Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh Lớp 3
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh Lớp 3", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_ren_ki_nang_nhan_biet_bien_phap_so_san.docx
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Rèn kĩ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh Lớp 3
- Thứ nhất: Học sinh tìm hiểu mục đích của bài tập, rồi xem bài tập đang làm thuộc dạng bài tập nào. Tôi gợi ý hướng dẫn xem bài tập đó yêu cầu các em nhận diện gì, hoặc tạo ra cái gì, dùng cái gì cho đúng quy tắc. Thứ hai: Học sinh tìm cách giải bài tập qua việc phân tích các chỉ dẫn làm bài nêu trong đầu bài. Tôi hỏi để các em nhận biết xem đề bài yêu cầu làm gì, làm việc gì trước, việc gì sau. Thứ ba: Đối với những bài tập khó, tôi cho học sinh quan sát hoạt động giải mẫu một phần bài tập để học cách giải và từ đó giải tiếp. Thứ tư: Học sinh tự nhận xét, đánh giá kết quả bài làm để các em nhớ lại một lần nữa kiến thức, kĩ năng đã học nêu trong bài tập và rút kinh nghiệm để làm bài sau tốt hơn. Khi để học sinh tự đánh giá, tôi nêu các tiêu chuẩn yêu cầu từng học sinh tự đánh giá bài mình làm hoặc đánh giá bài của bạn theo tiêu chuẩn. (Tôi giải thích cho học sinh rõ vì sao có đáp án đó). Ví dụ: Tuần 1: Bài tập 2 (trang 8): Tìm sự vật được so sánh trong khổ thơ sau: “Ơ cái dấu hỏi Như vành tai nhỏ Trông ngộ ngộ ghê Hỏi rồi lắng nghe.” - Tôi mời học sinh đọc yêu cầu của đề, giải thích cho học sinh hiểu từ ngữ chỉ sự vật. Học sinh gạch chân bằng bút chì từ chỉ sự vật vào vở bài tập. Học sinh trình bày (Tôi hỏi vì sao để học sinh giải thích lí do lại sao em chọn từ đó). Tôi đưa ra đáp án: Sự vật so sánh Từ so sánh Sự vật so sánh Cái dấu hỏi như vành tai nhỏ 7.3. Hướng dẫn học sinh nhận biết các biện pháp thông qua mô hình vừa phân tích. Muốn học sinh của mình có một kĩ năng nhận biết biện pháp tu từ vững vàng, đòi hỏi người giáo viên phải có nghệ thuật khi hướng dẫn bài mới, dựa vào các mô hình vừa phân tích. 7.3.1. So sánh. - Mô hình 1: So sánh Sự vật - Sự vật: 6
- Mô hình này cách nhận dạng rất dễ vì trong câu thường xuất hiện các từ so sánh (như, là, giống, tựa, chẳng bằng ) Mô hình này có các dạng sau: A như B. A là B. A chẳng bằng B Dạng này đã xuất hiện ở các bài tập đầu tiên của chương trình và xuyên suốt đến cuối chương. * Ví dụ: Tuần 1: Bài 2 (SGK trang 8): Tìm sự vật được so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn dưới đây: "Hai bàn tay em "Cánh diều như dấu á Như hoa đầu cành" Ai vừa tung lên trời" (Huy Cận) (Phạm Như Hà) "Mặt biển sáng trong như tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch" (Vũ Tú Nam) Để làm tốt bài tập này, tôi cho học sinh phát hiện các từ chỉ sự vật được so sánh, từ đó các em sẽ tìm được sự vật so sánh với nhau trong các câu thơ, câu văn trên. Tôi giải thích cho học sinh điểm tương đồng giữa các từ chỉ sự vật được so sánh. * Tôi sử dụng 2 phương án. Phương án 1: Gạch chân các từ chỉ sự vật so sánh trong các câu trên bằng bút chì vào VBT. Phương án 2: Tôi cho các em thảo luận nhóm đôi. Các nhóm thảo luận rồi điền vào vở: Sự vật 1 Từ so sánh Sự vật 2 Hai bàn tay như hoa đầu cành Mặt biển như tấm thảm khổng lồ Cánh diều như dấu “ á” Đại diện nhóm trình bày (Chỉ bất kì 1 em trong nhóm): + "Hai bàn tay em" so sánh với "hoa đầu cành" + "Mặt biển" so sánh với "tấm thảm khổng lồ". + "Cánh diều" so sánh với "dấu á" 7
