SKKN Một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh Lớp 5 theo Thông tư 22 đạt hiệu quả
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh Lớp 5 theo Thông tư 22 đạt hiệu quả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_giai_phap_nham_hinh_thanh_va_phat_trien_cac_nhom.doc
Nội dung tóm tắt: SKKN Một số giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh Lớp 5 theo Thông tư 22 đạt hiệu quả
- 12 không ỉ lại vào bạn bè, bố mẹ, anh chị trong bất cứ hoàn cảnh nào. Các em sẽ luôn tự tin với các em học sinh ở các khối lớp dưới, sẽ làm gương cho các em. Đây cũng sẽ là tiền đề để giúp các em khẳng định mình, tự họcm tự chủ trong các cấp học cao hơn sau này. 3.2 Tăng cường sự tham gia của học sinh trong mọi hoạt động Xây dựng nội quy lớp học. Đây là việc làm hết sức có ý nghĩa, bởi học sinh tham gia được cung cấp thông tin, được bày tỏ ý kiến của mình, ý kiến của các em được lắng nghe và tôn trọng. Từ đó giúp học sinh hiểu, tôn trọng và thực hiện tốt nội quy do chính các em đề ra. Ngoài ra, học sinh còn được rèn luyện kĩ năng giao tiếp, bày tỏ ý kiến và tham gia quá trình ra quyết định, biết hợp tác, phát huy tinh thần tập thể, nâng cao tinh thần trách nhiệm cho mỗi HS. Chia sẻ “Điều em muốn nói”. Chúng ta biết rằng, không phải lúc nào học sinh cũng có thể trực tiếp nói thẳng mong muốn, suy nghĩ của các em với thầy cô giáo, với nhà trường. Vì vậy, thông qua hòm thư “Điều em muốn nói”, học sinh được tự do bày tỏ những khúc mắc, băn khoăn của mình về cuộc sống xung quanh các em, về trường, lớp, bạn bè và thầy cô. Giáo viên có thể rút ngắn khoảng cách giữa thầy và trò, được lắng nghe những chia sẻ, mong muốn của các em để kịp thời có những điều chỉnh hợp lý, nhằm ngày càng nâng cao chất lượng giáo dục, tạo môi trường thân thiện trong lớp học. Ví dụ: khi một học sinh làm một điều có lỗi hoặc không trung thực, em chưa thể mạnh dạn để nhận lỗi với cô giáo thì hòm thư “Điều em muốn nói” sẽ giúp các em thực hiện điều đó. Xây dựng “Đôi bạn cùng tiến”: Trong lớp bao giờ cũng có nhiều đối tượng học sinh, ngoài những học sinh hoàn thành tốt các môn học còn có những học sinh chưa hoàn thành, tiếp thu chậm. Vậy việc xây dựng “Đôi bạn cùng tiến” là để học sinh học tốt kèm cặp học sinh còn chậm tiến, giúp các em học sinh này không bị tự ti, mặc cảm và thụ động trong học tập. Tôi phân các đôi sao cho các em ở gần nhau nhất để dễ kèm cặp nhau. Qua nắm được sức học của từng em, tôi lưu ý nhiều đến những em thuộc đối tượng đặc biệt. Các em giúp nhau trong mọi lĩnh vực như: Nhắc nhở bạn học bài, xem lại bài; trao đổi kinh nghiệm học tập; cách học bài dễ thuộc; cách vận dụng kiến thức đã học vào làm bài tập; hướng dẫn bạn làm bài tập
