Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_xay_dung_ne_nep_lop_h.docx
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp xây dựng nề nếp lớp học nhằm nâng cao ý thức học tập cho học sinh
- - Không bao che khuyết điểm. Tuyệt đối tránh tạo ra sự đối lập giữa cán bộ lớp với các thành viên trong lớp. Việc tổ chức bình chọn được thực hiện công khai bằng cách cho các em bỏ phiếu tín nhiệm. Sau khi có trong tay danh sách ban cán sự lớp tôi tiến hành họp và phân công nhiệm vụ cụ thể cho từng em theo đúng khả năng của mình. Biết được nhiệm vụ cụ thể của ban cán sự, khi có thắc mắc hay trao đổi về vấn đề gì liên quan đến hoạt động nào thì các bạn trong lớp sẽ trực tiếp gặp gỡ với bạn phụ trách công việc đó nhanh hơn, tiện lợi hơn. + Chủ tịch hội đồng tự quản (An): chịu trách nhiệm bao quát chung các hoạt động của lớp, điều khiển chung toàn lớp trong giờ tập trung sinh hoạt, kiểm diện hàng ngày, tổng hợp các báo cáo hoạt động của tổ trong tuần nộp cho giáo viên chủ nhiệm. + Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Châm): nắm tình hình chung phần chuẩn bị bài, truy bài đầu giờ của các tổ hàng ngày, tổng kết điểm thi đua trong tuần. + Phó chủ tịch hội đồng tự quản (Tâm): quản lý việc thực hiện nội quy lớp, trường, ý thức kỷ luật của học sinh, + Trưởng ban văn thể mỹ (lớp phó phong trào): (Thu hà): Chịu trách nhiệm giờ hát của lớp, cùng các bạn tham gia các tiết mục văn nghệ, tham gia các phong trào của lớp, + Trưởng ban lao động (Linh): Chịu trách nhiệm về việc vệ sinh, lao động. + Nhóm trưởng (Linh, Huy, Minh Anh, Thùy, Ly): Là những thành viên có học lực và năng lực quản lý tốt nhất trong nhóm của mình (Nhóm 4 thành viên, được chia ra từ tổ). Nhóm trưởng có trách nhiệm hướng dẫn điều hành các hoạt động nhóm trong từng giờ học. Sau đó hằng ngày, hàng tuần, hàng buổi học ban cán sự lớp sẽ tiến hành công việc như sau: - Đầu giờ (trước giờ truy bài đầu giờ): kiểm tra những việc như sau: Soạn sách vở theo đúng thời khóa biểu, mang đầy đủ đồ dùng học tập, đi học đúng giờ, tổ trưởng chấm điểm thi đua trong tuần theo quy định như sau: (vi phạm một nội dung trừ 01 điểm) - Trong giờ học: theo dõi các bạn trong tổ thái độ học tập, phát biểu xây dựng bài thì được cộng điểm thưởng như sau: phát biểu xây dựng bài cộng 1 điểm/lần, nói chuyện trong giờ học thì bị trừ 2 điểm/lần. Giáo viên chủ nhiệm chỉ đóng vai trò cố vấn, định hướng cho các em hoạt động, cùng các em tháo gỡ những vướng mắc khi thực hiện công việc. 11
- b) Xây dựng nề nếp tự quản - Đề cử và gợi ý để học sinh bầu cử ra chủ tịch và các phó chủ tịch hội đồng tự quản là những em nhanh nhẹn, hoạt bát, mạnh dạn, có uy tín có tinh thần trách nhiệm cao, đoàn kết và có năng lực học tập để giúp giáo viên điều hành, phân công nhiệm vụ và hoàn thành nhiệm vụ được giao trong lớp học. - Giờ sinh hoạt đầu tiên trong 2 tuần sinh hoạt ngoại khoá giáo viên chủ nhiệm hướng dẫn học sinh cách điều khiển, các bước trong 1 tiết, sinh hoạt lớp nhận xét một số nề nếp ( học tập, vệ sinh) lớp trong tuần qua. - Các trưởng ban nhận xét hoạt động của ban mình phụ trách, Chủ tịch hội đồng điều khiển sau đó giáo viên nêu kế hoạch của tuần đến các em sẽ thảo luận nêu nhiệm vụ cần làm trong tuần. - Sau mỗi buổi sinh hoạt tổ chức các trò chơi nhằm tạo sự hứng thú cho các em để các em thấy được mỗi ngày đến trường là một ngày vui từ đó hạn chế được tình trạng học sinh