- + "Dấu hỏi" so sánh với "vành tai nhỏ". Nếu tôi hỏi ngược lại là vì sao "Hai bàn tay em" được so sánh với "Hoa đầu cành" hay vì sao nói "Mặt biển" như "tấm thảm khổng lồ"? Lúc đó, tôi hướng học sinh tìm xem các sự vật so sánh này đều có điểm nào giống nhau. Chẳng hạn: + Hai bàn tay của bé nhỏ xinh như một bông hoa. + Mặt biển và tấm thảm đều phẳng, êm và đẹp. + Cánh diều hình cong cong, võng xuống giống hệt như dấu á. - Tôi vẽ lên bảng "Cánh diều" và "Dấu á", cho học sinh quan sát tranh biển và tấm thảm. + Trời mùa đông lạnh như cái tủ ướp lạnh. + Trời mùa hè nóng như bếp lửa lò nung. Tôi còn giới thiệu cho các em biết Câu bố tôi là công nhân (từ là có tác dụng giới thiệu không phải từ dùng để so sánh. Trong trường hợp này, học sinh phải hiểu nghĩa của từ và của câu). - Mô hình 2: So sánh: Sự vật - Con người. Dạng mô hình so sánh này là: A có thể là con người. B sự vật đưa ra làm chuẩn để so sánh. Ví dụ: Tuần 7: Bài tập 1/ trang 58: Tìm các hình ảnh so sánh trong các câu dưới đây: "Trẻ em như búp trên cành Biết ăn, biết ngủ, biết học hành là ngoan" (Hồ Chí Minh) "Bà như quả ngọt chín rồi Càng thêm tuổi tác càng tươi lòng vàng". (Võ Thanh An) Với dạng bài tập này học sinh sẽ dễ dàng tìm sự vật so sánh với con người nhưng các em chưa giải thích được "Vì sao?". Chính vì điều đó, tôi giúp học sinh tìm được đặc điểm chung của sự vật và con người. Chẳng hạn: 8
- "Trẻ em" giống như "búp trên cành". Vì đều là những sự vật còn tươi non đang phát triển đầy sức sống non tơ, chứa chan niềm hy vọng. "Bà" sống đã lâu, tuổi đã cao giống như "quả ngọt chín rồi" đều phát triển đến độ già có giá trị cao, có ích lợi cho cuộc đời, đáng nâng niu và trân trọng. - Mô hình 3: So sánh: Hoạt động - Hoạt động. Mô hình này có dạng như sau: A x B. A như B. Ví dụ bài tập 2/ trang 98, tuần12: Trong các đoạn trích sau, những hoạt động nào được so sánh với nhau: + "Con trâu đen lông mượt Nó cao lớn lênh khênh Cái sừng nó vênh vênh Chân đi như đạp đất" (Trần Đăng Khoa) + "Cau cao, cao mãi Như tay ai vẫy Tàu vươn giữa trời Hứng làn mưa rơi" (Ngô Viết Dinh) Dạng bài này, tôi giúp học sinh nắm chắc được từ chỉ hoạt động, từ đó các em sẽ tìm được các hoạt động được so sánh với nhau. Chẳng hạn: + Hoạt động "đi" so sánh với hoạt động "đập đất" qua từ "như". + Hoạt động “Vươn” của tàu lá dừa giống hoạt động “vẫy” tay của con người. - Mô hình 4: So sánh: Âm thanh - Âm thanh: A là âm thanh thứ 1. B là âm thanh thứ 2. Ví dụ: (Tuần 14: Bài tập 2, trang 117): Tìm những âm thanh được so sánh với nhau trong mỗi câu thơ, văn dưới đây: Với dạng bài tập này, tôi giúp học sinh nhận biết được âm thanh thứ nhất và âm thanh thứ hai được so sánh với nhau qua từ "như". Chẳng hạn: + "Côn Sơn suối chảy rì rầm Ta nghe như tiếng đàn cầm bên tai" (Nguyễn Trãi) Âm thanh của "Tiếng suối" được so sánh với âm thanh của "Tiếng đàn cầm" qua từ "như". *Trong quá trình thực hiện tôi còn cho học sinh làm hai dạng bài sau: 9
