bài gián tiếp sẽ làm cho bài văn thêm sinh động, gợi cảm hấp dẫn gây hứng thú cho người đọc. - Thân bài: Để giúp các em làm tốt phần thân bài, tôi hướng dẫn học sinh: + Bám sát dàn bài chi tiết. + Dùng từ gợi tả, gợi cảm và các biện pháp tu từ về câu như so sánh, nhân hóa. + Trình bày đoạn văn đúng cách có liên kết đoạn: Với bài văn tả cảnh tôi thường hướng cho các em hình dung mỗi cảnh nhỏ sẽ viết thành một đoạn văn trọn vẹn, trong đoạn văn đó sẽ đi từ khái quát đến cụ thể. Sau đó dùng từ ngữ, dùng câu liên kết các đoạn văn lại với nhau. + Sử dụng đúng các dấu câu: Sử dụng dấu câu hợp lí, đúng chỗ cũng là một yếu tố quan trọng giúp bài văn trở nên rõ ràng, rành mạch. Để các ý trong bài được sắp xếp hợp lí, lôgic, chặt chẽ tôi thường nhắc nhở các em viết theo một trình tự nhất định đã được chọn khi lập dàn ý. - Kết bài: Nếu như mở bài là một lời thân ái mời chào của chúng ta đối với khách tới thăm thì kết bài là lời tạm biệt đầy tình cảm mến yêu, nó khép lại trước mắt người đọc những cảm xúc tràn trề, những hình ảnh đẹp đẽ mà các em đã miêu Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 7
  6. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. tả. Vì thế khi viết phần kết bài, tôi cũng đã hướng dẫn các em viết làm sao cho thật cô đọng, ngắn gọn. Để làm được điều đó các em cần hiểu được thế nào là kết bài mở rộng và không mở rộng. + Kết bài không mở rộng: Thường được đóng ý một cách gọn đủ các ý: . Nhận xét, đánh giá về cảnh. . Hoặc tình cảm đối với cảnh. . Hoặc hành động : Chăm sóc, bảo vệ, * Ví dụ: Khi kết bài văn tả khu vườn vào buổi sáng học sinh có thể viết: Khu vườn thật đẹp. Hoặc được ngắm nhìn khu vườn em thấy rất thích thú và thoải mái. Hoặc em sẽ chăm sóc cho cây cối ở đây luôn tươi tốt. + Kiểu kết bài mở rộng: Khi viết kết bài mở rộng học sinh vẫn đưa 3 ý suy nghĩ, tình cảm, hành động như kết bài không mở rộng nhưng diễn đạt mở rộng hơn Ví dụ: Đề bài: Tả khu vườn vào buổi sáng. Học sinh có thể viết kết bài mở rộng như sau: Khu vườn không rộng, không lộng lẫy những sắc màu của các loài hoa nhưng khi đứng ngắm nhìn nó, em luôn có một cảm giác thật dễ chịu và thoải mái. Ngày qua ngày, nó cứ bình yên hiền lành sống vui bên nắng, bên gió, bên tiếng chim ca hát. Em sẽ chăm sóc cho khu vườn ngày thêm đẹp, cho cây cối quanh năm tươi tốt, tràn trề sức sống. Yêu biết mấy khu vườn nhà em! * Bước 4: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn: Đây là bước rất cần thiết, nó giúp các em sửa chữa những lỗi sai khi viết văn như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, dấu câu, cách trình bày và đặc biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài chưa và bổ sung nội dung còn thiếu. Như vậy từ thực tế quan sát và nắm vững các bước làm bài văn tả cảnh, tôi thấy hầu hết các em học sinh đều lập được dàn ý và từ đó hoàn chỉnh bài văn theo đúng yêu cầu của đề bài. 4.2/ Giáo viên chấm bài và trả bài viết: a. Chấm bài: Đối với giáo viên việc chấm bài cho học sinh rất cần thiết bởi kết quả bài viết của các em sẽ cho giáo viên biết được ưu điểm, hạn chế trong cách dạy để điều chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp. Với mỗi bài tôi thường đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về diễn đạt của học sinh, xem học sinh đã làm bài đúng thể loại, đúng nội dung và trọng tâm bài viết chưa. Sau đó, tôi đọc kĩ từng phần trong bài viết của các em để phát hiện và ghi lại câu văn hay, ý hay, đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo , đồng thời cũng ghi lại những lỗi sai mà học sinh mắc phải (lỗi chính tả, lỗi dùng từ, đặt câu ) vào sổ theo dõi chấm bài để làm dữ liệu cho tiết trả bài. Trong quá trình chấm bài mà phát hiện ra lỗi các em mắc phải tôi thường dùng bút đỏ gạch chân. Sau khi xem xét toàn bài tôi ghi những lời nhận xét cụ thể về những ưu điểm cần phát huy, những nhược điểm cần khắc phục của bài viết. Khi chấm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và rút ra những tiến bộ cần phát huy, những thiếu sót cần sửa chữa, bổ sung để chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới . b. Trả bài viết: Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 8