bỏ học, nguy cơ bỏ học. - Cùng các em tổ chức trang trí lớp học thân thiện, mỗi em đề trang trí từ đó các em có ý thức gìn giữ sản phẩm mình tạo ra c) Xây dựng nề nếp học tập Để được giờ học có kết quả tốt thì lớp học phải có nề nếp tốt. Ngay tuần sinh hoạt ngoại khóa đầu tiên của năm học tôi đã dành thời gian cho học sinh học nội quy của trường và 10 bước học tập của lớp. Rèn thói quen xin phép ra, vào lớp, Quy định một số thói quen: - Giơ tay phát biểu, giơ mặt mếu mặt cười. - Quy định về các biểu tượng. - Cách ngồi học ngay ngắn, giữ vở sạch chữ đẹp. - Trong giờ học không nói chuyện và làm việc riêng. - Im lặng khi giáo viên kiểm tra vở. Tôi đã phân loại học sinh ngay từ đầu năm học qua bài khảo sát đầu năm để hiểu rõ xem các em chưa hoàn thành về mặt nào, môn nào từ đó có biện pháp bồi dưỡng kịp thời, hợp lý. Phân loại học sinh để có kế hoạch phụ đạo và bồi dưỡng: * Đối với học sinh năng khiếu: Trong các tiết dạy, tôi đưa ra từ 1 đến 2 câu hỏi với yêu cầu cao hơn, dạng các câu hỏi sao (*) hoặc các bài tập nâng cao. Để ra các câu hỏi này, tôi luôn nghiên cứu kỹ nội dung bài dạy, tìm hiểu ở các tài liệu có liên quan nhằm mục đích hướng dẫn, kích thích học sinh (nhất là học sinh hoàn thành tốt kiến 12
- thức kỹ năng môn học) tự tìm ra kiến thức mới, mở rộng tầm hiểu biết của học sinh. * Đối với học sinh chưa hoàn thành kiến thức kỹ năng môn học: Các em chán học do bị mất căn bản ở lớp dưới. Học sinh cảm thấy việc học rất nặng nề. Qua tìm hiểu theo dõi trong quá trình giảng dạy tôi nắm được những kiến thức do học sinh bị hổng. Tôi đưa ra bài tập dễ, sử dụng câu hỏi nhỏ, đơn giản, phù hợp với sức học của mỗi em, gọi các em trả lời hoặc giải bài tập, đồng thời tuyên dương kịp thời cũng như động viên giúp đỡ các em trong quá trình thực hiện các bài tập. Từ các bài tập dễ tôi nâng dần lên theo sự tiến bộ của học sinh. Bên cạnh đó, thành lập các đôi bạn cùng tiến, xếp cho học sinh khá giỏi ngồi gần bạn yếu, kém. Qua một thời gian tôi thấy các em này tiến bộ rõ rệt. Thường xuyên trao đổi học tập kinh nghiệm của đồng nghiệp để bổ sung phương pháp phụ đạo và bồi dưỡng cho bản thân nhằm nâng cao hiệu quả bồi dưỡng và phụ đạo mà mình đã đặt ra. Tạo cho học sinh thói quen và sự say mê đọc sách bằng cách khuyến khích các em đọc sách báo ở thư viện mỗi tuần 1 – 2 lần vào giờ ra chơi. Tôi cố gắng xây dựng ở các em những động cơ học tập, khích lệ các em vượt mọi trở ngại bằng sự quan tâm, nhắc nhở có sự khen thưởng kịp thời. Trong chương trình Tiểu học, môn toán giữ vị trí quan trọng, thời gian dành cho môn toán chiếm tỉ lệ khá cao trong toàn bộ quỹ thời gian các môn học ở Tiểu học. Bởi vì môn toán là một trong những môn khoa học, đối với bậc Tiểu học, nó góp phần rèn luyện cho học sinh phương pháp suy luận, cách giải quyết vấn đề giúp các em phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, cách xử lý tình huống linh hoạt, sáng tạo. Dạy học Toán ở Tiểu học nhằm giúp học sinh: Có những kiến thức cơ bản ban đầu về số học các số tự nhiên, các đại lượng thông dụng; một số yếu tố hình học và thống kê đơn giản. Giải được các bài toán đơn giản có ứng dụng nhiều trong thực tế xây dựng nền móng toán học để các em học tiếp lên các bậc học trên đồng thời ứng dụng thiết thực trong cuộc sống hàng ngày của các em. Góp phần bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lý và diễn đạt đúng (nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết các vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng, gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch, khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. 13