- - Dạng bài tập sáng tạo. Mục tiêu: Giúp học sinh biết cách sử dụng biện pháp tu từ so sánh Dạng bài tập này có tính tư duy, sáng tạo cao hơn, tuy nhiên, dạng bài tập này trong sách giáo khoa rất ít. Nó tập trung ở cuối chương trình học kì I gồm 2 bài tập. Tuần 15: Bài tập 3, sách giáo khoa trang 126: Nhìn tranh đặt câu Tôi đưa ra bài tập sau: Ví dụ: Quan sát từng cặp tranh rồi viết các câu có hình ảnh so sánh Bóng đèn điện toả sáng như mặt trăng. Nụ cười của bé xinh như hoa hồng. Bản đồ Tổ quốc cong cong như hình chữ S. - Dạng bài tập điền khuyết. Tuần 15: Bài tập 4/ sách giáo khoa trang 126: Tìm những từ ngữ thích hợp để điền vào chỗ trống: Công cha nghĩa mẹ được so sánh như , như Trời mưa, đường đất sét trơn như Ơ thành phố có nhiều toà nhà cao như Ở mỗi câu, tôi hướng dẫn học sinh xác định sự vật đã cho để các em có thể tìm nhiều từ cần điền. Ví dụ: + như núi Thái Sơn, như nước trong nguồn chảy, như sông như biển + như bôi mỡ, xà phòng, đổ dầu núi, những ngọn tháp Các bài tập mang tính sáng tạo này rất ít nên trong quá trình dạy, tôi đưa thêm những ví dụ tương tự hai dạng trên để học sinh khắc sâu kiến thức. Lá cọ tròn xòe ra nhiều phiến nhọn dài, trông xa như Những con ngựa lao nhanh trên đường đua tựa như . Ánh mắt dịu hiền của mẹ là Đôi mắt bé tròn như Trưa hè, tiếng ve như 10
- Ngoài các mô hình so sánh trên, học sinh còn được làm quen với kiểu so sánh: Ngang bằng và hơn kém. Kiểu so sánh này thường gặp các từ so sánh như: Tựa, giống, giống như, không thua, không khác. (So sánh ngang bằng) và các từ hơn, kém, thua, chẳng bằng (so sánh hơn kém). 7.3.2. Nhân hóa - Mô hình 1: Gọi tên các sự vật đó bằng những từ thường để gọi con người: Tuần 19: Bài 1 trang 8 sách giáo khoa: Đọc hai khổ thơ dưới đây và trả lời câu hỏi: Mặt trời gác núi Theo làn gió mát Bóng tối lan dần Đóm đi rất êm, Anh Đóm chuyên cần Đi suốt một đêm Lên đèn đi gác. Lo cho người ngủ. Võ Quảng Tôi hướng dẫn các em tìm các từ chỉ sự vật, tìm các từ thường dùng để gọi người (anh), con vật nào được gọi như gọi người (đom đóm). Từ đó, dẫn dắt học sinh đến kết luận: Con đom đóm trong bài thơ được gọi bằng “anh” là dùng để gọi người, tính nết và hoạt động của đom đóm được tả bằng những từ ngữ, tính nết và hoạt động của con người. Như vậy, con đom đóm đã được nhân hóa. Tôi còn hướng dẫn cho các em tìm các ví dụ trong các câu thơ có các con vật được gọi như gọi người. - Mô hình 2: Gọi sự vật một cách gần gũi, thân mật. Tuần 21: Bài 1, 2 trang 26, 27 sách giáo khoa Chị mây vừa kéo đến Tớ là chiếc xe lu Trăng sao trốn cả rồi Người tớ to lù lù Đất nóng lòng chờ đợi Con đường nào mới đắp Xuống đi nào mưa ơi ! Tớ lăn bằng tăm tắp. Trong câu “Xuống đi nào mưa ơi ! Tác giả nói với mưa thân mật như thế nào? - Tôi gợi ý: Nếu là em, em sẽ nói câu ấy với ai? (ba, mẹ, ông bà hay bạn thân) - Tương tự: Chiếc xe lu tự xưng là gì? Cách xưng hô ấy có tác dụng gì? Nếu là em, em sẽ xưng tớ với ai? Người bạn đó phải như thế nào? 11