- 13 hoặc củng cố kiến thức mà bạn chưa hiểu, hướng dẫn cho bạn cách trình bày ý kiến trước lớp. Qua kiểm tra định kì, nhóm bạn nào tiến bộ tôi thường trao một món quà để động viên các em có sự cố gắng. Đồng thời, qua đó khuyến khích nhóm bạn khác thi đua nhau. Qua việc làm này, các em biết quan tâm bạn mình, bạn học tốt “giám sát” bạn mình kĩ hơn, bạn học chậm thì tự giác hơn, chăm học hơn để cùng thi đua với các bạn của các đôi khác. Tổ chức các trò chơi, các hoạt động trong giờ giải lao là một hoạt động vô cùng thú vị. Học sinh là người tự khởi xướng, tự tổ chức, tự quản các bạn và giáo viên cùng tham gia chơi với học sinh. Trước khi chơi, tôi đưa ra những giải thưởng thú vị như gói bánh, cái kẹo, hay hộp phấn, quyển vở, quyển sách truyện để khích lệ tinh thần chơi của các em. Qua trò chơi, giáo viên giúp học sinh rèn luyện kĩ năng điều hành lớp vui chơi, văn nghệ, vừa giúp các em thể hiện sự đoàn kết, hợp tác, giúp đỡ nhau để cùng nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ. Thông qua những giờ giải trí thú vị ấy, học sinh càng thân thiết, quý mến nhau hơn và chắc chắn rằng các em sẽ sẵn sàng giúp đỡ nhau khi gặp khó khăn trong học tập cũng như trong cuộc sống, hợp tác với nhau để giải quyết các vấn đề. Nhờ thế, tôi thấy tình cảm giữa thầy trò đã gắn bó nhau hơn và những học sinh hay nhút nhát, rụt rè nay không còn nữa mà trở nên mạnh dạn, tự tin hơn. Từ đó các em càng ham thích đến lớp để hòa nhập với bạn bè, các em biết hợp tác, chia sẻ kết quả học tập với bạn, việc học của các em ngày càng tiến bộ hơn. 4. Tuyên truyền, phối hợp tốt các lực lượng tham gia đánh giá 4.1. Tạo điều kiện để học sinh tham gia đánh giá Ba lực lượng tham gia đánh giá, nhận xét học sinh là giáo viên, học sinh và phụ huynh. Đây là điểm thuận lợi để giúp các em phát triển tốt hơn, toàn diện hơn. Trong quá trình thực hiện, tôi đã cố gắng tổ chức cho học sinh tự đánh giá mình và đánh giá bạn qua các hoạt động trong từng bài học, tuần học. Đây cũng chính là những thông tin bổ ích, góp phần làm căn cứ cho giáo viên trong việc thực hiện đánh giá học sinh. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá trong cặp, trong nhóm bằng cách đổi bài cho nhau để cùng rà soát xem kết quả nào đúng và đủ, kết quả nào chưa đúng và còn thiếu. Có những hoạt động học sinh tự đánh giá chéo giữa
- 14 các nhóm. Có những hoạt động học sinh cùng giáo viên đánh giá theo những tiêu chí giáo viên đã nêu. Từ đó các em thấy được những việc làm đúng và việc làm sai, những điều mình cần phải học tập bạn để phát huy và khắc phục. Các em không chỉ đánh giá các bạn về các mặt kiến thức trên lớp mà còn các hoạt động ở nhà. Những bạn cùng thôn, cùng xóm có thể nhận xét bạn mình xem về nhà có tự túc làm những việc để tự phục vụ bản thân như tự nấu cơm, giặt quần áo của mình, tự hoàn thành bài tập, kiểm soát việc học và chơi ở nhà, Có thể thấy trong đợt nghỉ dịch Covid 19 dài ngày vừa rồi, việc tự học của các em hoặc học trực tuyến được các cặp “đôi bạn