SKKN Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn Toán ở lớp 1

docx 32 trang vanhoa 4573
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn Toán ở lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_do_hoc_sinh_yeu.docx

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn Toán ở lớp 1

  1. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” PhÇn I ĐẶT VẤN ĐỀ I. Lý do chän s¸ng kiÕn: Trong xây dựng cơ bản, như khi xây một toà nhà cao tầng hiện đại thì việc xử lý móng là hết sức quan trọng, mà nền móng ngôi nhà lại là phần nằm sâu trong lòng đất, nên người ta thường chỉ nhìn thấy những tầng cao ở trên; chỉ có những người xây dựng, những người có chuyên môn mới thấy rõ tầm quan trọng, giá trị đích thực của nó. Bậc Tiểu học cũng được coi như cái nền móng của ngôi nhà tri thức kia. Chính vì vậy, điều 2 của lụât phổ cập giáo dục tiểu học đã xác định bậc tiểu học là bậc học đầu tiên bậc học nền tảng của hệ thống giáo dục quốc dân. Bậc tiểu học đã tạo những cơ sở ban đầu rất cơ bản và bền vững cho các em tiếp tục học các bậc học trên. Nội dung giảng day của tiểu học luôn gắn liền với thực tiễn, phục vụ thiết thực cho cuộc sống, không chỉ có thế mà mỗi môn học ở tiểu học đều góp phần vào việc hình thành và phát triển nhân cách học sinh. Trong các môn học, môn toán là một trong những môn có vị trí rất quan trọng. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán có nhiều ứng dụng trong đời sống, giúp học sinh nhận biết mối quan hệ về số lượng và hình dạng không gian của thế giới hiện thực. Một trong những nội dung toán đáp ứng được mục đích trên đó là đơn vị đo lường. Ngày nay, sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ thông tin đã làm cho khả năng nhận thức của trẻ cũng vượt trội. Điều đó đã đòi hỏi những nhà nghiên cứu giáo dục luôn luôn phải điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy phù hợp với nhận thức của từng đối tượng học sinh nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện góp phần đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài cho quê hương, đất nước. Môn Toán lớp 1 mở đường cho trẻ đi vào thế giới kỳ diệu của toán học, rồi mai đây các em lớn lên trở thành anh hùng, nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ, trở thành những người lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực đời sống và sản xuất, trên tay có máy tính xách tay, nhưng không bao giờ các em quên được những ngày đầu tiên đến trường học đếm và tập viết 1, 2, 3 học các phép tính cộng, trừ các em không thể quên được vì đó là kỉ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa những con số, những phép tính đơn giản ấy cần thiết cho suốt cuộc đời của các em. Đó cũng là vinh dự và trách nhiệm của người giáo viên nói chung và giáo viên lớp 1 nói riêng. Người giáo viên từ khi chuẩn bị cho tiết dạy đầu tiên đến khinghỉ hưu không lúc nào dứt nổi trăn trở về những điều mình dạy và nhất là môn Toán lớp 1 là một bộ phận của chương trình môn Toán ở tiểu học. Chương 1 / 31
  2. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” trình nó kế thừa và phát triển những thành tựu về dạy Toán lớp 1, nên nó có vai trò vô cùng quan trọng không thể thiếu trong mỗi cấp học. *Dạy học môn Toán ở lớp 1 nhằm giúp học sinh: a. Bước đầu có một số kiến thức cơ bản, đơn giản, thiết thực về phép đếm, về các số tự nhiên trong phạm vi 100, về độ dài và đo độ dài trong phạm vi 20, về tuần lễ và ngày trong tuần, về giờ đúng trên mặt đồng hồ; về một số hình học (Đoạn thẳng, điểm, hình vuông, hình tam giác, hình tròn); về bài toán có lời văn. b. Hình thành và rèn luyện các kĩ năng thực hành đọc, viết, đếm, so sánh các số trong phạm vi 100; cộng trừ và không nhớ trong phạm vi 100; đo và ước lượng độ dài đoạn thẳng( với các số đo là số tự nhiên trong phạm vi 20 cm). Nhận biết hình vuông, hình tam giác, hình tròn, đoạn thẳng, điểm, vẽ điểm, đoạn thẳng).Giải một số dạng bài toán đơn về cộng trừ bước đầu biết biểu đạt bằng lời, bằng kí hiệu một số nội dung đơn giản của bài học và bài thực hành, tập so sánh, phân tích, tổng hợp, trừu tượng hoá, khái quát hoá trong phạm vi của những nội dung có nhiều quan hệ với đời sống thực tế của học sinh. c. Chăm chỉ, tự tin, cẩn thận ham hiểu biết và học sinh có hứng thú học toán. Là một người giáo viên trực tiếp dạy lớp 1 và đặc biệt là dạy môn toán, Thực hiện chương trình đổi mới giáo dục toán học lớp 1 nói riêng ở tiểu học nói chung. Tôi rất trăn trở và suy nghĩ nhiều để học sinh yÕu, kÐm làm sao làm được các phép tính cộng, trừ mà việc giải toán có lời văn thì càng khó hơn đối với học sinh lớp 1 nên tôi lựa chọn sáng kiến kinh nghiệm:“Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn Toán ở lớp 1”. II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU: Nhằm thực hiện nội dung, tinh thần của cuộc vận động “ Hai không” mà đặc biệt là nội dung “Không để HS ngồi nhầm lớp”, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, giảm dần HS yếu, đáp ứng nhu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Góp phần chia sẻ, trao đổi nhằm thực hiện chất lượng hơn công tác phụ đạo HS yếu. Giúp HS yếu tự tin, vươn lên trong học tập và có khả năng học tập suốt đời. III. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU: Đối tượng là những häc sinh yếu toán thực sự không có khả năng theo kịp kiến thức hoặc bị hạn chế ở một hay nhiều kĩ năng cơ bản. Không có khả năng tự thực hiện yêu cầu của bài học. Những HS này cần phải được giáo viên quan tâm, giúp đỡ trong thời gian dài và xuyên suốt trong quá trình dạy học. 2 / 31
  3. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Đề tài tập trung nghiên cứu các giải pháp và quá trình phụ đạo HS yếu toán lớp 1 trong năm học 2017 - 2018. Đúc kết thành hệ thống những kinh nghiệm dạy học đạt hiệu quả. IV. NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU: Trong phạm vi s¸ng kiÕn này tôi đặt ra những nhiệm vụ cụ thể sau: - Nghiên cứu những vấn đề vÒ c¸c m¹ch kiÕn thøc vµ t×m ra nh÷ng biÖn ph¸p cô thÓ, tèi ­u nhÊt gióp häc sinh yÕu cã høng thó ®Ó häc tèt môn Toán lớp 1. - Nghiên cứu thực trạng dạy häc sinh yÕu môn Toán lớp 1 của nhà trường trong những năm vừa qua. - Đề xuất những biện pháp nâng cao chất lượng khi dạy häc sinh yÕu môn Toán lớp 1. V. CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU: Trong khi thực hiện đề tài tôi sử dụng một số phương pháp sau: 1. Phương pháp thu thập tài liệu. 2. Phương pháp điều tra thực nghiệm giáo dục. 3. Phương pháp quan sát, nghiên cứu sản phẩm. 4. Phương pháp giao tiếp. 5. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm. Và một số phương pháp khác. VI. thêi gian thùc hiÖn: Tõ ngµy 20/ 09/ 2017 ®Õn ngµy 20 / 05 / 2018 3 / 31
