Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giao_duc_ky_nang_song_cho_hoc_sinh_tie.doc
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh Tiểu học
- kế, tổ chức các hoạt động dạy học, phải chú trọng đến hình thành và giáo dục kỹ năng sống cho các em trong tiết học đó, trong bài học đó. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Đạo đức: Bản thân môn Đạo đức đã chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến kỹ năng sống như: kỹ năng giao tiếp, ứng xử với ông bà, cha, mẹ, thầy, cô giáo, bạn bè , kỹ năng bày tỏ ý kiến của bản thân, kỹ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề phù hợp, kỹ năng giữ vệ sinh cá nhân, kỹ năng tự phục vụ và tự quản lý thời gian, kỹ năng xử lý thông tin và các vấn đề trong đời sống ở trường học, ở cộng đồng. Để giúp các em có những kỹ năng trên thì vai trò của giáo viên rất quan trọng, đặc biệt là việc lựa chọn các phương pháp và hình thức dạy học học phù hợp. Ví dụ bài: Tiết kiệm và bảo vệ nguồn nước (Đạo đức lớp 3) HĐ1: Cho học sinh tìm hiểu vai trò của nước bằng cách đưa ra một số hình ảnh: Dùng nước tắm giặt, Tưới cây, ăn uống sinh hoạt hàng ngày, một số hình ảnh cánh đồng khô hạn, nứt nẻ do thiếu nước, một số cánh đồng xanh tốt đầy đủ nước Cho các em quan sát, thu thập thông tin và ghi vào phiếu cá nhân. Trình bày ý kiến và kết luận chung: Nước là nhu cầu cần thiết đối với cuộc sống sinh vật nói chung và con người nói riêng. HĐ2: Bày tỏ ý kiến: Tổ chức cho học sinh bày tỏ ý kiến bằng cách dùng cách thẻ màu xanh (đồng ý), thẻ màu vàng (không đồng ý). Giáo viên chiếu nội dung các hành vi: + Đổ nước thải ra sông, hồ + Tắm cho trâu, bò gần giếng nước ăn + Vứt vỏ chai, lọ thuốc bảo vệ thực vật vào thùng rác riêng + Không vứt rác, vỏ phế liệu xuống sông, hồ, ao + Sử dụng xong để vòi nước chảy mà không khóa Học sinh giơ thẻ để bày tỏ ý kiến đối với mỗi hành vi. Sau khi học sinh bày tỏ mỗi ý kiến, giáo viên trao đổi: Tại sao em đồng tình (không đồng tình) với hành vi này? Em có thể làm gì khi chứng kiến hành vi đó? Giáo viên kết luận tính đúng/sai của các hành vi, việc làm trên đối với môi trường và sau đó chốt lại. Cuối tiết học, giáo viên dặn dò các em về nhà tìm hiểu việc sử dụng và bảo vệ nước tại gia đình, địa phương sau đó thu thập thông tin, ghi nhanh vào phiếu để tiết sau báo cáo. Với cách tổ chức hình thức dạy học và sử dụng phương pháp dạy học phù hợp. Học sinh sẽ tự nhận thức tầm quan trọng của nước và hành vi
- đúng/sai để bảo vệ nguồn nước. Các em sẽ nhớ mãi vai trò của nước và biết cách bảo vệ nguồn nước. * Giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thông qua môn Tự nhiên và xã hội. Môn Tiếng Việt giúp các em phát triển kỹ năng giao tiếp, kỹ năng cảm thông, chia sẻ, tự nhận thức bản thân, biết tìm kiếm thông tin. Môn Đạo đức giúp các em phát triển kỹ năng ứng xử có văn hóa, nhận thức các hành vi đúng/sai và có quyết định đúng đắn, phù hợp thì ở môn Tự nhiên và xã hội giúp các em phát triển kỹ năng quan sát, nêu nhận xét, thắc mắc, biết đặt câu hỏi và diễn đạt