cùng tiến” nắm và chia sẻ, đánh giá với cô giáo khá cởi mở. Các em biết tiếp nhận thông tin từ nhà trường, GVCN, thầy giáo TPT, thôn xóm để phân chia giờ học bài, chơi thể thao, giúp đỡ gia đình, một cách hiệu quả và báo cáo tình hình với GVCN khá đầy đủ. Các em tham gia làm bài tập cô giáo giao đăng trên trang Website của trường, biết phô tô bài tham gia cuộc thi An toàn giao thông cho nụ cười trẻ thơ, Vẽ tranh, với số lượng đầy đủ và chất lượng khá tốt. 4.2 Thường xuyên trao đổi, chia sẻ với phụ huynh học sinh Nhà trường đã tổ chức tuyên truyền nội dung của Thông tư 30 và Thông tư 22 sửa đổi bổ sung tới phụ huynh học sinh qua các buổi họp lớp, qua trao đổi hàng ngày giúp phụ huynh học sinh hiểu được về ý nghĩa của việc đánh giá học sinh theo Thông tư mới. Để học sinh phát triển toàn diện cần sự quan tâm của cả nhà trường và gia đình. Bản thân tôi đã tăng cường tuyên truyền đến phụ huynh để phụ huynh nhận thức được tầm quan trọng của việc tham gia đánh giá, nhận xét học sinh. Hình thành ý thức phụ huynh cần chủ động gặp giáo viên cũng là một việc làm thiết thực mà tôi đã thực hiện có hiệu quả. Giáo viên phối hợp chặt chẽ với gia đình trong việc giáo dục học sinh. Qua đó giáo viên sẽ có cái nhìn toàn diện về học sinh của mình. Thường xuyên liên hệ, trao đổi với phụ huynh cùng phối hợp với giáo viên chủ nhiệm trong việc giáo dục các em, động viên giúp đỡ kịp thời từng học sinh nhất là đối với những học sinh cần nâng cao chất lượng học tập, phát triển phẩm chất, năng lực. Tôi yêu cầu phụ huynh chú trọng đến các mặt năng lực của các em
- 15 như tự phục vụ, tự học, hợp tác giao tiếp với các thành viên trong gia đình, xóm thôn. Tôi cần phụ huynh giúp học sinh rèn luyện chăm làm, giúp đỡ gia đình các công việc vừa sức; tự học, bố trí thời gian học tập, sinh hoạt ở nhà; cố gắng tự hoàn thành công việc; phù hợp với lứa tuổi và khả năng đồng thời hoàn thành các bài vận dụng thực hành ở nhà và ngoài xã hội. Tôi trao đổi với phụ huynh bằng nhiều hình thức như: có thể gặp trực tiếp hoặc trao đổi qua điện thoại mỗi khi có sự việc cần trao đổi ngay, đôi khi chỉ là những thăm hỏi việc học tập sinh hoạt của học sinh ở nhà để tìm nguyên nhân học sa sút hay cùng nhau phối hợp để giúp học sinh tiến bộ về phẩm chất và năng lực. Tôi không thông báo trước lớp và trong cuộc họp cha mẹ học sinh những điểm chưa tốt của học sinh. Đồng thời tôi cũng lắng nghe để hiểu những tâm tư, nguyện vọng của phụ huynh cùng nhau bàn bạc thống nhất cách giáo dục con em mình cho phù hợp. Để thực hiện tốt việc phối hợp giáo viên nên tạo được sự thay đổi trong suy nghĩ và hành động của phụ huynh, ngoài việc chủ động đến thăm gia đình học sinh để phối hợp giáo dục thì tôi còn hình thành ý thức từ phụ huynh cần phải chủ động gặp giáo viên để phối hợp giáo dục. Trong đợt nghỉ dịch Covid dài ngày vừa rồi, tôi thấy sự