  4. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” PhÇn Ii néi dung s¸ng kiÕn kinh nghiÖm I. C¬ së khoa häc: 1.Cơ sở lý luận: Bậc Tiểu học là tiền đề cơ bản,là cơ sở ban đầu hết sức quan trọng để đào tạo thế hệ trẻ trở thành những công dân tốt,mang trong mình những phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam đó là: Đức - Trí -Thể -Mĩ. Đây còn là bậc học nền tảng của hệ thống Giáo dục quốc dân. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề nêu trên nên trong quá trình giáo dục ở trường Tiểu học đã hết sức coi trọng việc giáo dục toàn diện cho học sinh cả về đức và tài. Để có một con người phát triển toàn diện, những nhà làm giáo dục phải thực sự tâm huyết, say mê nghề nghiệp, phải bồi đắp cho các em những kiến thức từ điều sơ đẳng, đơn giản nhất. Chính vì vậy, bên cạnh việc chú ý bồi dưỡng học sinh giỏi, trường Tiểu học còn hết sức coi trọng việc phụ đạo học sinh yếu kém. Bồi lấp cho các em những lỗ hổng kiến thức để các em học tiếp các lớp học trên và có hành trang vững chắc bước vào đời ngay từ khi các em còn là học sinh lớp 1. Mỗi giai đoạn phát triển tâm lý ở trẻ đều được đặc trưng bởi dạng hoạt động cơ bản, ở Mẫu Giáo trò chơi là hoạt động chủ đạo, còn đối với học sinh lớp 1 học tập là dạng hoạt động chủ đạo. Để tạo được sự ham thích trong học tập và đạt được hiệu quả giáo dục, người giáo viên cần nắm được dạng hoạt động chủ đạo và những thói quen cần thiết của học sinh khối lớp mình phụ trách. 2. Cơ sở thực tiễn: Năm học 2017 – 2018 tôi chủ nhiệm lớp 1C là lớp học hai buổi trên ngày tại trường. Việc bồi dưỡng học sinh giỏi đã khó, xong việc phụ đạo cho học sinh yếu kém lại càng khó hơn. Bởi lẽ đa số những em học sinh yếu kém có hoàn cảnh gia đình khó khăn, chậm phát triển về trí tuệ, nhận thức chậm. Tôi thấy lớp nào cũng có khoảng 5 - 10 em học yếu môn Toán. Đến lớp trong giờ học Toán các em chưa nhận dạng ra được số hoặc chưa đếm được số từ 1 - 10, mặc dù đó đã là kiến thức ở lớp Mẫu Giáo các em đã được học rồi, trong giờ Toán các em học lơ là, nằm dài trên bàn, không tập trung, các em thường xuyên không thuộc bài, mỗi khi hướng dẫn các em bài mới thật là vất vả, các em rất ham chơi mà các em quên mất là mình đến trường để học, bên cạnh những đối tượng này còn có em thiếu tự tin, rụt rè làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc học tập. 4 / 31
  5. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Từ những thực tế nêu trên, tôi suy nghĩ phải làm thế nào để tạo sự hứng thú học tập đối với học sinh học yếu môn Toán và ở các môn học khác, giúp các em phát triển toàn diện vừa có trí tuệ vừa có thể lực tốt nên trong năm học này tôi lưu ý đến học sinh thuộc diện này. Với lòng yêu nghề, mến trẻ đã thôi thúc tôi, làm thế nào để đàn em thân yêu của mình học tốt được môn Toán, cuối năm không có học sinh yếu kém. Kết quả từ trung bình đến khá – giỏi đó chính là lý do tôi chọn đề tài:“Một số biện pháp giúp đỡ học sinh yếu học tốt môn Toán ở lớp 1”. II. ĐẶC ĐIỂM TÌNH HÌNH: 1.Thuận lợi: Được chi Bộ và nhà trường quan tâm giúp đỡ, tôi l¹i ®øng líp cả ngày, vì vậy tôi có nhiều thời gian quan tâm hơn, hướng dẫn giáo dục các em và có dịp tiếp xúc trao đổi với phụ huynh. Bản thân tôi đã trực tiếp đứng lớp nên ít nhiều tích luỹ được kinh nghiệm. Nhiều năm đứng lớp, lớp nào cũng có học sinh yếu nên có dịp nắm được cá tính của mỗi em học sinh . Học sinh ngoan, biết nghe lời, tinh thần và thái độ học tập tốt, tham gia đầy đủ các buổi học phụ đạo. Phần đa các em ở gần trường, các gia đình rất quan tâm đến con em mình. Cơ sở vật chất nhà trường tương đối đầy đủ thuận lợi cho việc giảng dạy. 2. Khó khăn: Trường thuộc vùng nông thôn, đa số là con nông dân. Một số phụ huynh học sinh thường xuyên đi làm xa nhà nên không mấy khi quan tâm đến việc học của con em mình, thiếu sự quan tâm chăm sóc, nhắc nhở các em học tập. Thường tâm lý các em chưa ham học toán, lười tư duy, chưa nhận dạng đựơc số, tính toán còn quá chậm. Một số em không đủ dụng cụ học tập, sách giáo khoa, vở bài tập toán, que tính, bảng con III.thùc tr¹ng vµ nh÷ng nguyªn nh©n: 1.Thực trạng việc dạy học sinh yÕu m«n to¸n ë líp 1. Để tìm hiểu thực trạng dạy học sinh yÕu trong môn Toán đạt hiệu quả, ngay từ đầu năm tôi đã tiến hành khảo sát chất lượng học sinh và thống kê, kết qu¶ cßn l¹i 8 häc sinh ®¹t ë møc ®é như sau: 5 / 31
  6. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” §Çu năm học : 2017 – 2018 Lớp: 1C TT Họ và tên học sinh Đầu năm Cuối HKI Cuối HKII 1 Nguyễn Hoàng Giang Ch­a hoµn thµnh 2 Nguyễn Văn Tài Ch­a hoµn thµnh 3 Vũ Thùy Linh Ch­a hoµn thµnh 4 Hà Thị Thu Hiền Ch­a hoµn thµnh 5 Nguyễn Thị Lan Anh Ch­a hoµn thµnh 6 Nguyễn Văn Tuấn Ch­a hoµn thµnh 7 Nguyễn Thị Kiều Ch­a hoµn thµnh 8 Nguyễn Văn An Ch­a hoµn thµnh * Nhận xét chung: Giáo viên chưa có biện pháp để lập kế hoạch, hướng dẫn phù hợp với học sinh, với nội dung chương trình tăng thời lượng, tăng thực hành luyện tập vận dụng gắn với đời sống tạo hứng thú tự tin cho học sinh, giáo viên vừa làm vừa rút kinh nghiệm, chưa thực sự tự tin, một số ít giáo viên chưa thực sự quan tâm đến từng đối tượng học sinh và động viên khuyến khích các em học tập (đối tượng học sinh cá biệt), mà các em lại là học sinh Mẫu giáo năm đầu học lớp 1. Sự nhận thức của học sinh còn không đồng đều. Một số học sinh chưa chịu khó học tập, chủ yếu là học trên lớp, về nhà một số phụ huynh chưa quan tâm đến con em mình, ngay cả đồ dùng chuẩn bị cho con học tập còn thiếu. Chính những điều đó gây ảnh hưởng đến việc học tập của học sinh. Từ nhiều năm nay nhà trường luôn quan tâm đến việc đổi mới nội dung chương trình sách giáo khoa, đổi mới phương pháp dạy học lớp 1, trường luôn chủ động tổ chức các chuyên đề, các buổi họp chuyên môn về đổi mới nội dung chương trình, đổi mới phương pháp dạy học trong đó môn Toán là một môn học chủ lực luôn luôn được bàn tới. Chính vì vậy đội ngũ giáo viên dạy khối lớp 1 của trường được Ban giám hiệu lựa chọn, chuyên sâu ngay trong năm học đầu tiên của chương trình đổi mới đã tổ chức hướng dẫn học sinh tự phát hiện, tự giải quyết vấn đề của bài, tự chiếm lĩnh kiến thức mới (phương pháp dạy học bài mới) rất hiệu quả. Thế nhưng một vài giáo viên khối 1 của trường sau khi tổ chức hướng dãn để học sinh tự chiếm lĩnh kiến thức mới thì thở phào coi như song tiết dạy. Còn phần thực hành luyện tập chẳng qua chỉ để học sinh làm hết 6 / 31
  7. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” các bài tập trong sách giáo khoa. Chính vì vậy khi Ban giám hiệu dự giờ kết quả các tiết dạy toán giáo viên trong khối chưa đạt hiệu quả cao và chất lượng học môn Toán của học sinh trong năm học thấp. 2. Nguyên nhân. Giáo viên chưa có biện pháp để lập kế hoạch, hướng dẫn học sinh hợp lý, chưa thường xuyên quan tâm đến việc học của học sinh. - Nhận thức của giáo viên về nhiệm vụ phần dạy båi d­ìng häc sinh yÕu chưa đúng. - Khi lập kế hoạch bài soạn, khi lên lớp giáo viên chỉ chú trọng đến việc dạy học bài mới, chưa chú ý đến việc củng cố kiến thức cho học sinh. - Còn một số ít phụ huynh chưa quan tâm thực sự đến việc học tập của con em mình mà còn phó thác cho nhà trường . - Qua tìm hiểu thực trạng dạy học phần båi d­ìng häc sinh yÕu môn Toán lớp 1, tôi thấy còn có hạn chế do đó cần thiết phải tìm ra biện pháp để nâng cao chất lượng phần thực hành luyện tập trong nhà trường. IV. NỘI DUNG VÀ CÁC BIỆN PHÁP THỰC HIỆN: 1.Nghiên cứu, tìm hiểu chương trình môn toán mạch đi của SGK. Giáo viên cần nắm vững chương trình Toán để có kế hoạch hướng dẫn học sinh ở lớp Một: Năm học có 35 tuần, mỗi tuần có 4 tiết toán, nội dung môn Toán ở lớp Một trong chương trình Tiểu học do Bộ Giáo Dục và Đào Tạo ban hành như sau: a. Số học: - Các số đến 10. Phép cộng và phép trừ trong phạm vi 10. - Nhận biết quan hệ số lượng (nhiều hơn, ít hơn, bằng nhau). - Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 10. Sử dụng các dấu = (bằng), (lớn hơn). - Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép cộng. - Giới thiệu khái niệm ban đầu về phép trừ. - Bảng cộng và bảng trừ trong phạm vi 10. - Số 0 trong phép cộng, phép trừ. - Mối quan hệ giữa phép cộng và phép trừ. - Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ. - Các số đến 100. Phép cộng và phép trừ (không nhớ) trong phạm vi 100. - Đọc, đếm, viết, so sánh các số đến 100. Giới thiệu hàng chục, hàng đơn vị. Giới thiệu tia số. 7 / 31