sự hiểu biết của bản thân về các sự vật, hiện tượng đơn giản trong tự nhiên và xã hội. Đặc biệt môn học này giúp các em xây dựng quy tắc giữ vệ sinh, không ăn những thức ăn quá hạn, không rõ nguồn gốc, bảo vệ sức khỏe và giữ an toàn cho bản thân, gia đình, cộng đồng, yêu quê hương, trường lớp và có thái độ thân thiện với thiên nhiên. Tuy nhiên để đạt được mục tiêu giáo dục kỹ năng sống qua môn học, giáo viên phải biết thiết kế các hoạt động học và tổ chức hình thức dạy học hợp lý. Làm thể nào học sinh tự tìm ra những việc làm đúng/sai, cách ứng xử phù hợp nhất. Ví dụ: Bài: Phòng bệnh béo phì (khoa học 4) HĐ1: Giáo viên cho học sinh hoạt làm việc theo nhóm 4, yêu cầu các nhóm trao đổi và vẽ tranh những trẻ em bị béo phì. Các nhóm trưng bày sản phẩm, đại diện một nhóm mô tả đặc điểm của trẻ bị béo phì. Giáo viên tóm tắt ý kiến và nêu ba dấu hiệu chính của trẻ bị béo phì: + Có cân nặng hơn mức trung bình so với chiều cao và tuổi là 20% + Có những lớp mỡ trên vú, cánh tay và cằm + Bị hụt hơi khi gắng sức HĐ2: Yêu cầu các nhóm liệt kê những bất lợi của người béo phì Các nhóm nêu, sau đó giáo viên kết luận, nêu ba điểm chính của người bị béo phì: + Mất thoải mái trong cuộc sống + Giảm hiệu suất lao động và sự lanh lợi trong cuộc sống + Có nguy cơ bị bệnh tim mạch và huyết áp cao, bệnh tiểu đường HĐ 3: Tìm hiểu nguyên nhân và cách phòng bệnh béo phì. Cho học sinh thảo luận theo cặp đôi, quan sát các hình vẽ ở sách để tìm ra nguyên nhân và cách phòng bệnh theo các câu hỏi gợi ý: + Nguyên nhân nào dẫn đến bệnh béo phì + Làm thế nào để phòng bệnh béo phì
- + Cần làm gì khi bản thân hoặc người thân của mình có nguy cơ mắc bệnh béo phì? Các nhóm trao đổi theo gợi ý, trình bày và giáo viên chốt lại. Có thể tổ chức trò chơi xử lý tình huống: Trên đường đi học về, em nhìn thấy một em bé béo phì bị một nhóm bạn trêu chọc. Trong tình huống đó em xử lý như thế nào? Qua cách xử lý tình huống của học sinh, giáo viên có thể khắc sâu thêm: béo phì không những có nguy cơ tiềm ẩn các bệnh tật mà còn ảnh hưởng đến thẩm mỹ, thường bị bạn bè trêu chọc. 2.2.2. Giáo dục kỹ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”. Để thành công trong cuộc sống, các em học sinh không chỉ cần có tri thức khoa học mà còn cần có các kĩ năng ứng xử phù hợp với các tình huống của cuộc sống và có lối sống đẹp. Dạy học theo tài liệu Sống đẹp từ lớp 1 đến lớp 5 theo từng chủ đề nhằm giúp các em hình thành các năng lực, phẩm chất như: Tự phục vụ, tự quản; Giao tiếp, hợp tác; Giải quyết vấn đề trong học tập, cuộc sống ; Tích cực tham gia hoạt động giáo dục; Tự tin, tự trọng, tự chịu trách nhiệm; Trung thực, kỉ luật, đoàn kết; Yêu gia đình, bạn bè và những người khác; yêu trường, lớp, quê hương, đất nước; Các loại hình hoạt động trong sách rất đa dạng, phong phú như: viết, vẽ, chơi trò chơi, đóng kịch, xử lí tình huống, và đều được sắp xếp theo tiến trình 4 giai đoạn: trải nghiệm, kết nối, thực hành, vận dụng. Mỗi tháng, GV-TPT phối hợp với giáo viên chủ nhiệm lựa chọn chủ đề phù hợp để tổ chức các hoạt động chung theo từng khối lớp với nhiều hình thức phong phú tạo hứng thú cho HS: Rung chuông vàng, hái hoa dân chủ, phóng viên nhỏ giúp các em tự tin, phát triển nhiều kĩ năng sống cho bản thân, học siinh được trải nghiệm, vận dụng kiến thức đã học vào các tình huống thực tế. Như vậy, tài liệu Sống đẹp là tài liệu giáo dục kỹ năng sống rất hữu ích, là một cẩm nang rất cần thiết để hình thành các kỹ năng sống cho các em. Giáo viên dạy phải đầu tư thời gian, phương pháp và thiết kế tổ chức các hoạt động học phù hợp có thể trong lớp, ngoài trời, tham quan theo mỗi bài học để đạt được hiệu quả cao. 2.2.3. Giáo dục kỹ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. Nếu như qua các môn học các em được hình thành kỹ năng giao tiếp, phát triển tư duy, kỹ năng tự nhận thức, ra quyết định, cảm thông, chia sẻ thì hoạt động ngoài giờ lên lớp rèn luyện cho các em các kỹ năng cơ bản, phù hợp với lứa tuổi như: kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổ chức hoạt động chung cùng
- nhau, biết phối hợp với mọi người cùng hoạt động, cùng tham gia, trải nghiệm Vậy để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh qua các hoạt động ngoài giờ lên lớp đạt hiệu quả. Theo tôi chúng ta cần tổ chức cho học sinh một số hoạt động sau: - Tổ chức Đêm hội trăng rằm: các em phấn khởi được cùng vui hội với các hoạt động bày trí mâm cỗ, rước đèn, phá cỗ, xem múa lân hấp dẫn từ đó phát triển kĩ năng cần thiết cho HS. - Ngoại khóa Tiếng Anh có sự tham gia của người nước ngoài thực sự giúp học sinh phát huy năng lực giao tiếp và tương tác. Học sinh có một sân chơi Anh ngữ vô cùng bổ ích và lý thú, giúp cho các em cởi mở hơn, tự tin hơn. - Tổ chức “Ngày hội học sinh Tiểu học" với các hoạt động như: văn nghệ, gian hàng trưng bày, em tập làm kinh doanh, trạng nguyên nhỏ tuổi lớp 3,4,5 bằng hình thức Rung chuông vàng, trò chơi dân gian, nết chữ-nết người đã tạo ra sân chơi lớn cho các em tham gia, học sinh được trải nghiệm, phát triển các mặt năng lực phẩm chất cần thiết cho các em trong cuộc sống. - Hoạt động vui chơi giải trí, văn nghệ, TDTT: Vui chơi giải trí là nhu cầu thiết yếu của trẻ, đồng thời là quyền lợi của trẻ em. Nó là một hoạt động có ý nghĩa giáo dục to lớn đối với học sinh ở trường tiểu học. Hoạt động này làm thỏa mãn tinh thần cho trẻ em sau những giờ học căng thẳng, góp phần rèn luyện một số phẩm chất như tính tổ chức kỷ luật, tinh thần trách nhiệm, lòng nhân ái. Để tổ chức có hiệu quả giáo viên phải biết phối hợp với Tổng phụ trách tạo sân chơi cho các em. Thiết kế các hoạt động phù hợp: + Tháng 8, 9: là lúc các em mới vào học, để tạo hứng thú cho các em, chúng ta nên tổ chức các trò chơi dân gian như đơn giản như kéo co, mèo đuổi chuột, nhảy bao bố trò chơi này vừa giải trí nhưng vừa kết nối tình cảm giữa các bạn trong lớp, trong đội, trong trường. Các em có dịp làm quen với nhau khi được xếp vào một đội, một nhóm cùng chơi. + Tháng 10, 11: Những tháng này có các ngày kỷ niệm: 20/10, 20/11. Để giúp các em vừa giải trí, vừa ôn lại ngày kỷ niệm lớn chúng ta tổ chức hội thi hát dân ca hay hát hò khoan, khuyến khích các em sáng tác, đặt lời mới theo chủ đề về ngày Nhà giáo Việt Nam, về quê hương, đất nước, mái trường. Qua hội thi giúp các em phát triển kỹ năng giao lưu cũng như tình yêu quê hương đất nước. + Tháng 12, 01: Là nững tháng các em đã học được nhiều kiến thức. Để giúp các em tự khẳng định mình chúng ta nên tổ chức hội thi “Rung chuông