- Muốn lớp mình có nề nếp tốt tôi đã xây dựng kế hoạch chung cho cả năm học, kế hoạch cụ thể cho từng tháng, từng tuần và cho mỗi kỳ học. Đối với học sinh chưa hoàn thành, chậm trong học tập thì tôi xếp các em ngồi lên bàn đầu để các em dễ tiếp thu kiến thức trong mỗi bài học,cũng để cho giáo viên tiện giúp đỡ và theo dõi sự tiến bộ của các em . Phân công rõ nhiệm vụ cho từng em và cho các em tự đăng ký thi đua. Xây dựng nề nếp đội ngũ tự quản cốt cán của lớp. Kết hợp với đội sao đỏ của liên đội, các em sẽ tự kiểm tra về: Nghi thức đội, mặc đồng phục, việc chuẩn bị học bài và làm bài ở nhà. Ví dụ: Các trưởng ban theo dõi các thành viên trong Ban và báo cáo cho Phó chủ tịch hội đồng tự quản, Phó chủ tịch hội đồng tự quản báo cáo chủ tịch hội đồng tự quản. Nêu cao tinh thần tự giác và tăng hứng thú học tập cho học sinh bằng hình thức thi đua, khen thưởng Tôi luôn tạo ra tình huống để mỗi học sinh được thể hiện mình trước tập thể lớp. Từ đó khen ngợi kịp thời với từng tiến bộ nhỏ của các em. Chủ tịch hội đồng tự quản theo dõi chung trong lớp. Động viên đúng mực kịp thời để các em phấn khởi tự giác trong học tập cũng như mọi hoạt động khác. Ngoài khâu tổ chức lớp, tôi còn vận dụng nhiều phương pháp giáo dục ngoài giờ lên lớp để nâng cao chất lượng giáo dục có nề nếp như “Nói lời hay, làm việc tốt”; “Nhặt được của rơi trả lại người đánh mất”; “Đền ơn đáp nghĩa”; “Lá lành đùm lá rách” Giáo viên nhắc nhở và tạo thói quen tự giác học tập, giữ gìn sách vở ở trường cũng như ở nhà. Phân công ban học tập tự lấy và cất đồ dùng học tập trong giờ học, kiểm tra bài làm ở nhà, vở bài tập lúc đầu giờ học Khuyến khích học sinh hăng say phát biểu, tích cực trong học tập. Tuyên dương, khen thưởng những em có tiến bộ trong tuần, trong tháng. d) Xây dựng thói quen đoàn kết giúp đỡ bạn cùng lớp - Phân công giúp đỡ, gần gũi học sinh yếu, rụt rè, ít hoạt động. - Phân công học nhóm giúp đỡ bạn khi gặp khó khan (nhóm nhà gần nhau). - Tạo thói quen để học sinh có ý thức tự giác giúp đỡ bạn bè thông qua các bài học môn Đạo đức như: “Có ý thức về việc làm của mình”, “Tình bạn” - Động viên các em tham gia những phong trào đoàn thể, phong trào do trường tổ chức để rèn luyện thêm sự nhanh nhẹn, bạo dạn và tinh thần đoàn kết 14
- như: thi văn nghệ (6 học sinh trong đội văn nghệ của trường), tham gia hội khỏe Phù Đổng, thi kể chuyện theo sách đạo đức, - Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, phòng chống các tệ nạn xã hội xâm nhập vào nhà trường (ký bản cam kết Chiến sĩ an ninh nhỏ). - Phối hợp với giáo viên bộ môn dạy cho các em bài hát quy định, trò chơi dân gian, nhân dịp kỷ niệm các ngày lễ lớn. - Tổ chức sân chơi cho học sinh ở lớp như: Chiếc nón kì diệu, Ai là triệu phú, Rung chuông vàng, trong các tiết học và hoạt động ngoài giờ lên lớp để phát huy và chọn lọc những học sinh có năng khiếu để tham gia các hội thi do nhà trường tổ chức. e) Xây dựng nề nếp vệ sinh *) Vệ sinh cá nhân - Thường xuyên nhắc nhở học sinh giữ vệ sinh thân thể. - Phân tích, giảng giải cho học sinh thấy được vai trò của học sinh lớp 5 là lớp lớn nhất trong trường cần phải làm gương cho các em lớp nhỏ học tập theo. *) Vệ sinh trường