  8. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” - Phép cộng và phép trừ không nhớ trong phạm vi 100. Tính nhẩm và tính viết. - Tính giá trị biểu thức số có đến hai dấu phép tính cộng, trừ (các trường hợp đơn giản) b. Đại lượng và đo đại lượng. - Giới thiệu đơn vị đo độ dài xăngtimet. Đọc, viết, thực hiện phép tính với các số đo theo đơn vị đo xăngtimet. Tập đo và ước lượng độ dài. - Giới thiệu đơn vị đo thời gian: tuần lễ, ngày trong tuần. Làm quen bước đầu với đọc lịch (loại lịch hằng ngày), đọc giờ đúng trên đồng hồ (khi kim phút chỉ vào số 12). c. Yếu tố hình học. - Nhận dạng bước đầu về hình vuông, hình tam giác, hình tròn. - Giới thiệu về điểm, điểm ở trong, điểm ở ngoài một hình; đoạn thẳng. - Thực hành vẽ đoạn thẳng, vẽ hình trên giấy kẻ ô vuông; gấp, ghép hình d. Giải toán có lời văn. - Giới thiệu bài toán có lời văn. - Giải các bài toán đơn bằng một phép cộng hoặc một phép trừ, chủ yếu là các bài toán thêm, bớt một số đơn vị. 2. Nắm được đặc điểm tâm lý và phát triển của học sinh học yếu môn Toán. Với kinh nghiệm đã nhiều năm dạy lớp Một, bản thân chúng tôi nhận thấy đặc điểm tâm lý của trẻ em ở lứa tuổi này dễ chịu sự tác động ý chí trực tiếp bên ngoài, các em rất nhút nhát, thiếu tự tin, không dám phát biểu, tôi luôn phải mất thời gian để trò chuyện gần gũi động viên tinh thần các em, để em cảm thấy cô giáo rất thương mình, quan tâm đến mình nhiều hơn các bạn. Bác Hồ đã nói: “Hiền dữ phải đâu là tính sẵn Phần nhiều do giáo dục mà nên”. Ở lứa tuổi học sinh nhỏ là các em sẵn lòng tin vào thầy cô, nhất nhất nghe theo trong lời căn dặn của thầy cô. Chính vì ở các lớp Tiểu học, học sinh còn gắn liền môn học với người thầy, người cô đã dạy dỗ các em, cho nên nếu các em yêu mến thầy, cô thì việc học tập do thầy cô hướng dẫn cũng lôi cuốn các em và làm cho các em yêu thích ,mà muốn các em yêu mến thì nhân cách của người thầy người cô có tác động giáo dục hết sức mạnh mẽ. Lớp 1 là bước đầu chuyển từ hoạt động vui chơi sang hoạt động học tập.Vào trường học các em phải tiếp xúc với những công việc đòi hỏi có trách nhiệm và bắt buộc phải làm, mặc dù những công việc này khó khăn. Ở đây đôi khi các em phải khắc phục tình trạng mệt mỏi, không ham thích và phải nỗ lực ý chí, nhiệm vụ của người thầy, người cô là làm cho trẻ chuyển từ nếp sống trước tuổi học sang hoạt động học tập một cách thoải mái và 8 / 31
  9. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” vừa sức, chú ý đến các khả năng của các em đồng thời giải thích cho các em thấy rõ vị trí và nhiệm vụ mới của mình, nhưng phải thực sự tế nhị và phải có lòng yêu nghề mến trẻ. 3. Phân loại vµ biÖn ph¸p kh¾c phôc học sinh học yếu môn Toán. a. Học sinh chưa nắm được khái niệm số từ 1 - 100. Những em này ghi nhớ rất kém vì mối liên hệ có điều kiện được hình thành rất chậm và không bền vững. Các em chậm hiểu lại mau quên, các em không có khả năng ghi nhớ ngay sau khi học, em chỉ nhớ những gì đơn giản dễ hiểu. Trí nhớ kém khả năng chú ý không có vì thế việc học gặp nhiều khó khăn, từ đó mà các em không thích học. - Đối với diện này, tôi dạy các em nhớ từ số, dấu, qua cách luyện đọc và luyện nghe và quan sát như sau: - Khi xếp hàng vào lớp em thứ nhất số mấy, hàng nào, buộc em đó phải nhớ vị trí xếp hàng. - Xếp theo thứ tự từ 1 - 10, cho xếp thuận rồi xếp ngược, cho em quay mặt đi, đảo một vài số rồi hỏi em đã thay đổi vị trí số nào so với lúc đầu. Chúng tôi còn luyện em nhớ tên các bạn trong lớp. Để tránh học vẹt mỗi khi học bài mới. Tôi luôn kiểm tra bài cũ, chỉ không thứ tự các bài trước để giúp em củng cố kiến thức, khi xếp chỗ ngồi tôi xếp cạnh em ngồi học giỏi để giúp truy bài cho em vào đầu giờ. - Trong khi dạy bài mới tôi thường xuyên gọi em trả lời, động viên em phát biểu, mặc dù em không hề giơ tay, cuối giờ để khắc sâu kiến thức bài học, tôi tổ chức cho các em vui chơi và có những em học yếu cùng thực hiện trò chơi Ví dụ: Sử dụng bộ đồ dùng học toán, tranh ảnh, chữ số. Khi dạy bài số 8, để hình thành biểu tượng về số 8 sau khi hướng dẫn học sinh tranh vẽ như sách giáo khoa, chúng tôi yêu cầu học sinh đính 7 hình vuông sau đó thêm 1 hình vuông nữa. Từ đó học sinh sẽ tự kết luận 7 hình vuông thêm 1 hình vuông là 8 hình vuông. - Học sinh đính tiếp 7 hình tam giác thêm 1 hình tam giác và kết luận 7 hình tam giác thêm 1 hình tam giác là 8 hình tam giác. - Học sinh đính tiếp 7 hình tròn và thêm 1 hình tròn và kết luận 7 hình tròn thêm 1 hình tròn là 8 hình tròn. - Học sinh lấy 7 que tính thêm 1 que tính và kết luận là 7 que tính thêm 1 que tính là 8 que tính. - Từ đó học sinh hình thành biểu tượng về số 8. Tiếp theo yêu chúng tôi yêu cầu học sinh tìm những số 8 trong hộp đồ dùng học tập toán của học sinh để đính vào bảng cài và viết số 8 vào bảng con. 9 / 31
  10. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” - Tôi đọc số 8 thì các em đính vào bảng cài số 8 hoặc là tôi đọc 8 con bướm thì các em đính vào bảng cài 8 con bướm, tôi lưu ý các đối tượng học yếu xem các em có thực hiện đúng không và có biện pháp sửa chữa kịp thời. - Tôi thực hiện tiếp trò chơi làm cho bằng 8. Ví dụ: Khi dạy bài số 8, củng cố về dấu = tôi tổ chức cho các em chơi “trò chơi làm cho bằng 8”. 1. Mục đích: Củng cố khái niệm số 8, nắm vững cấu tạo số 8, rèn luyện khả năng quan sát, sự khéo léo, nhanh nhẹn. 2.Chuẩn bị: Nếu định chơi thi đua giữa các cá nhân trong lớp thì giáo viên chuẩn bị vẽ vào giấy khổ A4 để phôtocopy cho đủ theo số học sinh của lớp. Nếu chơi theo đội thì chỉ cần cắt sẵn cho mỗi đội một bộ gồm: 8 hình vuông, 8 lá cờ, 8 bông hoa, 8 đồng hồ, 8 tam giác, 8 ô tô, 8 phong thư ,8 ngôi sao và một hình vẽ như sau:   8     3.Cách chơi: Chơi cả lớp, Giáo viên sẽ phát cho mỗi bạn một tờ phôtôcopy và yêu cầu vẽ tiếp vào các ô (xung quanh số 8) sao cho trong mỗi ô có đủ 8 hình. Bạn nào xong sớm nhất, vẽ và tô đẹp thì thắng cuộc. Nếu chơi theo đội thi đua thì ở dưới lớp cổ vũ; 5 bạn ở mỗi đội cần tập trung dán tiếp các hình vào từng ô sao cho đủ 8 hình ở mỗi ô. Đội nào dán 10 / 31