- vàng” hay “Trạng nguyên nhỏ tuổi”. Hội thi vừa thu hút những tài năng của trường vừa gây không khí hào hứng, giúp các em tự khẳng định mình, cũng như phát triển kỹ năng nhận thức. Tháng 2, 3: Đây là những tháng có các ngày kỷ niệm trọng đại. Tôi nghĩ giáo viên nên phối hợp với Tổng phụ trách tổ chức cho các em tham quan, dã ngoại một số nơi trong địa bàn, thăm các di tích lịch sử, giúp đỡ các bà mẹ Việt Nam anh hùng, thương binh, người tàn tật Để giáo dục các em có trách nhiệm với quê hương, đất nước và phải luôn nhớ ơn những người đã có công với nước. + Tháng 4 , 5: Tổ chức các hội thi tài năng: như hội thi cắm hoa, diễn thuyết về một số chủ đề như: Nhà sử học nhỏ tuổi, Chúng em yêu khoa học, ngoại ngữ Đây là đỉnh điểm thăng hoa của năm học, nhằm chọn ra những tài năng xuất sắc, là tấm gương sáng của trường. Từ đây hình thành ở các em lòng đam mê hiếu học cũng như phát hiện các tài năng để giúp đỡ. - Hoạt động lao động công ích: Đây là một loại hình đặc trưng của hoạt động ngoài giờ lên lớp. Thông qua lao động công ích các em gắn bó với đời sống xã hội. Lao động công ích sẽ giúp trẻ hiểu thêm về giáo trị lao động. Có lao động các em mới yêu người lao động, quý các sản phẩm người lao động làm ra. Vì vậy phải thường xuyên tổ chức các em các hoạt động như vệ sinh lớp học, sân trường, chăm sóc bồn hoa, trồng cây xanh để các em được tiếp xúc, làm quen với lao động. Chúng ta cũng biết, hiện nay học sinh rất ít được tham gia lao động nhưng đây là hoạt động thực sự cần thiết giúp các em thích nghi với cuộc sống xung quanh. Các em sẽ được rèn luyện sự nhanh nhẹn khi cầm chiếc chổi quét nhà, có tinh thần hợp tác với nhau khi cùng nhổ cỏ, tưới nước. Sau này dù có rơi vào hoàn cảnh khắc nghiệt nào thì các em vẫn có thể tồn tại được. Đó là nhờ các em biết lao động. - Tham quan du lịch cảnh đẹp trong và ngoài tỉnh: Đây là hoạt động giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho các em, giúp các em biết được cảnh đẹp thiên nhiên. Bồi dưỡng khả năng cảm thụ cái đẹp, thưởng thức và giữ gìn nét đẹp của thiên nhiên, góp phần bồi dưỡng năng lực học môn Tiếng Việt. Qua đó giáo dục kiến thức môi trường cho các em, giúp các em có hành động đúng với môi trường mình đang sống. - Tham quan cơ sở sản xuất, nhà máy xí nghiệp trên địa bàn: Hoạt động này giúp các em được tiếp xúc với thực tế sau khi học các bài Tập đọc, TN-XH, Kỹ thuật, GD địa phương Đồng thời là việc làm giáo dục hướng nghiệp cho các em, sớm bồi dưỡng lòng yêu lao động, biết quý thành quả của người lao động, giáo dục lòng yêu quê hương, định hướng cho ước mơ, chí hướng xây dựng quê hương.