phối kết hợp của phụ huynh và thầy cô được thể hiện một cách rõ nét để cùng giáo dục học sinh. Bằng các phương tiện thông tin như điện thoại, mạng Internet, giáo viên có thể truyền đạt các thông báo của Phòng giáo dục, Nhà trường, thầy cô giáo, về việc thực hiện công tác phòng dịch bệnh, về việc tự học ở nhà, học qua truyền hình, Phụ huynh rất hăng hái và nhiệt tình tạo điều kiện cho các em ôn tập kiến thức một cách tốt nhất. Ngoài việc học, phụ huynh còn chia sẻ, trao đổi với cô giáo về hoạt động giúp đỡ gia đình bằng các bức ảnh như học chế biến các món ăn, nhặt rau, chùi nhà, Các em hưởng ứng Ngày sách Việt Nam bằng các hình ảnh và video phong phú, đa dạng. Mối quan hệ giữa giáo viên và phụ huynh được cải thiện theo chiều hướng tích cực, gần gũi hơn, cởi mở hơn và chân tình hơn. Thông qua đó giáo viên sẽ đánh giá HS một cách toàn diện hơn và chính xác hơn. 4.3 Phối hợp giữa giáo viên bộ môn và giáo viên chủ nhiệm để có biện pháp giáo dục học sinh
- 16 Giáo viên bộ môn (GVBM) chịu trách nhiệm đánh giá quá trình học tập, rèn luyện và kết quả học tập của học sinh đối với môn học, hoạt động giáo dục mà mình đảm nhận theo quy định. Theo cách đánh giá học sinh ở TT 22, học sinh được đánh giá ở cả 3 mặt nên rất thuận lợi trong việc giúp học sinh phát triển phẩm chất, năng lực; nắm được những hạn chế của học sinh và đã có các biện pháp giúp đỡ. Giáo viên chủ nhiệm (GVCN) phối hợp với GVBM, lập kế hoạch, thực hiện kế hoạch bồi dưỡng, giúp đỡ học sinh học tập, rèn luyện đối với môn học, hoạt động giáo dục. Phối hợp với GVBM đánh giá quá trình hình thành và phát triển phẩm chất của học sinh. VD: Em A cần giúp đỡ để học sinh tự tin hơn trong học tập và các hoạt động; em B có biểu hiện thiếu trung thực trong học tập, hay ăn cắp đồ dùng các bạn, em C chưa đoàn kết, hay đánh bạn và còn chưa đoàn kết, phân biệt đối xử với các bạn, Giáo viên bộ môn cũng là người thầy, là người anh, người chị nắm đặc điểm tình hình mỗi em trong mỗi tiết học và ngoài giờ học để kịp thời trao đổi với giáo viên chủ nhiệm tìm các biện pháp giúp đỡ, giáo dục để các em hoàn thiện hơn. Thời gian để trao đổi ý kiến của tôi thường là vào các giờ ra chơi, các buổi sinh hoạt đầu giờ, sinh hoạt lớp, Đội; cũng có khi tôi mời các thầy cô tham gia hoạt động học tập, vui chơi cùng các em. Bằng cách làm này, học sinh của tôi càng mạnh dạn hơn khi giao tiếp với thầy cô hay những người lớn tuổi, các em tự tin hơn khi trao đổi những vấn đề các em thường gặp trong học tập, trong cuộc sống. Nếu do điều kiện khách quan mà không trực tiếp trao đổi được, chúng tôi có thể tạo lập các nhóm bao gồm GVCN và GVBM trên Internet để trao đổi trực tuyến cho tiện. Ngoài ra, sau khi kết thúc một tháng và kết thúc học kì, tôi còn tìm cách gặp gỡ, trao đổi, thống nhất ý kiến với đồng nghiệp rồi mới nhận xét vào sổ theo dõi chất lượng giáo dục hay sổ học bạ, hay có thể gặp gỡ với các phụ huynh có học sinh cần trao đổi. 4.4. Phối hợp với Đội TNTP Hồ Chí Minh tổ chức có hiệu quả các hoạt động Tôi động viên, nhắc nhở học sinh tham gia một cách tích cực các hoạt động ngoài giờ lên lớp như: thi văn nghệ nhân ngày 20/11; thi em viết, vẽ về mẹ và cô
- 17 nhân ngày 20/10; Thi chúng em kể chuyện Bác Hồ, thăm mẹ liệt sĩ, gia đình có công, thăm bia tưởng niệm các liệt sĩ nhân dịp 22/12, chương trình Đàn gà khăn quàng đỏ trò chơi dân gian, tìm hiểu lễ hội quê em, em hát dân ca, vệ sinh trường lớp Đây là cơ hội để học sinh phát triển năng lực giao tiếp, mạnh dạn, tự tin, tích cực hoạt động, giao lưu học hỏi bạn bè biết tự hào về quê hương mình, biết chăm học, phấn đấu học tập để xứng đáng với các thế hệ cha anh đi trước. Ngoài ra tôi còn chủ động lựa chọn các hình thức, nội dung phù hợp chủ điểm hoạt động của Liên đội hoặc đặc điểm của lớp để tổ chức các hoạt động cho các em tham gia: Thi Rung chuông vàng, vẽ tranh Em yêu biển đảo quê hương, Em làm hướng dẫn viên du lịch, Trong dịp hè, dịp tết, TPT Đội có thể phổ biến những nội quy quy định, các hội thi nhỏ thông qua Internet, III. Kết quả đạt được Qua thời gian thực hiện các giải pháp về thực hiện đánh giá học sinh tiểu học theo TT 22 đã cho thấy kết quả đạt được đến thời điểm giữa học kì 2 như sau: Tổng số HS Năng lực Đạt tốt Đạt Cần cố gắng 26 Tự phục vụ, tự quản 21 5 0 26 Hợp tác 20 6 0 Tự học và giải quyết 23 3 0 26 vấn đề So sánh với kết quả đầu năm học cho thấy: So với đầu năm thì năng lực của học sinh được hình thành và phát triển tốt hơn. Ở 3 nhóm năng lực, các học sinh đạt tốt tăng lên rất nhiều. Biểu hiện: Các phụ huynh đã quan tâm và có nhận thức đúng đắn về việc học tập của con em mình. Học sinh đều có ý thức tự học và học theo nhóm có hiệu quả cao, đặc biệt hầu hết các em đều có ý thức tự quản và tự giác trong mọi hoạt động ở trường cũng như ở nhà. Chất lượng học tập học sinh được tăng lên rõ rệt.
- 18 Kỹ năng giao tiếp của các em trôi chảy, lưu loát hơn; các em tự tin hơn trong giao tiếp, học tập Nề nếp lớp học ngày một tốt hơn, có quy củ hơn. Học sinh tự giác trong việc tự học, trình bày bài trong vở, học sinh biết chịu trách nhiệm hơn về những việc mình làm, về những nhiệm vụ được giao. Học sinh ý thức được tinh thần trách nhiệm trong các hoạt động, phong trào thi đua của lớp; tinh thần đoàn kết, kĩ năng hợp tác và khả năng làm việc theo nhóm hiệu quả cao hơn, biết yêu thương cảm thông cho những người có hoàn cảnh khó khăn, yêu thương những người xung quanh. Đặc biệt, học sinh hầu như không còn biểu hiện không trung thực trong học học tập, biết mạnh dạn nhận lỗi với cô giáo và trước lớp. Đến thời điểm giữa học kì 2 năm học 2019 - 2020, kết quả đánh giá phẩm chất học sinh của lớp tôi đạt và đạt tốt 26/26 em, tỉ lệ: 100%, không có em nào cần cố gắng.