  11. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” xong trước, đúng, đẹp thì đó là đội thắng cuộc. (Chú ý để ô đủ lớn để có thể dán, vẽ đủ 8 hình). Ghi chú: Có thể cho HS chơi với số khác, ví dụ “Làm cho bằng 9” Ngoài ra, tôi còn tranh thủ những giờ khác nhưng cũng giúp em học được mà không làm cho em cảm thấy gò bó, áp đặt. Ví dụ: Khi sinh hoạt dưới cờ đầu tuần. Tôi hỏi: Tổ một có 8 học sinh : * Tổ Một phải xếp bao nhiêu cái ghế ? * Tổ Hai ít hơn 1 em thì xếp bao nhiêu cái ghế? * Tổ Ba nhiều hơn 1 em thì xếp mấy cái ghế ? Với cách dạy như vậy dần dần các em cũng tự mình thực hiện nhớ được các số đã học, nhận dạng được các số mặc dù chưa nhanh bằng các bạn nhưng cũng tạo cho em sự ham thích học tập, còn tỏ ra hoạt bát hơn, nhanh nhẹn hơn. b) Học sinh chưa so sánh được các dấu , = Trong chương trình Toán lớp 1, trước khi so sánh các số, học sinh đã làm quen với quan hệ “Nhiều hơn, Ít hơn”, tiếp đó mới so sánh các số dùng các từ “Lớn hơn, Bé hơn”, “Bằng Nhau” đồng thời dùng các kí hiệu so sánh “ , =”. Ví dụ: Dạy bài “Bé hơn, dấu 1, 3 > 2, 4 > 3 11 / 31
  12. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Rèn học sinh so sánh số trong bảng con, các bài tập trong sách giáo khoa nhìn hình ghi số rồi so sánh. * Để giúp các em phân biệt được khi nào điền dấu , = Tôi hướng dẫn em bằng cách hỏi em tay nào là tay trái, tay nào là tay phải. Dấu bé thì mũi nhọn hướng về tay trái, dấu lớn thì mũi nhọn hướng về tay phải (tay cầm bút). Nếu thấy mũi nhọn hướng về số nào thì số đó bé hơn. Với cách trên em không nhầm lẫn khi làm toán dạng điền dấu hoặc điền số vào ô trống, còn đối với dấu = thì tôi hướng dẫn các em để làm cho bằng nhau khi thấy 2 số giống nhau thì so sánh = nhau. Ví dụ: 6 = 6 7 = 7 3 6 Để gây hứng thú học tập, tôi tổ chức trò chơi và cho em đó cùng tham gia với các bạn trong lớp nhằm gây hứng thú học tập cho em. * TRÒ CHƠI THI VƯỢT DỐC: 1.Mục đích: Củng cố về so sánh và sắp thứ tự các số trong phạm vi 10. 2.Chuẩn bị: - Giáo Viên chuẩn bị sẵn trên giấy khổ lớn hai hình vẽ như sau: 4 8 3 3 0 2 1 0 7 6 2 9 5 8 6 5 9 4 - 12 miếng bìa nhỏ, trong đó 5 miếng viết dấu lớn hơn (>), 3 miếng viết dấu bằng (=) và 4 miếng viết dấu nhỏ hơn ( , <, =) gắn vào các ô trống trên mỗi bậc thang của hình vẽ để lên được đỉnh dốc. Bạn nào lên được đỉnh dốc trước thì người đó thắng cuộc. 12 / 31
  13. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Ghi chú: Giáo viên có thể thay đổi các số trên hình vẽ để cho các nhóm khác nhau chơi. - Bước đầu căn bản về so sánh có 1 chữ số các em đã nắm vững thì đến số có 2 chữ số các em sẽ thực hiện được nhưng còn chậm nên giáo viên phải thường xuyên quan tâm theo dõi để giúp đỡ em khi học số có hai chữ số. * Ví dụ: Khi dạy bài Một chục – Tia số: - Hình thành cho học sinh hiểu một chục = 10, tức là khi gộp 10 que tính lại thì sẽ được 1 chục, từ đó giới thiệu bó que tính tương ứng với 1 chục. - Các số từ 11 -> 99, chúng tôi hướng dẫn học sinh sử dụng đồ dùng học toán để hình thành các số (bó que tính và các que tính rời). *Ví dụ: Số 19: học sinh lấy 1 bó que tính (là 1 chục) và 9 que rời, sau đó hướng dẫn học sinh phát biểu 10 que tính và 9 que tính là 19 que tính, sau đó chúng tôi hướng dẫn học sinh đính số 19 lên bảng cài. - Số 19 là số có hai chữ số ,số 1 đứng trước ở hàng chục, số 9 đứng sau ở hàng đơn vị (cho học sinh nhắc lại nhiều lần ) .Hình thành các số có hai chữ số tiếp theo tương tự. - Giúp các em dễ nhớ tôi hướng dần các em nên xem lịch hoặc là đọc số in trong trang sách mỗi ngày để các em nhớ số mà không quên. b) Học sinh chưa thực hiện được phép tính: Các em này thường có tính hiếu động, không ngồi yên một chỗ, ít tập trung nghe cô giảng bài, thường xuyên thiếu dụng cụ học tập, như: bảng con, viết, vở, que tính, luôn làm việc riêng trong giờ học vì thế làm ảnh hưởng đến bạn ngồi bên cạnh. Đối với môn toán khi thực hiện phép tính không thể luyện nhớ mãi được, vì em phải biết cách tính, nên trong giờ học toán tôi luôn thực hiện những phép tính đơn giản như 1 + 1 = mấy ? Có hai quả cam cho em hết một quả còn mấy? Sau đó tăng dần lên những phép tính phức tạp. Với lối học từ dễ đến khó làm cho các em cảm thấy các phép tính không khó khăn lắm với mình. Ngoài ra tôi tranh thủ vào giờ chơi trò chuyện cùng các em, tôi hỏi cô cho em 5 cái bánh, em ăn hết 2 cái bánh thì còn lại mấy cái bánh? hoặc là sáng nay mẹ cho 2 viên kẹo, bây giờ cô cho thêm 2 viên kẹo nữa thì em có tất cả mấy viên kẹo? * Để giúp em phân biệt được khi nào là ghi phép cộng, khi nào là làm phép trừ tôi hướng dẫn các em một cách dễ nhớ, cộng là thêm nên nhiều hơn, trừ là bớt đi nên ít hơn. Nhờ vậy nên em không gặp khó khăn khi làm các dạng toán. 13 / 31
  14. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” *Ví dụ: 6 1 = 7 ; 8 =10 2 ; 10 2 = 8 Nắm được kiến thức cơ bản trên nên em không thấy khó khi làm các phép tính như : *Ví dụ: 5 + 3 = 8 5 là em giơ 5 ngón tay lên + 3 là em thêm 3 ngón tay vào nữa rồi đếm lại = mấy (8) viết kết quả ngay sau dấu = - Đối phép trừ: VD: 10 – 6 = ? Lấy 10 que tính, trừ đi 6 là bớt đi 6 que tính . Còn lại mấy que tính ? đếm lại rồi ghi kết quả vào phép tính Còn đối với phép tính ghi theo cột dọc tôi hướng dẫn HS đặt tính phải ghi các số thẳng cột với nhau và đặt dấu cộng bên trái ngay phía trước ở giữa hai số. Ví dụ: 3 +5 8 - Thực hiện được phép tính cơ bản thì HS cũng dễ dàng làm được những phép tính cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100 mà không còn cảm thấy gò bó, áp đặt như trước. Để cho các em cảm thấy vui khi thực hiện được phép tính do chính mình làm ra tôi cho các em tham gia các trò chơi toán, giúp em cảm thấy thoải mái, vui vẻ trong học tập y như “Học mà chơi, chơi mà học” tôi hướng dẫn các em trò chơi xếp thành phép tính đúng. * TRÒ CHƠI XẾP THÀNH PHÉP TÍNH ĐÚNG. 1.Mục đích: Luyện tập làm tính cộng, trừ trong phạm vi 9. 2.Chuẩn bị: 10 tấm bìa, trên đó ghi các số và dấu như sau: 6 7 3 2 5 9 + Bao nhiêu bạn (nhóm) chơi thì cần bấy nhiêu bộ trên. 14 / 31
  15. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” 3.Cách chơi: Có thể chơi theo cá nhân hoặc theo nhóm. Mỗi bạn (nhóm) phải dùng 10 tấm bìa trên để xếp thành hai phép tính đúng. Bạn (hoặc nhóm) nào làm xong trước và đúng sẽ thắng cuộc. Hướng dạy học Toán hiện nay là tác động vào người học, nhằm phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh. Dạy Toán theo hướng tổ chức các hoạt động học tập ,tạo ra cơ hội để các em được “ Hoạt động học tập” tạo ra sự hợp tác giữa trò và trò, giữa trò và thầy việc học theo cách đó sẽ hấp dẫn, lôi cuốn các em vào quá trình học tập một cách tự giác, tự nhiên, phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý học sinh . Đối với học sinh lớp 1 tư duy còn hạn chế các em tiếp thu theo lối “Vật đặt trước lời” nên dạy Toán ở lớp Một giáo viên phải dùng những hình ảnh cụ thể để cung cấp kiến thức mới cho học sinh. *Ví dụ: Dạy bài phép cộng trong phạm vi 7: Giúp các em dễ hiểu và thực hiện được phép tính cộng trong phạm vi 7 ,chúng tôi hướng dẫn các em sử dụng bộ đồ dùng học Toán để hình thành phép tính, tôi yêu cầu học sinh đính vào bảng cài theo lời giáo viên : có 6 quả cam thêm 1quả cam, học sinh đính 6 quả cam thêm một quả cam vào bảng cài, sau đó tôi yêu cầu các em sẽ đính phép tính 6 +1= 7 vào bảng lớp, các phép tính còn lại tôi hướng dẫn tương tự. - Để khắc sâu kiến thức cho tôi tổ chức trò chơi : *Ghép nhanh phép tính: 1.Mục đích: Luyện học sinh tập làm tính cộng nhanh . 2.Chuẩn bị: Bộ dồ dùng học Toán trong đó các em lấy ra các số từ 1 10. 3.Cách chơi: Có thể chơi theo cá nhân hoặc theo nhóm . Giáo viên đọc 5 +2 =7 thì các em phải ghép được phép tính 5 + 2 = 7 vào bảng cài em nào ra phép tính đúng sẽ thắng, khi chơi tôi luôn theo dõi những em học yếu để giúp đỡ em nếu những em yếu mà em nào đúng, chúng tôi lấy bảng cài của em giơ lên cho cả lớp xem và khen em đó trước lớp. *Đối với dạng Toán tìm thành phần chưa biết (Điền số thích hợp vào ô trống): Với dạng này học sinh yếu kém không thuộc được bảng cộng trừ nên gặp khó khăn khi điền số vào ô trống, chính vì thế tôi hướng dẫn học sinh như sau : Ví d ụ: 2+  = 6 6 thì em lấy 6 ngón tay lên co vào 2 ngón còn lại mấy ngón? Đếm lại rồi ghi 4 vào ô trống Ví dụ: 8 -  = 5 15 / 31