- - Tham quan di tích lịch sử, bảo tàng, nhà truyền thống: Tổ chức được hoạt động này sẽ giáo dục cho các em lòng tự hào truyền thống quê hương, truyền thống dân tộc. Đồng thời giáo dục các em biết phát huy truyền thống dân tộc, biết giữ giữ gìn, tôn tạo các khu di tích lịch sử, nhà bảo tàng. Giúp các em hiểu được nét đẹp truyền thống của dân tộc được lưu giữ lại đó là do sự đúc rút của ông cha truyền lại từ đời này sang đời khác, nhiệm vụ của chúng ta là phải giữ gìn và phát huy nét đẹp đó. 2.2.4. Giáo dục kỹ năng sống thông qua đổi mới phương pháp dạy học Đổi mới phương pháp dạy học không phải là thay đổi hoàn toàn các phương pháp cũ bằng các phương pháp mới mà là sự vận dụng phối hợp linh hoạt giữa các phương pháp dạy học và hình thức tổ chức lớp học. Dạy hoc theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà học sinh có cơ hội phát triển nhiều kỹ năng sống như hợp tác, chia sẻ, các làm việc khoa học, tự học Dạy học theo nhóm là hình thức tổ chức dạy học mà tất cả các học sinh của nhóm cùng thực hiện nhiệm vụ nhất định trong một thời gian nhất định. Nhóm trưởng nhận nhiệm vụ từ giáo viên, điều hành hoạt động nhóm và báo cáo kết quả học tập của nhóm mình với giáo viên. Nói là học theo nhóm nhưng trước hết học sinh phải tự học, tự trải nghiệm, khám phá, nghiên cứu tài liệu để có những hiểu biết cá nhân về việc học tập, sau đó chia sẻ cặp đôi với bạn bên cạnh, nói cách nghĩ, cách làm cho bạn nghe, tiếp thu những góp ý của bạn để điều chỉnh ý kiến, kết quả của mình. Sau khi chia sẻ cặp đôi, học sinh tự tin báo cáo kết của của mình trước nhóm. Các thành viên trong nhóm nhận xét phần trình bày của bạn. Đây cũng là dịp các em thể hiện ý kiến cá nhân của mình. Các thành viên trong nhóm đều được báo cáo, nhận xét, ai cũng được tham gia vào công việc chung, không ai đứng ngoài cuộc, không ai làm thay. Hoạt động nhóm làm cho từng thành viên được bộc lộ những suy nghĩ, hiểu biết, thái độ của mình. Qua đó đươc tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Trong nhóm nhỏ mỗi cá nhân đều phải nỗ lực, không thể ỷ lại vào người khác. Toàn nhóm phải phối hợp với nhau để đạt được mục tiêu chung. Kết quả làm việc của từng nhóm trước lớp sẽ tạo một không khí thi đua giữa các nhóm, đóng góp tích cực vào kết quả chung của bài học. Học theo nhóm giúp các em được tập thể uốn nắn, điều chỉnh. Qua đó phát triển tình bạn, năng lực hợp tác, năng lực trình bày, nghiên cứu, ý thức tổ
- chức kỷ luật, tinh thần tương trợ và cao hơn nữa là làm cho từng thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội. Như vậy đòi hỏi khi thiết kế bài dạy giáo viên phải đầu tư để tổ chức hoạt động học phù hợp. Tổ chức cho học sinh biết tự học, tự vận dụng. Làm cho học sinh biết hợp tác, chia sẻ. Phải tập cho học sinh học cách thức đi tới sự hiểu biết, học phong cách độc lập, sáng tạo, linh hoạt trong nhận thức và hành động. 2.2.5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em Đây là hình thức thường làm nhưng lại đạt hiệu quả rất cao trong các hoạt động. Việc giáo viên tích cực giao lưu với phụ huynh giúp giáo viên dễ dàng nắm bắt tình hình của các em, hiểu được tính cách, hoàn cảnh sống của các em từ đó đề ra các biện pháp phù hợp cũng như cách tác động, phối hợp với phụ huynh trong việc rèn luyện đúng phương pháp. Nhận thức được tầm quan trọng của biện pháp này, tôi thường trao đổi, tuyên truyền phụ huynh hiểu những việc nên và không nên đối với các em để giúp