- Từ đó các em trả lời đúng ý của cây hỏi: Chiếc xe lu tự xưng là tớ. Cách xưng hô ấy có tác dụng làm cho ta cảm thấy chiếc xe lu giống như một người bạn gần gũi đang trò chuyện thân mật với chúng ta. - Mô hình 3: Tả sự vật bằng những từ thường dùng để tả người. Bài: Em thương Em thương làn gió mồ côi Không tìm thấy bạn, vào ngồi trong cây Em thương sợi nắng đông gầy Run run ngã giữa vườn cây cải ngồng. Từ nào là từ chỉ sự vật ? Từ nào chỉ đặc điểm của người ? Từ nào chỉ hoạt động của người ? Vậy sự vật nào đã được nhân hóa. Sau khi đã hoàn chỉnh các câu hỏi, tôi cho các em làm bài tập vào vở bài tập. Sự vật được Từ chỉ đặc điểm Từ chỉ hoạt nhân hóa của con người động của con người Làn gió mồ côi tìm, ngồi Sợi nắng gầy run run, ngã Em thấy làn gió và sợi nắng giống ai? Nối ý thích hợp ở cột B với mỗi sự vật được nêu ở cột A. Gợi ý: Từ mồ côi thường dùng chỉ ai? Từ gầy thường dùng để chỉ những người như thế nào ? A B giống một người bạn ngồi trong vườn cây. Làn gió giống một bạn nhỏ mồ côi. Sợi nắng giống một người gầy yếu. Gần như 100% học sinh làm tốt các dạng bài tập này. Và từ gợi ý trên, học sinh đã làm tốt câu hỏi tiếp theo là Tình cảm của tác giả bài thơ dành cho những người này như thế nào? (Tác giả bài thơ rất yêu thương, 12
- thông cảm với những đứa trẻ mồ côi, cô đơn; những người ốm yếu không nơi nương tựa.) 7.4. Tích hợp lồng ghép vào các phân môn học khác. Như chúng ta biết, kiến thức thì mênh mông vô tận mà mỗi học kì, các em chỉ học các biện pháp tu từ này có mấy bài và mỗi bài chỉ có 1 hoặc nhiều nhất là 2 bài tập. Nếu cứ học như thế này thì bao giờ các em mới có được một số vốn từ hay để giao tiếp. Chính vì vậy, để các em có thêm một số vốn từ, tôi đã lồng ghép “Luyện từ và câu” vào trong các phân môn đã học, vừa sức với các em. 7.4.1. Tích hợp trong phân môn Tập đọc Khi dạy Tập đọc tôi chú trọng cho các em luyện đọc, đọc và tìm hiểu nội dung bài. Bên cạnh đó, tôi hướng dẫn các em tìm thêm các biện pháp tu từ được sử dụng trong bài Tập đọc. Ví dụ: Bài “Hai bàn tay em” Tìm câu văn có hình ảnh so sánh: “Hai bàn tay em. Như hoa đầu cành”. Ngoài câu trên còn có hình ảnh so sánh nào nữa ? Em thấy sự vật nào, giống sự vật nào trong khổ thơ thứ ba “Răng trắng hoa nhài. Tóc ngời ánh mai” (So sánh ngầm không có từ so sánh). Bài “Ông ngoại” Câu có hình ảnh so sánh “Trời xanh ngắt trên cao, xanh như dòng sông trong, trôi lặng lẽ giữa những ngọn cây hè phố. Bài “Nhớ lại buổi đầu đi học” “Tôi quên thế nào được những cảm giác trong sáng ấy nảy nở trong lòng tôi như mấy cánh hoa tươi