  16. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Giáo Viên hướng dẫn : lấy 8 que tính ,bớt đi 5 que, còn lại mấy que? Đếm rồi ghi 3 vào ô trống Ví dụ :  - 3 = 2 Giáo viên dạy học sinh đưa 2 que tính thêm vào 3 ngón nữa đếm tất cả bao nhiêu ngón tay? Ghi số 5 vào ô trống *Biết tính giá trị biểu thức có đến hai dấu phép cộng, trừ Là học sinh yếu nên tất cả các thao tác của em đều chậm và thường không thực hiện được nên khi dạy Giáo viên nên hướng dẫn như sau: Ví dụ: 5 + 2 + 1 = ? 5 thì lấy 5 que lên cộng 2 là thêm 2 vào cộng 1 là thêm 1 que vào nữa. Sau đó đếm lại tất cả que được 8 ghi 8 ngay sau dấu bằng: 5 + 2 + 1 = 8 Ví dụ: 9 – 5 + 3 = ? 9 là lấy 9 que lên trừ 5 là bớt 5 que xuống + 3 là thêm 3 vào, đếm lại ghi 7 vào kết quả: 9 – 5 + 3 = 7 Khi các thao tác trên đã được thực hiện nhuần nhuyễn Giáo viên hướng dẫn các em từng bước như sau: Ví dụ: 6 + 2 + 1 = ? *Bước 1: Tôi hướng dẫn các em lấy 6 + 2 được 8, *Bước 2: lấy 8 + 1 được 9 viết 9 vào ngay sau dấu bằng . * Hướng dẫn học sinh cộng trừ không nhớ trong phạm vi 100 các số tròn chục tôi hướng dẫn như sau : Tuỳ theo sự hiểu biết của học sinh mà tôi hướng dẫn theo nhiều cách để học sinh dễ hiểu Ví dụ : 20 +30 =? 80 – 50 = ? Cách 1: 20 còn được gọi là gì ?( 2 chục ) 30 còn được gọi là gì ?(3 chục ) Vậy 2 chục +3chục = ? Chục (5 chục) 5chục được viết như thế nào ?(50) Phép tính : 20+30 =50(cho học sinh nhắc lại nhiều lần ) Cách 2: Tôi hướng dẫn học sinh cộng theo từng hàng, nghĩa là hàng đơn vị cộng trước, hàng chục cộng sau, nếu các em chậm hiểu vẫn còn tính sai thì tôi cho em cộng số nào trước thì gạch một chấm nhỏ ở dưới số đó để tránh bị nhầm số các em sẽ cộng hai lần hoặc ghi kết quả đảo ngược Ví dụ: 20 + 30 = 50 thì học sinh nhầm ghi là: 20 + 30 = 05 * Khi các em đã nắm được căn bản cách tính thì các sẽ làm được dạng Toán cộng trừ số có hai chữ số cộng với số có một chữ số tôi hướng dẫn học sinh cách tính theo hai bước như sau: * Bước 1: Hướng dẫn học sinh thao tác trên que tính . Để thực hiện phép tính 35 + 24 =? 16 / 31
  17. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” - Học sinh lấy 35 que tính (gồm 3 bó và 5que rời ) rồi xếp 3 bó ở bên trái. 5 que rời ở bên phải. Giáo viên nói và viết vào bảng “ có 3 bó viết 3 ở cột chục, có 5 que rời viết 5 ở cột đơn vị’’ - Học sinh lấy tiếp 24 que tính (gồm 2 bó và 4 que rời) rồi xếp 2 bó ở bên trái (dưới 3 bó) xếp 4 que rời ở bên phải (dưới 5 que). Giáo viên nói và viết vào bảng “ có 2 bó, viết 2 vào cột chục dưới 3, có 4 que rời viết 4 vào cột đơn vị dưới 5’’. - Nêu vấn đề có 35 que tính và 24 que tính. Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính ? Em làm tính thế nào ? (35 + 24 = ?). - Học sinh gộp các bó và các que rời với nhau để được 5 bó và 9 que rời Giáo viên nói và viết vào bảng “5 que cộng với 4 que là 9 que, viết 9 ở cột đơn vị, 3 bó cộng 2 bó là 5 bó, viết 5 ở cột chục” (dưới gạch ngang). - Vậy 35 +24 =59 * Bước 2: Hướng dẫn kỹ thuật làm tính cộng. Ta đặt tính viết 35 rồi viết 24 (ở dưới ) sao cho số chục thẳng với số chục, số đơn vị thẳng cột với số đơn vị viết dấu + ở trước hai số, kẻ gạch ngang rồi tính từ phải sang trái . 3 5 + 2 4 * 5 cộng 4 bằng 9, viết 9 5 9 * 3 cộng 2 bằng 5, viết 5 Vậy 35 + 24 = 59 - Cho vài học sinh nhắc lại cách cộng trên. * Phép trừ giáo viên cũng hướng dẫn học sinh thực hiện tương tự như phép cộng . - Đối với phép tính thực hiện theo hàng ngang thì đối tượng là học sinh khá giỏi các em nhẩm theo cách nào thuận tiện nhất ra kết quả nhanh nhất và đúng thì em ghi vào, còn đối với học sinh yếu thì tôi hướng dẫn các em tính nhẩm như sau. Ví dụ: 15 + 1 = ? Cách 1: Em cộng hàng đơn vị trước và số khi cộng, tôi hướng dẫn các em chấm một chấm nhỏ dưới hàng đơn vị đã cộng trước 5 + 1 được 6 viết 6 ngay sau dấu bằng ở xa ra một chút, phần trước số 6 để viết hàng chục là 1 viết 1 sang, theo cách này các em đã biết cách cộng nhẩm theo hàng ngang thành thạo mà không sai. 17 / 31
  18. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Cách 2: Đối với cách 1 các em chưa làm được hay ghi nhầm là ngược kết quả: 15 + 1 = 61. Thì tôi hướng dẫn các em thực hiện lại phép tính như sau: 15 gồm có mấy chục và mấy đơn vị (1chục,5 đơn vị) Cộng 1 ở hàng nào? (1 ở hàng đơn vị). Vậy khi cộng các em nhớ cộng hàng đơn vị với hàng đơn vị trước, hàng chục với hàng chục sau. Nên 15 + 1 = 16 Đối với phép trừ, phép cộng số có 2 chữ số tôi cũng hướng dẫn từng bước các em đã có căn bản về cách cộng trừ trong phạm vi 10 100 thì khi làm bài, học bài các em sẽ hứng thú thích thú hơn. Vì vậy các bài học về Đại lượng và Đo đại lượng, Đồng hồ thời gian, Tuần lễ, Ngày các em cũng dễ dàng tiếp nhận mà không cảm thấy khó khăn, gò bó, áp đặt, khi phải học như lúc trước, để gây hứng thú ở các em, giúp các em thoải mái trong học tập và nắm vững kiến thức trong các bài học, tôi hướng dẫn các em chơi trò chơi giờ nào việc nấy. Trò chơi: GIỜ NÀO VIỆC NẤY. 1.Mục đích: Luyện tập về đọc giờ đúng và nhận biết về một số thời điểm diễn ra các hoạt động trong sinh hoạt hằng ngày. 2.Chuẩn bị: Mỗi bạn có một thẻ hai mặt màu xanh, đỏ. 3.Cách chơi: GV hoặc một bạn hô: “ 6 giờ sáng thức dậy” “ 9 giờ sáng ăn cơm tối” “ 7 gìờ sáng đi học” Cả lớp lắng nghe và giơ bảng mặt đỏ nếu thấy đúng, giơ mặt xanh nếu thấy sai. Bạn nào giơ nhầm sẽ được nhắc nhở, cả lớp được dịp cười vui. Chẳng hạn, với câu: “9 giờ sáng ăn cơm tối” nếu bạn nào giơ mặt đỏ là bị nhắc nhở. Trò chơi cứ tiếp tục như vậy nhiều lần. * Các yếu tố hình học: Đối tượng là học sinh yếu nên khi dạy, giáo viên hướng dẫn kỹ các phần sau: Tôi đưa ra hình tam giác thường và giới thiệu tên hình: “Đây là hình tam giác”, nhằm giúp học sinh nhận ra một vật mẫu. Sau đó tôi dịch chuyền vật mẫu đến những vị trí khác nhau cũng như giới thiệu tiếp các hình tam giác khác như tam giác đều, tam giác vuông để học sinh quan sát và trả lời “ Đó cũng là hình tam giác”. - Sau đó tôi cho học sinh sử dụng đồ dùng học Toán của mình tìm ra một số hình tam giác và đọc lên “Hình tam giác” học sinh được thao tác trên các vật mẫu. Có sự hướng dẫn của giáo viên từ đó biểu tượng cụ thể về “ Hình tam 18 / 31