các em có kỹ năng sống tốt, có kỹ năng tự bảo vệ bản thân, tự tin trong cuộc sống. Tôi nói rõ cho phụ hunh biết: trẻ con luôn bắt chước người lớn và cha mẹ các em là những người lớn gần gũi nhất. Vì vậy các bậc làm cha làm mẹ đừng vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những thói quen tốt để rồi sau đó lại bắt các em mất thời gian học lại những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Cha mẹ hãy chú ý giúp các em hình thành những kỹ năng sống tốt như kỹ năng giao tiếp xã hội để tự khám phá, đánh giá bản thân mình và người khác và là tấm gương sáng nhất đẻ trẻ noi theo từ lời ăn tiếng nói đến cử chỉ, hành động, giao tiếp với người xung quanh VD: Bố mẹ hãy cho phép các em vui chơi bày biện đồ chơi theo theo ý thích của mình, đừng bao giờ cấm đoán hay la mắng. Điều quan trọng là hãy để các em tự thu dọn đồ chơi sau khi chơi xong. Bố mẹ có thể cùng con thu dọn nhưng tuyệt đối không bao giờ được làm thay. Khi đi học, bố mẹ cứ tự để cho con mình chuẩn bị đồ dùng, chỉ kiểm tra và chỉ ra những đồ dùng còn thiếu để các em bổ sung, và nhắc các em hôm sau phải chuẩn bị đầy đủ, không được chuẩn bị thay, hôm sau tiếp tục kiểm tra việc chuẩn bị đồ dùng của con cái. Trong các dịp lễ tết cha mẹ nên tạo cơ hội khuyến khích các em tham gia dọn dẹp trang hoàng nhà cửa, phụ ông bà lau lá để gói bánh chưng, trang trí cây đào, cây quất, đi chợ tết mua sắm cùng mẹ Ngoài ra, bố mẹ hãy lựa chọn những chương trình trên truyền hình phù hợp và bổ ích với các em để cả nhà
- cùng xem, khi xem khuyến khích các em nói lên suy nghĩ cảm xúc của mình về những điều mà mình vừa được xem. Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát những biểu hiện của các em trong điều kiện và tình huống tự nhiên hàng ngày như quan sát xem các em có tự tin và tự nhiên khi giao tiếp với mọi người hay không? Có thích tham gia dã ngoại hay tham gia các nhóm sinh hoạt không? Có tự nhiên sáng tạo khi học các bài học không? Ccó lễ phép trong cách nói năng với người lớn hay không? để từ đó có biện pháp rèn luyện và giáo dục . Điều tôi luôn tâm niệm với các bậc phụ huynh là: Chúng ta hãy dành nhiều thời gian hơn cho việc dạy các em nên người, không nên chỉ chạy theo các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ cho các em thấy những giá trị của tâm hồn, mà điều này đang rất cần đối với các em học sinh tiểu học - lứa tuổi các em chập chững tập làm người lớn. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với phụ huynh mà tôi thấy học sinh lớp tôi rất mạnh dạn, tự tin và hầu hết các em có kỹ năng sống cần thiết theo độ tuổi. 2.3. Những kết quả đạt được: Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự đồng thuận hợp tác của các bạn đồng nghiệp, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ học sinh đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong việc dạy các kỹ năng sống cơ bản thể hiện ở các kết quả sau: 100% các em năng động, mạnh dạn và tự tin, 100% học sinh được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường đạt hiệu quả. 85% học sinh đã có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức; kỹ năng vận động nhỏ, linh hoạt trong các hoạt động hàng ngày 90% học sinh được rèn kỹ năng tự kiểm soát bản thân, phát triển óc sáng tạo, tính tự tin thông qua các hoạt động năng khiếu vẽ, thể dục và các môn học. 100% trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng về cảm xúc, giao tiếp, chung sống hòa bình, thân thiện, biết chia sẻ. 90% trẻ biết được các việc làm để bảo vệ sức khỏe, chăm sóc bản thân như: không ăn các thức ăn không rõ nguồn gốc, ăn chín uống sôi, không đi một mình nơi hoang vắng Hàng tháng có đánh giá kiểm tra chất lượng sau mỗi chủ đề đối với từng học sinh: + Mạnh dạn, tự tin: 90% + Kỹ năng hợp tác: 95%