lớp - Giáo viên gương mẫu thực hiện để học sinh noi theo trong mọi hoạt động dù là hoạt động nhỏ. Ví dụ: Giáo viên nhặt giấy vụn hay túi ni lon trên sân trường, lau vết bẩn trên tường trong lớp học - Cùng với học sinh lau dọn phòng học 1 tuần 2 lần, quét dọn vệ sinh xung quanh lớp học và trên sân trường, lau các vết bẩn trên tường từ đó hình thành ý thức bảo vệ, giữ vệ sinh chung của học sinh. - Cùng nhau vệ sinh khu vực vệ sinh tự quản của lớp trên sân trường ngày 2 lần. *) Trồng và chăm sóc bồn cây của lớp g) Xây dựng nề nếp giờ ra chơi - Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng tập thể dục ngay từ đầu năm, cử cán sự lớp giúp các em lớp 1 xếp hàng tập thể dục, phân công đội cờ đỏ theo dõi để báo cáo với giáo viên kịp thời . - Phối hợp TPTĐ hướng dẫn và nhắc nhở các em tập thể dục nghiêm túc trong giờ ra chơi. - Thường xuyên nhắc các em vui chơi an toàn tránh tai nạn thương tích. Tạo điện kiện để các em được đọc sách, báo ở thư viện xanh trong giờ ra chơi để các em tìm hiểu thêm kiến thức đồng thời hạn chế một số tai nạn trong giờ ra chơi và giữ gìn vệ sinh cá nhân cho các em. h) Xây dựng nề nếp ra, vào lớp 15
- - Ngay từ đầu năm, trong 2 tuần sinh hoạt tập thể hướng dẫn, nhắc nhở các em xếp hàng ra vào lớp. - Tôi cho các em đánh số thứ tự cho mình trong buổi xếp hàng đầu tiên và yêu cầu học sinh phải nhớ số thứ tự. - Khi xếp hàng ra về các em xếp thành hàng đôi: Lớp trưởng đi đầu hàng, tiếp theo là thành viên tổ 1 và thành viên tổ hai, ở hàng hai là lớp phó sẽ dẫn đầu tổ 3 và phía sau là thành viên tổ. - Mỗi khi xếp hàng vào lớp các em chỉ cần nhớ số thứ tự và vị trí của mình mà vào ngay hàng ngũ. Cũng như khi ra về ban cán sự lớp đi xen kẽ như vậy để nhắc nhở các bạn đi cho ngay ngắn, không chen lấn, xô đẩy, đùa giỡn gây mất trật tự, ảnh hưởng đến thi đua của lớp. Bắt đầu từ tháng 11 về sau các em đã quen dần và đi vào nề nếp. Khi việc xếp hàng đã đi vào nề nếp thì thời gian tiến hành sẽ rất nhanh, tốn ít thời gian và không gây mất trật tự trước lớp học. - Cùng với giáo viên bộ môn thể dục nhắc nhở các em đi vào lớp theo hàng sau mỗi tiết học thể dục không để các em chạy vào lung tung gây ồn ào, mất tập trung cho các lớp học khác. - Tạo thói quen cho học sinh xếp hàng ra, vào lớp. Phân công đội cờ đỏ kiểm tra trang phục, khăn quàng, vê sinh i) Xây dựng nề nếp lễ phép Từ đầu năm nhận lớp lớp 3A tôi thấy học sinh nhận quà hay vật gì từ người lớn, thầy cô đều bằng một tay, nói với người lớn trống không. Để tạo được nề nếp lễ phép ở học sinh thì trước tiên giáo viên phải gương mẫu lễ phép để học sinh noi theo, thường xuyên nhắc nhở học sinh lễ phép với người lớn. - Kịp thời tuyên dương những biểu hiện lễ phép của học sinh để các bạn noi theo, học tập theo. - Giáo dục học sinh qua các bài đạo đức như: “Kính già, yêu trẻ”, “Hiếu thảo với ông bà, cha mẹ”, “Biết ơn thầy giáo, cô giáo” - Sau hơn hai tháng thì kết quả đạt được ở lớp tôi là học sinh lễ phép chào hỏi người lớn không chỉ là giáo viên trong trường mà cả người lớn, người lạ mặt vào trường, chào hỏi, giúp đỡ người già nhận quà và đồ vật từ người lớn bằng hai tay k) Xây dựng thói quen phê và tự phê - Tôi đã xây dựng dựa trên tiết sinh hoạt lớp cuối tuần cho học sinh. Tập cho các em biết phê và tự phê một cách hồn nhiên, chân thật. Từng tổ các em sẽ ngồi lại chọn bạn xuất sắc là bạn học tốt, không vi phạm những điều đã qui định, bạn nào có chuyển biến hơn so với tuần trước thì được chọn là bạn tiến bộ cũng 16