  19. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” giác”. Trên cơ sở đó học sinh sẽ tìm trong thực tế những đồ vật có dạng hình tam giác biển báo giao thông, cờ đuôi nheo * Khi dạy các bài hình vuông, hình tròn tôi cũng thực hiện tương tự như bài hình tam giác. Nhằm rèn luyện học sinh kỹ năng nhận dạng hình, óc quan sát, trí tưởng tượng, sau khi hình thành các biểu tượng về hình vuông, hình tròn, hình tam giác chúng tôi tổ chức trò chơi như sau: *Trò chơi: NGƯỜI MÁY GỒM . 1.Mục đích: Rèn kĩ năng nhận dạng và phân biệt các hình vuông, hình tam giác, hình tròn; rèn luyện óc quan sát và kĩ năng thao tác tạo hình. 2.Chuẩn bị: Mỗi HS cần có bộ đồ dùng học Toán 1 gồm 10 hình tam giác, 10 hình vuông, 10 hình tròn. GV cần vẽ sẵn lên giấy khổ A4 hình sau, phôtôcopy cho mỗi HS một bản. Người máy gồm: Hình tròn Hình tam giác Hình vuông 3.Cách chơi: Giáo viên yêu cầu Học Sinh quan sát kĩ bức vẽ, sau đó làm hai việc: Điền số hình tròn, hình tam giác, hình vuông vào chỗ chấm trên bức vẽ. Chọn trong bộ đồ dùng (đã chuẩn bị) ra đủ và đúng các hình như thế để xếp tạo dáng một người máy. Bạn nào xong sớm nhất lớp là người thắng cuộc. d)Học sinh chưa giải được bài toán có lời văn: Môn Toán là một trong những môn có vị trí rất đặc biệt quan trọng. Một trong những điểm quan trọng nhất là các em phải có kỹ năng giải toán và trình bày các bài toán. Đồng thời nội dung đề thi của phần giải toán chiếm gần phân nữa số điểm của bài thi. Thế mà tất cả các em học sinh của 19 / 31
  20. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” tôi kể cả những học sinh khá, các em thành thạo và thích làm các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10 - 100 Còn các bài toán có lời văn thì các em hầu như rất e ngại. Từ những nguyên nhân trên tôi đã nghiên cứu và học được những kinh nghiệm của quý thầy cô, quý đồng nghiệp, đồng thời qua nhiều năm giảng dạy, tôi đã tìm ra những biện pháp khi giải một bài toán có lời văn để hướng dẫn học sinh của tôi theo diện từ yếu đến trung bình .Các em thực hiện được phép tính nhưng lại không cẩn thận khi làm bài, cũng như khi viết bài, thường quên viết kết quả của phép tính hoặc tên đơn vị kèm theo, chữ viết nguệch ngoạc khi giải toán thường không viết được lời giải. Mặc dù đến tuần 23 học sinh mới chính thức học cách “Giải bài toán có lời văn” song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm nay ngay từ bài “phép cộng trong phạm vi 3 (luyện tập)” ở tuần 7. Giúp học sinh nhìn tranh vẽ nêu đề bài toán rồi viết kết quả phép tính có ý với tình huống trong tranh. Ví dụ: Giúp học sinh nêu “Một bông hoa và một bông hoa là mấy bông hoa? Rồi học sinh trả lời (một bông hoa và một bông hoa là hai bông hoa) và viết 2 vào sau dấu bằng để có 1 + 1 = 2. Bắt đầu từ tuần 7 cho đến tuần 16 tuy hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ trong phạm vi 10 đều có các bài tập thuộc dạng “nhìn tranh nêu phép tính’’ở đây học sinh được làm quen với việc: - Xem tranh vẽ. - Nêu bài toán bằng lời. - Nêu câu trả lời. - Và điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh). Học sinh tập nêu bằng lời: “có 2 con thỏ thêm 1 con thỏ. Hỏi có tất cả bao nhiêu con thỏ ? ” rồi tập nêu miệng câu trả lời “có tất cả 3 con thỏ”. Sau đó viết vào ô trống để có phép tính đúng 20 / 31
  21. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Tiếp đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống ở đây không còn tranh vẽ nữa. Ví dụ: Có : 7 quả bóng Cho : 3 quả bóng Còn : quả bóng? - Viết phép tính thích hợp “ tức là nhìn vào tranh và các thao tác đính vật mẫu của giáo viên để đính phép tính, đến phần giải bài toán các em được làm quen với “ Đặt đề bài toán” (theo tóm tắt đã ghi trong SGK) hai phần này có quan hệ mật thiết với nhau nên học sinh cần nắm vững cấu tạo của một bài toán có lời văn gồm có 2 phần chính là những cái đã cho (đã biết) và cái phải tìm (chưa biết). - Giáo viên cần cho học sinh đọc kĩ đề toán, hiểu rõ một số từ khóa quan trọng như “thêm vào, tất cả ” hoặc bớt, bay đi, còn lại ” (có thể kết hợp với tranh vẽ để học sinh quan sát). - Khi dạy các bài toán có lời văn cho đối tượng này tôi thường sử dụng tranh ảnh, hoặc que tính để hướng dẫn học sinh, vì đối với các em trí nhớ rất chậm cho nên tôi hướng dẫn từng phần theo các bước cụ thể như sau: * Bước 1: tôi cho 2 em đọc đề toán, cả lớp đọc thầm theo, sau đó tôi hướng dẫn em tìm hiểu bài toán qua tranh ảnh. Ví dụ: cho học sinh nêu câu trả lời các câu hỏi “Bài toán cho biết nhà An có 5 con gà thì tôi đưa tranh vẽ 5 con gà lên bảng, mẹ mua thêm 4 con gà nữa (thì tôi đính tiếp thêm 4 con gà nữa vào tranh). Bài toán hỏi gì? Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?” Khi học sinh trả lời hoặc nhắc lại câu trả lời của bạn để tìm hiểu bài toán, tôi ghi tóm tắt bài toán lên bảng. Tóm tắt: Có : 5 con gà. Thêm : 4 con gà. Có tất cả : con gà.? 21 / 31
  22. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Cho học sinh đọc lại tóm tắt của bài toán. * Bước 2: Khi học sinh đã hiểu được bài toán. Cho biết gì? Bài toán hỏi gì? Tôi hướng dẫn em cách giải bài toán như sau: tôi nêu câu hỏi để học sinh trả lời: Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà ta làm thế nào? (hướng dẫn học sinh trả lời “Em phải làm phép tính cộng, lấy 5 cộng 4 bằng 9”. Như vậy nhà An có 9 con gà cho học sinh đọc lại nhiều lần. * Bước 3: Tôi hướng dẫn học sinh viết bài giải của bài toán, ghi bài giải sau đó viết câu lời giải, muốn viết được câu lời giải thì em phải dựa vào câu hỏi để nêu câu lời giải như: “Nhà An có là:” “Số con gà có tất cả là:” “Nhà An có tất cả là”. Cho học sinh lựa chọn câu trả lời nào thích hợp nhất rồi viết ra: + Viết phép tính: tôi hướng dẫn các viết phép tính trong bài giải 5 cộng 4 bằng chín. Ở đây 9 chỉ 9 con gà nên viết con gà trong dấu ngoặc đơn (con gà). + Viết đáp số: hướng dẫn học sinh viết đáp số : 9 con gà. + Sau đó để khắc sâu cách giải bài toán có lời văn cho các em dễ nhớ tôi nhấn mạnh từng phần khi giải toán có lời văn như thế nào? +Viết câu lời giải - viết phép tính (tên đơn vị trong dấu ngoặc) -viết đáp số. Bài giải Nhà An có tất cả là : 5 + 4 = 9 (con gà ) Đáp số: 9 con gà Học sinh được tự đặt đề bài toán dựa vào thao tác trên các vật mẫu, (tranh ảnh) nên dễ dàng nắm được đề bài từ đó các em sẽ giải được bài toán một cách nhanh chóng. *Ví dụ như: học sinh cầm tay phải có 4 que tính tay trái có 3 que tính, sau đó gần lại với nhau nhìn vào số que tính và dựa vào thao tác để tự đặt một đề bài toán. Chẳng hạn “Tay phải em cầm 4 que tính, tay trái em cầm 3 que tính. Hỏi hai tay em cầm mấy que tính? ” Hoặc Có 4 que tính lấy thêm 3 que tính nữa. “Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính?”. Khi học sinh đã mắt thấy tai nghe, hiểu được bài toán cho gì? Bài toán hỏi gì? Thì các em mới giải được bài toán, với cách này tôi sử dụng để tổ chức trò chơi như sau: Trò chơi 1. Thi đua giải nhanh bài toán: Cách chơi: Chia lớp thành hai đội A và B, mỗi đội 3 học sinh, chơi tiếp sức. - Học sinh thứ 1 viết lời giải. - Học sinh thứ 2 viết phép tính. - Học sinh thứ 3 viết đáp số. 22 / 31