  7. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. Như chúng ta đã biết tiết trả bài viết là tiết sau cùng của một đề văn, nhưng lại là tiết thiết thực nhất, cụ thể nhất để các em thấy được ưu, nhược điểm trong bài viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau. Tìm cách và biết cách sửa lỗi. Vì vậy theo tôi giáo viên cần nắm rõ nội dung, phương pháp lên lớp một tiết trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có ba hoạt động chính: 1. Nghe thầy (cô) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp. 2. Chữa bài. 3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút kinh nghiệm. Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, tôi đã lấy thông tin từ bài viết của học sinh (đã chấm và ghi ở sổ theo dõi chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp. Phần 4: Kết quả chuyển biến của đối tượng Sau một thời gian vận dụng các biện pháp trên kết hợp với việc đổi mới phương pháp, hình thức dạy học. Tôi thấy thành tích học tập của các em có rất nhiều tiến bộ. Từ việc ngại viết văn các em đã hứng thú làm văn, biết thực hiện làm một bài văn tả cảnh theo trình tự các bước một cách độc lập và thành thói quen tốt. Nhiều bài văn có chất lượng cao, tình trạng học sinh làm lạc đề, sai lỗi về chính tả, lỗi dùng từ đặt câu đã giảm rõ rệt. Nhiều học sinh biết cách sử dụng những biện pháp tu từ so sánh, nhân hóa vào bài của mình làm cho bài văn trở nên sinh động và giàu hình ảnh. Bên cạnh đó các em còn biết làm văn có cảm xúc hơn, câu văn trau chuốt hơn, mở bài, kết bài khá ấn tượng mới mẻ Học sinh biết tự đánh giá mình, đánh giá bạn, biết học tập những ưu điểm của bạn và sửa chữa những hạn chế của mình hoặc của bạn giúp các em chủ động, tự tin và mạnh dạn hơn trong giao tiếp. Nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn tả cảnh đã nâng lên rõ rệt. Cụ thể là: Mức độ đánh giá Bài viết hay, Bài viết đã Bài viết hay, lời văn sinh đúng yêu cầu Bài viết chưa Tổng lời văn sinh Thời gian động giàu hình của đề nhưng đúng yêu cầu số động giàu khảo sát ảnh, đôi chỗ miêu tả còn của đề, sắp HS hình ảnh, diễn đạt còn hời hợt, sơ xếp ý lộn xộn cảm xúc. lủng củng sài. SL % SL % SL % SL % Tháng 9 35 4 11,4 9 25,7 16 45,7 6 17,2 Tháng 11 35 8 22,9 14 40 9 25,7 4 11,4 Tháng 2 35 13 37,1 15 42,9 6 17,2 1 2,8 Tháng 4 35 17 48,6 16 45,7 2 5,7 00 00 Bên cạnh kết quả trên, trong kì thi giao lưu học sinh năng khiếu năm học 2018 – 2019 vừa qua, lớp tôi có em Nguyễn Lê Phương Thúy đạt giải III học sinh năng khiếu môn Tiếng Việt cấp huyện. Đây là kết quả đáng mừng của tôi. Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 9
  8. Đề tài: Một số biện pháp rèn kĩ năng làm văn tả cảnh cho học sinh lớp 5. Phần 5: Kết luận 1. Tóm lược giải pháp: Qua quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy để dạy tốt thể loại văn tả cảnh thì trước tiên giáo viên phải lưu ý một số vấn đề sau: - Lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp với lớp và phù hợp tới từng nhóm đối tượng học sinh. - Đối với thể loại văn miêu tả nói chung, tả cảnh nói riêng và mỗi bài văn giáo viên cần đặc biệt lưu ý các điểm sau: + Giúp học sinh nắm chắc phương pháp cơ bản nhất của văn miêu tả và văn tả cảnh. + Rèn cho học sinh một số kĩ năng: Kĩ năng quan sát, kĩ năng sử dụng từ ngữ và các biện pháp nghệ thuật tu từ, kĩ năng đặt câu + Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khi học các phân môn khác của môn Tiếng Việt. + Tạo thói quen chăm chú nghe giảng, nắm vững kiểu bài, có kĩ năng quan sát, tìm ý, tìm từ ngữ phù hợp, có bố cục rõ ràng, + Nhận xét, đánh giá kịp thời thường xuyên, chuyển kết quả đánh giá của giáo viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh. + Tạo không khí sôi nổi, tôn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em có sự cố gắng dù là đôi chút. + Tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy để cung cấp cho học sinh những hình ảnh sinh động về cảnh vật và đặc biệt là những cảnh đẹp của đất nước mà các em ít có điều kiện biết đến. 2. Phạm vi đối tượng áp dụng: Đề tài này được tôi áp dụng đối với học sinh lớp 5/2 Trường Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh năm học 2018 – 2019. Tôi thiết nghĩ đề tài này có thể áp dụng cho tất cả học sinh khối lớp 5 của trường. Giáo viên: Phạm Thị Trinh – Đơn vị: Tiểu học Huỳnh Văn Đảnh 10