- được tuyên dương (lấy biểu quyết cả tổ). Em nào còn vi phạm cũng được bạn chỉ ra và nhận sai trước tổ. Tôi đã theo suốt để tuyên dương trước lớp những học sinh xuất sắc cũng như khéo léo xoa dịu, động viên những em còn sai phạm để sửa chữa ở tuần sau. - Phải tìm nguyên nhân đối với học sinh vi phạm. *Ví dụ 1: Một học sinh rất ngoan, nhưng hôm đó em không thuộc bài thì giáo viên phải tìm hiểu nguyên nhân, nếu do hoàn cảnh khách quan, giáo viên không nên cho điểm kém ngay mà cần động viên em về học tập cho tốt. Thầy, cô sẽ kiểm tra em lần khác. *Ví dụ 2: Nếu có em vi phạm nhiều lần về không học bài và không làm bài. Giáo viên chủ nhiệm tìm hiểu nguyên nhân, nếu do học yếu thì sẽ phân công học sinh khá giỏi giúp đỡ bằng cách giảng bài cho hiểu, động viên em chăm chỉ học tập để không phụ lòng bạn bè, thầy cô. - Để hình thành thói quen cho học sinh, tôi đã duy trì thường xuyên, liên tục và có điều chỉnh cho phù hợp tình hình của lớp. Đặc biệt luôn tạo không khí gần gũi, thân mật giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau. - Giáo viên chủ nhiệm kết hợp với giáo viên bộ môn luôn gần gũi các em, tình thương yêu giữa các em phải công bằng. Chủ yếu là thái độ mềm mỏng, luôn động viên nhắc nhỡ các em thực hiện tốt. Nhưng cũng cần phải nghiêm khắc xử lý đối với các em cố tình vi phạm. - Sắp xếp không để thời gian chết ở lớp, cũng không để tiết học nặng nề, căng thẳng tôi đã chuẩn bị sẵn những bài toán vui, câu đố và chuyện kể có liên quan nội dung bài để sử dụng cuối tiết. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến 7.2.1. Kết quả môn học và các hoạt động giáo dục * Lớp áp dụng sáng kiến: Lớp 3A - Trường Tiểu học Hợp Thịnh * Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau: Môn TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % Tiếng Việt 34 5 21,2 13 36,4 12 36,4 4 6,0 Toán 34 9 27,3 10 30,3 12 39,4 3 3,0 * Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau: Môn TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % 17
- Tiếng Việt 34 9 39,4 12 33,3 13 27,3 0 Toán 34 12 45,5 14 33,3 8 21,2 0 7.2.2. Kết quả năng lực và phẩm chất Năng lực, TS Tốt Đạt Cần cố gắng phẩm chất HS TS % TS % TS % Học kì 1 34 15 44,1 19 55,8 0 Học kì 2 34 18 52,9 16 47,0 0 * Lớp không áp dụng sáng kiến: Lớp 3B - Trường Tiểu học Duy Phiên B * Kết quả đạt được cuối học kì I môn Toán, Tiếng Việt như sau: Môn TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % Tiếng Việt 29 4 13,7 8 27,6 14 48,3 3 10,4 Toán 29 8 20,7 11 34,5 8 37,9 2 6,9 * Kết quả đạt được ở cuối học năm học như sau: Môn TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % Tiếng Việt 29 7 24,1 10 34,5 12 41,4 0 Toán 29 12 41,4 7 24,1 10 34,5 0 * Kết quả năng lực và phẩm chất Năng lực, TS Tốt Đạt Cần cố gắng phẩm chất HS TS % TS % TS % Học kì 1 29 12 41,4 17 58,6 0 Học kì 2 29 16 55,1 13 44,9 0 7.2.3. Bảng so sánh kết quả 18