- + Kỹ năng giao tiếp: 88% + Kỹ năng tự lập, tự phục vụ: 85% + Lễ phép: 100% + Kỹ năng vệ sinh: 95% + Kỹ năng thích khám phá, học hỏi: 85% + Kỹ năng tự kiểm soát bản thân: 90% Ở lớp các em biết đoàn kết, giúp đỡ bạn yếu hơn trong nhóm mình, biết phân công nhau lao động, vệ sinh, chăm sóc bồn hoa lớp mình xanh tốt, chia sẻ, giúp đỡ bạn khó khăn hơn. Đặc biệt là các em biết đoàn kết, hỗ trợ nhau khi tôi quan sát các em tham gia các trò chơi hay các hoạt động, biết kiềm chế bản thân trong khi xử lý các tình huống với bạn bè, điều mà bản thân tôi cũng như nhiều phụ huynh rất mong muốn. Các em cởi mở, thân thiện, gần gũi với tôi hơn, đã chủ động nói rõ những vướng mắc của mình và tìm sự hỗ trợ, giúp đỡ. Điều đó làm tôi rất hài lòng. Các em cũng rất có trách nhiệm trong việc làm của mình. Nếu một bạn nào trong lớp, trong trường có những hành vi chưa tốt như vứt rác, hái hoa, bẻ cành hay nói tục mà chưa tự nhận trách nhiệm cho bản thân thì các em đã thắc mắc, kiến nghị, yêu cầu bạn đó phải tự nhận lỗi của mình và hứa sửa chữa. Ý thức bảo vệ của công, biết trang trí và lớp học, trường học thân thiện, chăm đọc sách và tham gia giao lưu các hội thi do Đội, nhà trường tổ chức và đều đạt kết quả cao. (Giải nhất hội thi Trạng nguyên nhỏ tuổi) 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Để giáo dục kỹ năng sống cho học sinh thì người giáo viên giữ một vai trò rất quan trọng, nhất là giáo viên trực tiếp giảng dạy và chủ nhiệm. Từ nghiên cứu lý luận và thực tiễn áp dụng, đề xuất và thể nghiệm, đề tài có ý nghĩa, tác dụng thiết thực trong việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh góp phần nâng cao chất lượng giáo dục trong trường Tiểu học. Ý nghĩa của đề tài còn thể hiện ở các giải pháp và bài học sư phạm như sau: 1. Giáo dục kĩ năng sống thông qua các môn học: Tiếng Việt, Đạo đức, TNXH 2. Giáo dục kĩ năng sống thông qua dạy học theo tài liệu “Sống đẹp”. 3. Giáo dục kĩ năng sống thông qua hoạt động ngoài giờ lên lớp. 4. Giáo dục kĩ năng sông thông qua đổi mới phương pháp dạy học. 5. Phối kết hợp với phụ huynh trong việc giáo dục kỹ năng sống cho các em. 3.2. Kiến nghị, đề xuất:
- + Đối với giáo viên: - Để phù hợp với giai đoạn hiện nay tôi nghĩ mỗi giáo viên tự mình cần đổi mới nội dung, phương pháp dạy học. - Cần nắm vững phương pháp, nghệ thuật sư phạm, hiểu được đặc điểm tâm lí, trình độ hiểu biết, vốn sống của học sinh tiểu học - Biết tổ chức quản lí việc học tập của học sinh nhằm hình thành tính tích cực, tự lập, tự giác hoàn thành nhiệm vụ. - Có kế hoạch cụ thể để phối kết hợp giữa gia đình với các hoạt động của trường tạo sự đồng bộ nhịp nhàng trong quá trình giáo dục học sinh. - Tạo cơ hội cho trẻ có nói, suy nghĩ, thể hiện nhu cầu, bộc lộ cảm xúc Từ đó có biện pháp tạo mối quan hệ giữa gia đình – nhà trường - xã hội. - Kết hợp chặt chẽ với Ban giám hiệu nhà trường và giáo viên bộ môn. + Đối với nhà trường - TPT Đội: Nhà trường cần tăng cường tổ chức những buổi sinh hoạt ngoại khóa với nhiều hình thức phong phú lôi cuốn các em ham thích hoạt động. Tạo điều kiện cho các em đi tham quan các danh lam thắng cảnh, các di tích lịch sử