mỉm cười giữa bầu trời quang đãng.” Bài “Cửa Tùng” Trong câu hỏi “Sắc màu nước biển Cửa Tùng có gì đặc biệt ?” sau khi học sinh tìm đúng (Cửa Tùng có ba sắc màu nước biển. Bình minh mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt. Trưa, nước biển xanh lơ và khi chiều tà thì đổi sang màu xanh lục) tôi hỏi: trong ý các em vừa tìm, ý nào có hình ảnh so sánh (Bình minh mặt trời như chiếc thau đồng đỏ ối chiếu xuống mặt biển, nước biển nhuộm màu hồng nhạt). Bài “Buổi học thể dục” có tới 7 câu có hình ảnh so sánh khác nhau. 13
- Đê - rốt - xi và Cô - rét - ti leo như hai con khỉ. Xtác - đi thì thở hồng hộc, mặt đỏ như chú gà tây. Ga-rô-nê leo dễ như không. Tưởng chừng cậu có thể vác thêm một người nữa trên vai vì cậu khỏe chẳng khác gì một con bò mộng non. Mặt cậu đỏ như lửa, mồ hôi ướt đẫm trán 7.4.2. Tích hợp trong môn Tập làm văn Khi dạy Tập làm văn, tôi yêu cầu các em khi làm bài phải sử dụng các biện pháp so sánh và nhân hóa trong bài thì bài văn mới đạt điểm tối đa. Nếu bài văn chỉ đầy đủ ý, có ý hay nếu không sử dụng các biện pháp trên thì cũng không đạt điểm tối đa. Khi hướng dẫn làm bài, tôi hướng dẫn các em phải sử dụng biện pháp đó vào thời điểm nào thì thích hợp. Câu có hình ảnh so sánh thì hơi dễ nhưng câu có hình ảnh nhân hóa thì tương đối khó. Do vậy, tôi hướng dẫn các em tìm các sự vật có thể gán cho nó đặc điểm và hoạt động, giống người để đặt câu cho đúng. Ví dụ bài: “Kể một buổi biểu diễn nghệ thuật” nên lồng nhân hóa vào thời gian (Khi ông mặt trời vừa đi ngủ, em cùng các bạn đến sân trường để đón xem buổi biểu diễn văn nghệ). Ví dụ bài: “Kể lại buổi đầu đi học” nên gán vào các sự vật như cây cối, lá cờ (Hàng cây hai bên đường dang tay chào đón em đến trường); (Bác cổng trường hiền từ mỉm cười với em); (Cờ đỏ sao vàng reo vui trong gió); Ví dụ bài “Kể về trận thi đầu thể thao” Vũ Thị Hương lao về phía trước như một mũi tên, bỏ xa các vận động viên khác giành tấm huy chương bạc. Cờ đỏ sao vàng tung bay trong gió chào đón chị. Chị đã đem lại vinh quang cho Tổ quốc 7.4.3. Tích hợp trong môn Tự nhiên và Xã hội Khi dạy các bài thuộc chủ đề xã hội Ví dụ: “ Họ nội, họ ngoại’’ Các em tham gia hoạt động 3: - Đóng vai xử lý cách xưng hô và ứng xử giữa mọi người trong gia đình. - Câu hỏi tiếp theo Tại sao chúng ta phải yêu quý những người họ hàng của mình ? Sau khi hoàn thành hai việc trên tôi cho học sinh tìm những câu tục ngữ, ca dao, thành ngữ nói về tình cảm của những ngưòi thân trong gia đình. Học sinh đại 14
- trà tìm tự do. Học sinh năng khiếu, tôi yêu cầu cao hơn (có sử dụng biện pháp so sánh). Anh em như thể tay chân. Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần. Công cha như núi Thái Sơn Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra. Những ngôi sao thức ngoài kia Chẳng bằng mẹ đã thức vì chúng con. Khi dạy bài “Cây”; “Hoa”; “Quả”; “Chim”; “Thú” tôi cho các em so sánh chúng có điểm gì khác nhau và giống nhau ở những điểm nào. 7.5. Sử dụng trò chơi học tập Ta biết rằng, trò chơi ai cũng thích. Trò chơi có sức cuốn hút đối với người, bất kể lứa tuổi. Trong cuộc sống không thể thiếu các tổ chức, các hoạt động vui chơi, Đưa trò chơi vào lớp học tức là biến việc học tập trên lớp thành một cuộc chơi. Và qua việc tổ chức vui chơi giúp cho học sinh tiếp nhận kiến thức một cách dễ dàng hơn, hào hứng hơn, giúp cho việc rèn luyện kĩ năng đạt hiệu quả cao hơn. Chính vì vậy mà ngoài lựa chọn các phương pháp trên, tôi thường xuyên áp dụng trò chơi học tập vào trong giảng dạy cuốn hút các em, để các em không còn làm việc riêng, nghịch ngợm trong giờ học nữa. 7.5.1. Trò chơi: Em học ngôn ngữ Ví dụ bài “So sánh” tuần 1 bài 2 Đề bài: Tìm những sự vật được so sánh với nhau. Xếp các sự vật được so sánh với nhau thành từng cặp. A B hai bàn tay em hoa đầu cành mặt biển tấm thảm khổng lồ bằng ngọc thạch cái dấu hỏi vành tai nhỏ 15
- Luật chơi: - Chơi theo nhóm - Phát cho mỗi nhóm một phiếu học tập có in sẵn đề bài. Các nhóm thảo luận, ghi kết quả vào phiếu, dán lên bảng. - Mỗi lần sắp xếp chỉ được hoán đổi hai thẻ chữ. - Cần đến ít lần hoán đổi mà vẫn sắp xếp đúng là thắng. 7.5.2. Ai tài nhân hóa (trò chơi này có thể áp dụng trong tất cả các tiết dạy) Ví dụ bài: Nhân hóa tuần 23 Chia lớp làm hai đội, mỗi đội cử hai em làm trọng tài, khi có lệnh, trọng tài sẽ nêu một sự vật rồi chỉ em thứ nhất của nhóm 1. Em này có nhiệm vụ phải nêu được vế nhân hóa phù hợp với sự vật trọng tài vừa nêu ra. Nếu trả lời đúng thì em này lại nêu một sự vật chỉ qua em của nhóm hai. Em nhóm hai nêu vế nhân hóa. Tương tự như vậy cho đến hết giờ quy định. Nhóm nào có nhiều em trả lời đúng, nhóm đó thắng. Hai trọng tài của hai nhóm ghi điểm. Mỗi một bạn trả lời đúng được 10 điểm. Ví dụ: Vầng trăng - hiền dịu; Mặt trời - đạp xe qua núi; bông hoa - tươi cười; chiếc bảng đen - buồn bã; cổng trường - hiền lành; hàng cây - nhảy múa; 7.5.3. Tạo hình ảnh so sánh Bài So sánh tuần 7: Phát cho nhóm 1 thẻ số chẵn, nhóm 2 thẻ số lẻ, khi có hiệu lệnh nhóm 1 lên gắn 1 thẻ chữ. Nhóm 2 phải gắn ngay một thẻ chỉ sự vật được so sánh, rồi đọc câu thơ đó lên. Cứ như vậy cho đến hết thẻ chữ. Sau đó ngược lại. 1. Trẻ em 2. búp trên cành 3. ngôi nhà 4. trẻ nhỏ 5. cây-pơ-mu 6. người lính canh 7. bà 8. quả chín 16
- - Gắn đúng và nhanh 1 thẻ được 5 điểm, sai thứ tự trừ 5 điểm, chậm sau 5 lần đếm trừ 5 điểm. 8. Những thông tin cần được bảo mật (nếu có): Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Không 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu: Rèn kỹ năng nhận biết biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh lớp Ba là giúp học sinh nắm vững kiến thức, kỹ năng về so sánh và nhân hóa. Từ đó giúp các em mở mang tri thức, làm phong phú về tâm hồn, tạo hứng thú khi viết văn, rèn luyện ý thức giữ gìn sự trong sáng của Tiếng Việt. Góp phần giáo dục học sinh tiểu học phát triển toàn diện. Từ những việc đã làm, tôi đã thu được những kết quả học tập của các em như