  23. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Nhận xét cách chơi: Học sinh cả lớp cùng Giáo viên nhận xét và biểu dương đội thắng cuộc. Trò chơi thứ 2: Giáo viên dùng tranh ảnh hoặc mẫu vật thật để làm động tác dựa theo đề bài toán: Cả lớp cùng giải bài toán đó theo thao tác của Giáo viên vào bảng con hoặc vào giấy nháp. Nhận xét: Giáo viên biểu dương tổ thực hiện, hoặc cá nhân giải nhanh và đúng. Ví dụ: Trên cành có 8 con chim, có 2 con bay đi. Hỏi trên cành còn lại mấy con chim? Giáo viên đính tranh 8 con chim, dùng động tác tay tách 2 con chim bay lên cao. Học sinh dựa vào thao tác của Giáo viên để giải toán: Bài giải Số chim trên cành còn lại là: 8 – 2 = 6 (con chim) Đáp số: 6 con chim. e)Đối với học sinh yếu có tính cẩu thả: Với cá tính này nếu giáo viên không uốn nắn, sửa chữa kịp thời thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến trẻ. Vì lớp Một là lớp quan trọng bởi những gì đã hình thành và định hình ở trẻ rất khó thay đổi. Mỗi khi các em quên mang đồ dùng học tập thì sẽ ảnh hưởng rất nhiều đến giờ học mà đối tượng này lại thường xuyên quên mang sách, vở, bút, bảng con Qua trao đổi với phụ huynh các em, tôi biết được bố mẹ các em đi làm xa nhà hoặc rất bận việc ở ngoài đồng và đa số là buôn bán đi sớm về tối nên hầu như không kiểm tra hoặc chuẩn bị sách vở cho con em đi học được. 23 / 31
  24. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Vì thế để tự các em cũng có thể sắp xếp đồ dùng theo thời khóa biểu thì ngay từ những tuần đầu, tôi hướng dẫn em cách sắp xếp ngăn nắp. Những tập sách mà ngày nào cũng sử dụng để chung một ngăn tủ ở lớp, những quyển sách, vở nào cần mang đi theo thời khóa biểu thì để riêng, nên dù chưa đọc được chữ các em cũng tự chuẩn bị được sách, vở đồ dùng học tập cho mình một cách đầy đủ mà không cần bố mẹ làm hộ. Dần dần các em ở đối tượng này hình thành thói quen bớt cẩu thả và hạn chế quên mang dụng cụ . Học sinh hiện nay ở lớp tôi học Toán yếu mà chữ viết chưa đẹp, không đúng kích cỡ, đúng qui cách lại thường xuyên bôi xóa, các số viết không cẩn thận, ngay hàng, nên mỗi khi chấm điểm giáo viên thường xuyên nhắc nhở em và gạch dưới chữ hay số viết sai bằng bút đỏ và viết lại số đúng bằng mực đỏ cho em dễ nhận thấy. Để rèn cho các em viết chữ và số được đẹp hơn, tôi thường xuyên cho em xem những tập “Vở sạch chữ đẹp” để giúp các em có ý thức giữ vở sạch và luyện viết chữ đẹp. Trong những giờ rèn viết bảng con tôi thường lưu ý đến đối tượng này, tôi sửa chữa từng nét, từng số, cách đặt dấu cộng, trừ dấu bằng cho các em, khi học sinh làm bài tập trong bảng con hoặc bảng lớp tôi theo dõi quan sát cả lớp và chỉ ra những chổ chưa đúng, chưa đẹp để các em sửa chữa, tôi luôn khen, động viên mỗi khi có tiến bộ. Hình thức trên chưa đủ, vì các em chỉ học tại lớp, về nhà không có tự học được. Nên việc học ở nhà tôi rất lưu ý. Yêu cầu em phải có 1 quyển vở tự rèn học ở nhà. Ngày nào đi học thì đem theo. Ví dụ: như hôm nay cô dạy số 5 thì em phải viết vào vở số 5, cách viết thì tôi sẽ viết mẫu 1 số vào vở rồi em nhìn vào chữ mẫu tự viết. Những ngày kiểm tra tôi không cho biết trước, vì làm như thế các em không dám bỏ qua. Từ đó các em đã có thói quen viết ngay hàng, không cong vẹo, tập học sạch sẽ hơn, em không còn có thói quen viết ngoáy mà đã tự có ý thức rèn chữ, rèn số. Từ đấy em có hứng thú hơn trong học tập, em không còn sợ mỗi khi học bài phải viết, phải làm toán nữa mà tỏ ra rất thích học, sau những giờ học tôi thường tổ chức trò chơi, các em có dịp thi đố tài năng của mình từ đấy mà mạnh dạn, tự tin hơn. 4.Kết hợp với phụ huynh học sinh: Tôi thường xuyên trao đổi với những cha mẹ có học sinh học yếu môn Toán , nhằm phổ biến nội dung phụ đạo học sinh cho phụ huynh biết để chăm lo và nhắc nhở con em mình. Tôi cho phụ huynh biết việc học văn hóa ở lớp 1 nói chung học Toán nói riêng là phải liên tục và kiến thức các bài 24 / 31
  25. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” học phải liên tục kế tiếp nhau. Nếu bị gián đoạn một hai ngày sẽ bị hổng kiến thức. Việc học các bài kế tiếp sẽ rất khó khăn nhất là với môn Toán. Vì vậy việc đảm bảo chuyên cần, luôn phải thực hiện tốt, phụ huynh không nên để cho con nghỉ học khi không cần thiết. Ví dụ: Hôm nay học phép cộng dạng 14 + 3 ngày mai sẽ học luyện tập, nếu nghỉ học 1 - 2 ngày sẽ bị mất căn bản, vì bài kế tiếp sẽ là phép trừ dạng 17 – 3 lúc này các em sẽ không biết cách tính như thế nào ? Trong giờ học có các bài tập trong sách giáo khoa đã dược giáo viên hướng dẫn làm ở lớp, nhưng vì đối tượng là học sinh yếu nên giáo viên hướng dẫn phụ huynh cho các em làm lại các bài tập đó ở nhà với sự kiểm soát của phụ huynh .Tôi hướng dẫn cách kèm cặp học sinh ở nhà thật cụ thể để phụ huynh dạy không bị sai lệch với cách dạy của cô ở lớp. Lúc đầu có nhiều phụ huynh vẫn chưa thấy được sự cần thiết phải phối hợp cùng Giáo viên chủ nhiệm lớp để dạy dỗ con em, nhưng bằng sự nhiệt tình chúng tôi thường xuyên gặp gỡ trao đổi cộng với sự tiến bộ của học sinh, dần dần phụ huynh đã hiểu và kết hợp chặt chẽ với cô. Từ đó kết quả học tập của học sinh ngày càng nâng cao. 5. Kiểm tra, đánh giá: Việc kiểm tra, đánh giá năng lực học tập của học sinh là việc làm thường xuyên và lien tục mà đặc biệt là đối với học sinh yếu cần phải thực hiện nhiều hơn.Chúng ta đánh giá học sinh không phải chỉ để xếp loại mà chủ yếu là để đánh giá lại phương pháp tổ chức dạy học của chúng ta có đạt hiệu quả hay không, nội dung dạy học cho các em học sinh yếu đã phù hợp chưa.Từ đó giáo viên có kế hoạch điều chỉnh cho phù hợp. Ngoài ra giáo viên còn xác định được học sinh yếu mặt nào và tìm ra nguyên nhân để giáo dục tốt hơn. V. KẾT QUẢ Ở lớp Một, các em đang trong giai đoạn vui chơi chuyển sang hoạt động học tập. Các em còn rất hiếu động, thích hoạt động, cho nên hoạt động 25 / 31
  26. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” học tập mang tính chất học mà chơi, chơi mà học sẽ kích thích sự tìm tòi học hỏi từ đó sẽ phát triển được tư duy của các em. Trong một tiết dạy tôi thường xuyên quan tâm đến đối tượng học sinh yếu tạo cho em thấy được sự quan tâm chăm sóc của cô dành cho mình là nhiều hơn các bạn, làm cho em cảm thấy vui khi đi học, không còn cảm thấy áp lực, khó chịu như trước nữa. Tôi luôn vận dụng những kiến thức các em đã có để hình thành kiến thức mới, nghĩa là tạo tình huống có vấn đề sẽ kích thích học sinh hứng thú tích cực trong học tập. Với những việc làm trên tôi thu được kết quả của những HS yếu như sau: Cuèi năm học: 2017 – 2018 Lớp: 1C TT Họ và tên học sinh Đầu năm Cuối HKI Cuối HKII Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh 1 Nguyễn Hoàng Giang thµnh Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh 2 Nguyễn Văn Tài thµnh tèt Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh 3 Vũ Thùy Linh thµnh tèt tèt Ch­a hoµn Ch­a hoµn Hoµn thµnh 4 Hà Thị Thu Hiền thµnh thµnh Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh 5 Nguyễn Thị Lan Anh thµnh Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh tèt 6 Nguyễn Văn Tuấn thµnh Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh tèt 7 Nguyễn Thị Kiều thµnh tèt Ch­a hoµn Hoµn thµnh Hoµn thµnh tèt 8 Nguyễn Văn An thµnh 26 / 31