- * Kết quả môn Toán cuối học kỳ I. Lớp TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % 3A 34 9 14,7 13 21,2 12 33,3 3 36,4 3B 29 8 20,7 11 34,5 8 37,9 2 6,9 * Kết quả môn Tiếng Việt cuối học kỳ I. Lớp TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % 3A 34 5 6,1 13 30,3 12 36,3 4 27,3 3B 29 6 20,7 10 34,5 11 37,9 2 6,9 * Kết quả môn Toán cuối năm. Lớp TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % 3A 34 12 45,5 14 33,3 8 21,2 0 3B 29 12 41,4 7 24,1 10 34,5 0 * Kết quả môn Tiếng Việt cuối năm Lớp TS Giỏi Khá Trung bình Yếu HS TS % TS % TS % TS % 3A 34 9 39,4 12 33,3 13 27,3 0 3B 29 7 27,6 11 37,9 11 34,5 0 - Phân tích, ta thấy kết quả của hai lớp + Tỉ lệ điểm dưới 5 của cả hai môn của lớp 3A giảm mạnh so với đầu năm: Từ 36,4 % xuống còn 0 % . Tỉ lệ giảm được 36,4 % + Tỉ lệ điểm dưới 5 của cả hai môn của lớp 3b cũng giảm so với đầu năm: Từ 6,9 % xuống còn 0 % . Tỉ lệ giảm được 6,9 % 19
- + Tỉ lệ điểm 9 - 10 của cả hai môn của lớp 3B tăng mạnh so với đầu năm: Môn Tiếng Việt từ 6,1% tăng lên 39,4% tăng thêm 3,33 % Môn Toán từ 9,1 % tăng lên 45,4 % tăng thêm 36,3 % + Tỉ lệ điểm 9 - 10 của cả hai môn của lớp 3B tăng so với đầu năm: Môn Tiếng Việt từ 20,7 % tăng lên 27,7 % tăng thêm 7 % Môn Toán từ 20,7 % tăng lên 41,4 % tăng thêm 20,7 % Qua kết quả cụ thể ở trên, tôi nhận thấy rằng sáng kiến của tôi đưa vào áp dụng không những giúp các em năng động, sáng tạo có kết quả học tập tốt hơn mà còn giúp các em say mê môn học, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, cùng giúp nhau tiến bộ, các em biết nhường nhịn nhau và ngoan hơn trước rất nhiều. Sáng kiến này không chỉ đem lại thành công cho công tác chủ nhiệm mà còn đem lại thành công cho tất cả các giờ học và các hoạt động giáo dục khác. Nó không chỉ áp dụng cho một nhà trường mà nó còn có thể áp dụng trong phạm vi toàn tỉnh. 8. Những thông tin cần được bảo mật (không có) 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Cơ sở vật chất: Điều kiện thường. Nhân lực: Mọi giáo viên tiểu học. Kinh tế: Điều kiện thường. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 10.1. Đánh giá lợi ích thu được của bản thân Từ những biện pháp giáo dục nề nếp trên đây từ đầu năm đến nay lớp tôi đã đạt được những kết quả đáng kể : - Hăng say học tập, hoạt động nhóm trong tiết học thích ứng với cách học của mô hình trường học mới VNEN. - Hăng say trong học tập, mạnh dạn trao đổi những khó khăn vướng mắc với giáo viên chủ nhiệm. - Các em học sinh trong lớp đều ngoan ngoãn lễ phép, kính thầy yêu bạn, lễ phép với người lớn chăm chỉ học tập, có tinh thần chia sẻ khó khăn với người khác qua các đợt ủng hộ đồng bào miền Trung, các bạn học sinh vùng lũ lụt và cả các bạn học sinh trong trường có hoàn cảnh khó khăn hoặc các bạn gặp tai nạn rủi ro trong năm học - Học sinh biết giữ vệ sinh cá nhân, vệ sinh chung, tham gia mọi hoạt động của trường của lớp một cách nhiệt tình và có hiệu quả. 20
- - Học sinh mạnh dạn trong giao tiếp và không nói tiếng địa phương trong trường, trong lớp. - Nghiêm túc tập thể dục đầu giờ và giữa giờ, xếp hàng ra vào lớp một cách trật tự. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân - Sáng kiến này khi triển khai trong tổ chuyên môn, trong nhà trường được tập thể giáo viên đón nhận, hưởng ứng nhiệt tình, đánh giá cao. Các giáo viên đều có nhận xét là sáng kiến hay và có thể áp dụng rộng rãi trong huyện, trong tỉnh và trong toàn ngành để đổi mới phương pháp dạy học. 11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu Số Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực TT áp dụng sáng kiến 1 Vũ Thị Huệ GV lớp 3A trường Tiểu học Công tác chủ nhiệm lớp Hợp Thịnh 2 Hợp Thịnh, ngày tháng 10 năm 2018 Hợp Thịnh, ngày 20 tháng 10 năm 2018 HIỆU TRƯỞNG TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Trần Thị Nga Lan Vũ Thị Huệ 21