sau: Kết quả học tập của các em qua từng giai đoạn. Đầu năm Cuối kì 1 (đầu tháng 9) Mức đạt Số lượng % Số lượng % T 9 24,3% 12 32,5% HT 28 75,7% 25 87,5% CHT 0 0 0 0 Tổng số học sinh 37 37 Qua quá trình áp dung một số biện pháp như đã nêu ở trên, tôi thấy kỹ năng nhận biết biện pháp tu từ so sánh và nhân hóa của học sinh lớp Ba tôi dạy đã được nâng lên đáng kể. Học sinh không những nhận biết mà còn sử dụng tốt biện pháp so sánh, nhân hóa góp phần đáng kể vào việc viết văn và diễn đạt bằng ngôn ngữ của học sinh. - Mỗi tiết Luyện từ và câu gần như 100% các em đều hoàn thành trở lên. Các bài đạt hoàn thành tốt chiếm nhiều. 17
- - 100% các bài văn của các em sử dụng 1, 2 câu có hình ảnh so sánh, nhân hóa. - Kết quả khảo sát Tiếng việt của các em tiến bộ qua từng đợt kiểm tra. - Qua đợt kiểm tra khảo sát chất lượng của trường cuối học kì I lớp tôi có 12/ 37 em bài làm tốt. Dạy học biện pháp so sánh và nhân hóa cho học sinh tiểu học là một vấn đề không mới nhưng nó thực sự là một hướng đi cần thiết trong việc hướng dẫn lĩnh hội, phân tích hiệu quả sử dụng của biện pháp nhân hóa trong môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Nhân hóa và so sánh được sử dụng nhiều trong các bài tập đọc, trong các bài tập làm văn, nó luôn là cánh cửa mở ra cho các em bao điều mới lạ trong cuộc sống muôn màu muôn vẻ. Do vậy, dạy học sinh nắm được những kiến thức về nhân hóa, so sánh, hiểu biết sâu sắc về nhân hóa, so sánh đó chính là niềm đam mê nghề nghiệp của bản thân tôi. Chính vì vậy, sau khi áp dụng đề tài này, tôi thấy, các em đã đạt những kỹ năng sau: - Chuẩn bị kĩ bài trước khi đến lớp. - Học sinh tự củng cố vốn kiến thức của mình bằng cách đọc nhiều sách báo phù hợp với lứa tuổi, xem băng hình, quan sát tranh - Học sinh tích cực giao lưu trực tiếp với các bạn trong lớp, trong trường để khắc sâu kiến thức. - Khi làm bài tập học sinh đã đọc kỹ đề bài, xác định đúng yêu cầu của bài, phân biệt được chúng thuộc kiểu bài dạng nào rồi mới bắt tay vào làm bài. - Khi quan sát sự vật, biết quan sát thật tinh tế để tìm ra những điểm giống nhau, những nét tương đồng. - Các em có thể nhận biết được các biện pháp này dưới dạng cụ thể, đồng thời bước đầu ý thức được hiệu quả của chúng đối với hoạt động giao tiếp cũng như khi làm văn. Đúng như nhà văn Goorki đã từng nói: “Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc ”.Vì vậy người giáo viên muốn có thành quả lao động tốt cần có niềm say mê và tình yêu đối với công việc của mình. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu 18
- TT Tên cá nhân Địa chỉ Phạm vi áp dụng 1 Phạm Thị Minh Huệ Trường Tiểu học Hoàng Lâu Học sinh lớp 3A 2 Đỗ Thị Thanh Hà Trường Tiểu học Hoàng Lâu Học sinh lớp 3B 3 Lê Thị Vân Trường Tiểu học Hoàng Lâu Học sinh lớp 3C 4 Nguyễn Thị Yến Trường Tiểu học Hoàng Lâu Học sinh lớp 3D Hoàng Lâu, ngày 05 tháng 3 năm 2019 Hoàng Lâu, ngày 04 tháng 3 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Phạm Thị Minh Huệ 19