  27. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Với những kinh nghiệm của nhiều năm đứng lớp, tôi nhận thấy đối với học sinh yếu nếu không được quan tâm giáo dục, hướng các em vào việc học thì dần dần các em sẽ không còn hứng thú học tập nữa mà các em rất chán học lười viết bài, vào lớp hay làm việc riêng, không chịu viết bài đợi cô nhắc nhở nhiều lần mới chịu tập trung vào viết bài học. Từ đó dẫn đến hổng kiến thức, có học lại thì các em cũng khó tiếp thu . Được phát hiện kịp thời và có phương pháp giáo dục thích hợp với từng đối tượng học sinh học yếu môn Toán nên học sinh đã hứng thú học hơn và đặc biệt ham thích học môn Toán như các bạn cùng lứa tuổi, các em tỏ ra chăm ngoan, tự tin, có ý thức học tập, tạo nền tảng tiền đề vững chắc cho các lớp học sau này . PhÇn III kÕt luËn Công tác giáo dục học sinh nhỏ tuổi nhất là đối với học sinh học yếu ở lớp Một đòi hỏi người thầy, người cô phải có nhiều say mê biết đi sâu vào tâm hồn trẻ, đứng ở góc độ địa vị của các em, đồng thời biết vui với những niềm vui và buồn với nỗi buồn trẻ thơ của các em. Mỗi một lứa tuổi, một tính cách, phải có một cách đối xử riêng biệt, có phương pháp giảng dạy và giáo dục riêng, thủ thuật sư phạm nào cũng cần có tri thức, kỹ năng, kỹ xảo và những nét tính cách nhất định, có như thế mới tạo cho hứng thú học tập,tích luỹ kiến thức.Từ đó sẽ giúp các em học tốt, nắm vững được các số, biết so sánh, thực hiện thành thạo các phép tính từ đơn giản đến phức tạp và giải được bài toán có lời văn, học tốt các môn học khác của chương trình lớp Một. 1. Bài học kinh nghiệm: Qua nhiều năm giảng dạy, tôi nghĩ muốn thực hiện tốt những việc đã làm, đã nêu với những thành quả trên, bản thân tôi cùng các giáo viên trong tổ khối đã bàn luận và thống nhất với nhau là :Luôn yêu nghề mến trẻ, phải chịu khó, tận tuỵ, nhiệt tình thương yêu học sinh như con, em của mình, kịp thời giúp đỡ những học sinh có hoàn cảnh khó khăn, học sinh học yếu, có như thế mới làm tốt công tác chủ nhiệm của lớp mình. Ngoài ra giáo viên phải tỏ ra nghiêm khắc, kiên trì, bền bỉ, nhẫn nại giúp các em khắc phục những nhược điểm của mình và phát huy những ưu điểm. Quan tâm đến trẻ, bình tĩnh tìm hiểu tâm lí trẻ, có phương pháp giáo dục cụ thể đối với các em và phải hết sức tế nhị trong cách cư xử, cố gắng 27 / 31
  28. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” xoá bỏ nhiều sự mặc cảm tự ti giữa các em, có như vậy mới tạo cho các em niềm vui hứng thú khi đến lớp, đến trường. Phối hợp cùng với gia đình học sinh, học yếu môn Toán để giáo viên và phụ huynh có biện pháp chung để giáo dục các em học tốt hơn. Dạy Toán cần phải sáng tạo, nhạy bén để tìm ra cách dạy dễ hiểu mà không sai lệch phương pháp bộ môn để học sinh học đạt kết quả tốt. Phải chuẩn bị tốt đồ dùng dạy học cho mỗi bài dạy và biết tìm lời giới thiệu bài thích hợp để gây hứng thú cho học sinh lúc học tập và khắc sâu kiến thức cho học sinh. 2.Ý nghĩa, hiệu quả: Những kinh nghiệm sau khi được tập hợp, phân loại và xếp vào quy trình sẽ tạo điều kiện cho giáo viên tham khảo, áp dụng vào giảng dạy một cách dễ dàng, làm cho việc phụ đạo HS yếu có hiệu quả hơn. Sáng kiến còn là nơi để giáo viên tập hợp kinh nghiệm, giải pháp, chia sẻ với nhau trong quá trình tổ chức phụ đạo HS yếu. Việc nâng cao chất lượng dạy và học là một yêu cầu cần thiết và quan trọng qua phong trào thi đua ‘‘Thầy dạy tốt –Trò học tốt’’ Mỗi thầy cô giáo thật sự là một tấm gương tự học và sáng tạo cho học sinh noi theo. Giáo viên cần phải học hỏi trau dồi kiến thức, đầu tư nghiên cứu để tìm ra phương pháp hình thức dạy học phù hợp, phải có biện pháp cụ thể với từng đối tượng học sinh, xem việc giảng dạy là nghĩa vụ là trách nhiệm là lương tâm nghề nghiệp của mình. Qua đợt kiểm tra chất lượng năm học 2017- 2018 và cuối kì I năm 2017-2018, chất lượng kiểm tra những em yếu đã lên trung bình, khá, giỏi, số lượng học sinh yếu ở các lớp giảm mạnh. Tôi không dừng lại ở kết quả ban đầu này mà tập thể giáo viên lớp Một, quyết tâm cùng nhau tìm ra những việc làm những biện pháp sáng tạo hơn nữa để không còn học sinh học yếu môn Toán ở lớp Một vào cuối năm. 3. Đề xuất, khuyến nghị: Để nâng cao chất lượng giáo dục trong nhà trường tiểu học nói chung, hiệu quả chất lượng môn Toán nói riêng, tôi xin đề xuất một vài ý kiến sau: 28 / 31
  29. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.”  Giáo viên phải thường xuyên theo dõi, điều tra và khắc phục tình trạng học sinh làm sai phép tính, đề xuất biện pháp cụ thể. Mỗi Giáo viên phải có một sổ tay riêng để ghi lại những bài toán hay những phép tính mà học sinh hay làm sai để rèn luyện cho học sinh và cũng rèn luyện cho bản thân mình . Về thiết bị dạy học xin được cấp phát, bổ sung thêm các thiết bị, tranh ảnh, đồ dùng dạy học. Bộ đồ dùng học Toán cho giáo viên và học sinh phải to rõ ràng, tiện lợi khi sử dụng. Các phòng học cần bổ sung dầy đủ ánh sáng hơn.  BGH nhà trường chỉ đạo cụ thể, sâu sắc với những giải pháp sáng tạo .Cần động viên, khuyến khích kịp thời với những giáo viên đảm nhiệm công việc này.  Lãnh đạo phòng Giáo dục sớm có chỉ đạo tổ chức các chuyên đề về việc phụ đạo HS yếu. Đó cũng là cơ hội cho giáo viên được trao đổi học tập lẫn nhau những kinh nghiệm giáo dục học sinh yếu đạt hiệu quả. Trên đây là một số vấn đề mà trong quá trình thực hiện nghiên cứu tôi đã mạnh dạn đưa ra, tôi mong muốn với đề tài này, tôi sẽ đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy và học nói chung và với môn Toán nói riêng. Rất mong sự đóng góp bổ sung ý kiến cho đề tài nghiên cứu của tôi được đầy đủ, hoàn thiện hơn và giúp cho học sinh học tốt môn Toán trong những năm sau này được tốt hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn. Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh nghiệm của mình viết, không sao chép nội dung của người khác. 29 / 31
  30. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Sách giáo khoa Toán lớp 1 – Nhà xuất bản giáo dục. 2. Sách giáo viên Toán lớp 1(Tập 1-Tập 2) – Nhà xuất bản giáo dục. 3. Phương pháp dạy học môn toán ở Tiểu học– Nhà xuất bản giáo dục. 4. Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học – Nhà xuất bản giáo dục. 5. Tâm lý học Tiểu học - Nhà xuất bản giáo dục. 6. Rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên – Nhà xuất bản giáo dục. . 30 / 31
  31. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” Môc lôc Néi dung trang PhÇn I: ĐẶT VẤN ĐỀ I. lý do chän s¸ng kiÕn 1 II. môc ®Ých nghiªn cøu 2 III. ®èi t­îng vµ ph¹m vi nghiªn cøu 2 IV. nhiÖm vô nghiªn cøu 3 V. c¸c ph­¬ng ph¸p nghiªn cøu 3 VI. thêi gian thùc hiÖn 3 PhÇn II: néi dung s¸ng kiÕn kinh nghiÖm I. c¬ së khoa häc 4 1. C¬ së lÝ luËn 4 2. C¬ së thùc tiÔn 4 II. ®Æc ®iÓm t×nh h×nh 5 1.ThuËn lîi 5 2. Khã kh¨n 5 III. thùc tr¹ng vµ nh÷ng nguyªn nh©n 5 1.Thùc tr¹ng 6 2. Nguyªn nh©n 7 IV. néi dung vµ c¸c biÖn ph¸p thùc hiÖn 7 1. Nghiªn cøu t×m hiÓu ch­¬ng tr×nh 7 2. §Æc ®iÓm t©m lÝ vµ ph¸t triÓn cña häc sinh 8 3. Ph©n lo¹i vµ c¸c biÖn ph¸p kh¾c phôc häc sinh yÕu m«n to¸n 9 4. Phèi hîp víi phô huynh häc sinh 24 5. KiÓm tra, ®¸nh gi¸ 25 V. kÕt qu¶ 26 PhÇn III: kÕt luËn 1. Bµi häc kinh nghiÖm 27 2. ý nghÜa, hiÖu qu¶ 28 3. §Ò xuÊt, khuyÕn nghÞ 28 31 / 31
  32. SKKN:“Mét sè biÖn ph¸p gióp ®ì häc sinh yÕu häc tèt m«n To¸n ë líp 1.” 32 / 31