- 19 C. PHẦN KẾT LUẬN I. Ý nghĩa của sáng kiến Qua một năm học vận dụng các giải pháp về đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư 22 nói trên, bản thân tôi nhận thấy: việc thực hiện đổi mới cách đánh giá, nhận xét học sinh theo Thông tư mới là rất cần thiết. Qua quá trình thực hiện đã mang lại những kết quả tốt đẹp. Thực hiện cách đánh giá học sinh theo Thông tư 22 giúp cho giáo viên thay đổi phương pháp dạy học - yếu tố hết sức quan trọng để nâng cao chất lượng giáo dục. Hơn nữa, thông tư đặt niềm tin và trao quyền chủ động rất lớn cho giáo viên, cho nhà trường. Ban đầu, có thể gặp khó khăn, nhưng nếu xác định được: đánh giá là để giúp HS học tốt hơn, thì thông qua các đợt tập huấn hiểu được cách đánh giá, cùng nhau trao đổi sinh hoạt chuyên môn, qua thực tiễn GV sẽ biết được mình phải đánh giá như thế nào, nhận xét ra sao đối với từng HS. Chẳng hạn, về đánh giá thường xuyên bằng nhận xét. Nhận xét đó có thể bằng “lời nói”, hoặc “viết” hoàn toàn do giáo viên quyết định và vận dụng một cách linh hoạt, điều quan trọng là nhận xét đó phải chính xác, kịp thời, khích lệ được HS, làm cho các em thấy hứng thú học tập, đồng thời nhận xét còn tư vấn, hướng dẫn giúp các em biết được những hạn chế và biết tự mình khắc phục. Cách đánh giá mới không chỉ ghi nhận kiến thức HS đạt được, mà còn đánh giá quá trình học sinh có được kiến thức và vận dụng kiến thức ấy như thế nào. Cách đánh giá trước đây không làm được điều này, GV chủ yếu cho điểm số xác nhận kết quả cuối cùng của HS là xong. Mỗi GV chúng ta tiếp tục phải nghiên cứu kỹ thông tư, bằng sự trải nghiệm thực tế của mình, hãy phân tích, so sánh giữa cách đánh giá cho điểm trước đây, với đánh giá kết hợp cho điểm định kỳ với đánh giá thường xuyên bằng nhận xét, để hiểu sâu sắc ý nghĩa, tính ưu việt của sự thay đổi. Đặc biệt, lý giải cho được vì sao phải đổi mới đánh giá, nội dung cốt lõi của đánh giá mới là gì và điều quan trọng là nó mang lại lợi ích gì cho học trò? Bởi việc gì có lợi cho học trò, sẽ được sự ủng hộ của phụ huynh HS và xã hội. Ban đầu triển khai không tránh khỏi khó khăn, nhưng khó khăn mà giúp học sinh tiến bộ, có hứng thú học tập, học tốt hơn,
- 20 thì khó mấy cũng quyết tâm làm. Đây cũng là tinh thần của Nghị quyết 29 về đổi mới căn bản toàn diện giáo dục đào tạo mà toàn ngành đang triển khai thực hiện. Bậc Tiểu học là bậc học đặt nền móng trong quá trình hoàn thiện nhân cách học sinh. Những gì đạt được ở bậc học này là cơ sở vững chắc để các em tiếp bước. Bên cạnh giúp hoàn thành kiến thức kĩ năng các môn học thì việc giúp các em phát triển năng lực và phẩm chất vô cùng cần thiết. Giáo dục học sinh có tài, có đức, năng động, sáng tạo, tự tin để đáp ứng với yêu cầu của xã hội là nhiệm vụ cao cả của mỗi chúng ta. Giáo dục là cả một quá trình rất cần sự nỗ lực và kiên trì của mỗi người thầy cô giáo. Giáo viên biết lựa chọn và kết hợp sử dụng các biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh. Bằng lòng yêu nghề mến trẻ, bằng sự vị tha, bao dung, độ lượng, bằng tâm hồn của nhà giáo chắc chắn giáo viên chủ nhiệm sẽ thành công trong việc giúp học sinh phát triển phẩm chất và năng lực. Giáo viên chủ ngiệm có vai trò như là người cha, người mẹ thứ hai của các em, luôn gần gũi, quan tâm, chia sẻ với tất cả học sinh bởi mỗi em có một hoàn cảnh khác nhau. Kết thúc năm học, hầu hết các bậc phụ huynh cũng như các em học sinh đều rất vui và tin tưởng vào cách đánh giá theo TT 22. Điều quan trọng là, thông qua cách đánh giá, nhận xét và khen thưởng như hiện nay đã tạo động lực để các em tiếp tục phấn đấu trong học tập. Cái hay của Thông tư mới là, học sinh được khen thưởng và khuyến khích ở nhiều mặt khác nhau, chứ không nhất thiết riêng mặt kiến thức môn học. II. Phạm vi áp dụng Sáng kiến chỉ giới hạn trong phạm vi nghiên cứu giải pháp nhằm hình thành và phát triển các nhóm năng lực cho học sinh lớp 5 theo Thông tư 22. Sáng kiến mở rộng đối với các khối lớp 1, 2, 3, 4 áp dụng ở đơn vị tôi đang công tác. Tôi nghiên cứu đề tài nhằm mục đích đóng góp một phần công sức của mình vào công tác giáo dục học sinh, giúp các em phát triển toàn diện theo hướng đổi mới đánh giá học sinh tiểu học. Qua nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được những giải pháp hữu hiệu, bài học kinh nghiệm để có thể áp dụng vào thực tiễn làm tốt công tác đánh giá học sinh trong trường tiểu học tôi đang công tác nói riêng và ngành giáo dục huyện nhà nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu sáng kiến thành công
- 21 thì việc đánh giá học sinh được chú trọng đúng mức, giúp giáo viên có được những kĩ năng, những thủ thuật quý giá trong chuyên môn nghiệp vụ của mình. Thời gian thực hiện đổi mới đánh giá học sinh tiểu học chưa dài, tôi cũng đã trải nghiệm nhưng chưa được nhiều. Tôi mạnh dạn chia sẻ những giải pháp của mình trong việc thực hiện đánh giá học sinh tiểu học theo 22 mà tôi đã tích lũy và học hỏi được. Tôi rất mong sự góp ý chân thành của các đồng nghiệp. III. Kiến nghị, đề xuất Tại những buổi sinh hoạt chuyên môn, nhà trường thường xuyên đưa nội dung đánh giá, nhận xét học sinh vào sinh hoạt. Tại đây, các giáo viên trong trường thường xuyên được trao đổi những kinh nghiệm trong việc nhận xét, đánh giá học sinh trong quá trình dạy học. Từ đó, giáo viên sẽ rút kinh nghiệm, học hỏi lẫn nhau, trình bày những sáng kiến bổ ích để việc đánh giá học sinh được linh hoạt, nhận xét đúng năng lực học sinh. Mỗi giáo viên cần tham gia tích cực vào sinh hoạt chuyên môn tại trường để chia sẻ học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp về viết nhận xét học sinh. Trong sinh hoạt chuyên môn, mỗi giáo viên hãy đưa ra những minh chứng về bài làm của học sinh hay video, hình ảnh ghi lại hoạt động của học sinh để cùng nhau thảo luận, phân tích và viết những nhận xét. Từ đó giáo viên sẽ hình thành được năng lực quan sát, ghi chép về các mặt hoạt động của mỗi học sinh trong lớp. Với cách cộng tác như vậy giáo viên sẽ hiểu biết sâu sắc hơn về đặc điểm tâm lý, năng lực của học sinh đồng thời học được những sáng kiến nhận xét hay, có ý nghĩa giáo dục học sinh từ đồng nghiệp. Để đánh giá được chính xác, khách quan và có tác dụng cao trong giáo dục học sinh cần có sự quan tâm của nhà trường, gia đình và xã hội, đặc biệt là phụ huynh học sinh. Để có thêm nhiều kinh nghiệm về phương pháp, kĩ năng đánh giá, nhận xét học sinh, giáo viên cần được tham gia nhiều hơn nữa các lớp tập huấn nghiệp vụ do cấp trên tổ chức, đặc biệt là cách sử dụng một số công nghệ hiện đại để hỗ trợ việc dạy học và đánh giá học sinh; tìm hiểu từ các bài viết, các nghiên cứu trên các trang website có uy tín của các nhà nghiên cứu tâm huyết với giáo dục.