Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi Bru - Vân Kiều nói trọn câu

doc 13 trang binhlieuqn2 07/03/2022 6140
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi Bru - Vân Kiều nói trọn câu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_4_5_tuoi_bru.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 4-5 tuổi Bru - Vân Kiều nói trọn câu

  1. nhiên, những gì áp dụng thường xuyên sẽ trở nên tiến bộ rất nhiều. Người lớn là cha mẹ trẻ hay những người thân yêu gần gũi xung quanh trẻ, ai cũng mong muốn những con trẻ của mình tự bản thân khám phá và nhận thức được những điều mới lạ, hấp dẫn đang đổi mới hàng ngày, thậm chí từng giờ trong cuộc sống. Nhưng không phải đứa trẻ nào cũng đủ khả năng, tự tin lao vào khám phá, tìm hiểu môi trường xung quanh để mở rộng tầm nhìn. Để giúp trẻ làm được điều này, cốt lõi của vấn đề là: “Mạnh dạn, tự tin”. Vì có mạnh dạn tự tin, mới dễ dàng tiếp cận mọi người xung quanh để quen biết và tìm kiếm thông tin. Việt Nam là một đất nước có nhiều dân tộc và có nền văn hóa đa dạng. Một số dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu vùng xa, điều kiện kinh tế khó khăn ít có cơ hội giao lưu, tiếp xúc, hòa nhập cộng đồng và chỉ sử dụng ngôn ngữ của dân tộc mình. Trong thực tế cho thấy phần lớn trẻ em dân tộc thiểu số trước khi tới trường lớp mầm non đều sống trong môi trường tiếng mẹ đẻ, ít có môi trường giao tiếp tiếng Việt, đến trường trẻ vẫn thích giao tiếp với nhau bằng tiếng mẹ đẻ, thậm trí trong hoạt động vui chơi, học tập hàng ngày, do đó trẻ dân tộc thiểu số vẫn còn nhút nhát chưa mạnh dạn tự tin trong khi giao tiếp với bạn bè người Kinh. Tuy nhiên, ngôn ngữ chính thức được sử dụng trong nhà trường lại là tiếng Việt và chính điều này đã tạo ra rào cản ngôn ngữ cho nhiều trẻ em dân tộc thiểu số khi đến trường, làm các cháu không thể tham gia một cách tích cực và tự tin vào chính bản thân mình. Đây cũng là một trong những nguyên nhân khiến những người làm cô giáo như chúng ta phải suy tư, trăn trở. Dạy trẻ nói trọn câu có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao chất lượng chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non nói chung và trẻ mẫu giáo nhỡ nói riêng. Song thực tế trẻ còn nhiều hạn chế trong việc giao tiếp, chưa mạnh dạn, tự tin khi trò chuyện với cô giáo, với mọi người xung quanh. Đặc biệt đối với trẻ đơn vị tôi đang công tác chủ yếu là dân tộc Vân Kiều, nên về mặt ngôn ngữ tiếng Việt trẻ nói chưa thành thạo. Khi trả lời trẻ thường nói cộc lốc, nói sai trật tự câu, nói lặp ý, nói câu không đầy đủ thành phần ngữ pháp. Đây thực sự là một khó khăn lớn đối với trẻ khi chuẩn bị bước vào lớp mẫu giáo lớn và cũng là trở ngại không nhỏ đối với giáo viên mầm non trong quá trình chăm sóc, giáo dục trẻ. Dạy trẻ Bru Vân Kiều mạnh dạn trong giao tiếp và diễn đạt mạch lạc, trọn câu là nhiệm vụ hàng đầu của đội ngũ cán bộ, giáo viên nói chung và giáo viên mầm non dạy vùng sâu, vùng xa nói riêng. Mục đích là giúp trẻ giao tiếp, phát triển tư duy, nhận thức, nâng cao khả năng hòa nhập cộng đồng, cùng sống trong mái nhà chung Việt Nam. Vậy làm thế nào để giúp trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong giao tiếp đặc biệt là trẻ Bru Vân Kiều trong trường mầm non? Với lòng yêu nghề, mến trẻ và niềm đam mê công việc, tôi luôn trăn trở, suy nghĩ để tìm ra những phương pháp giúp trẻ tự tin về ngôn ngữ trong giao tiếp. Sau một thời gian tìm tòi, nghiên cứu và thử nghiệm, tôi xin chia sẽ với đồng nghiệp của mình đề tài: "Một số biện pháp dạy trẻ 4 - 5 tuổi dân tộc Bru - Vân Kiều nói trọn câu." 4
  2. 2. Điểm mới của đề tài: Thực hiện đề tài này tôi đã thực hiện một số biện pháp: Xây dựng kế hoạch và thực hiện kế hoạch. Tham gia bồi dưỡng chuyên môn. Dự giờ học hỏi kinh nghiệm từ đồng nghiệp. Tổ chức dạy Tiếng Việt cho trẻ dưới mọi hình thức và mọi lúc mọi nơi. Đề tài nhằm giải quyết tình trạng hạn chế về kỹ năng phát âm tiếng Việt của trẻ, góp phần nâng cao chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. 3. Phạm vi áp dụng đề tài sáng kiến: Đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 4- 5 tuổi Bru - Vân Kiều nói trọn câu” có thể áp dụng cho giáo viên đang công tác tại các trường mầm non vùng đặc biệt khó khăn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa và có thể áp dụng cho các đơn vị trong địa bàn toàn huyện và tỉnh. Đây là đề tài thuộc lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, tình cảm kĩ năng xã hội cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi . * Đề tài này được kết cấu theo những nội dung chính sau đây: Phần I. Phần mở đầu. Phần II. Nội dung. Phần III. Kết luận. Tuy nhiên, đề tài này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót, rất mong quý đọc giả, bạn bè, đồng nghiệp và các đồng chí cán bộ quản lý, lãnh đạo ngành góp ý, giúp đỡ để đề tài được hoàn thiện hơn. Phần II NỘI DUNG 2.1. Thực trạng của vấn đề mà đề tài, sáng kiến, giải pháp cần giải quyết: Năm học 2014 - 2015, được sự phân công của Ban giám hiệu Nhà trường, tôi phụ trách lớp ghép ở hai độ tuổi ddos là trẻ 4 tuổi và 3 tuồi (trẻ sinh năm 2011, 2012), với tổng số 27 cháu, trong đó có 16 trẻ độ tuổi mẫu giáo nhở và 11 trẻ độ tuổi mẫu giáo bé. Qua một thời gian giảng dạy, bản thân tôi gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: a. Thuận lợi Bản thân có nhiều năm trực tiếp công tác dạy học ở trường mầm non, tích cực tham gia các lớp đào tạo nên trình độ chuyên môn đạt trên chuẩn (Đại học sư phạm mầm non), năng lực sư phạm vững vàng, có nhiều kinh nghiệm trong giảng dạy. Phụ huynh đã thực sự quan tâm đến việc học hành của trẻ nên đã đưa - đón trẻ đến lớp chuyên cần, đều đặn. 5
  3. Nhà trường đã tạo mọi điều kiện tốt về cơ sở vật chất, trang thiết bị dạy học như: Máy chiếu, ti vi, đầu đĩa, bàn ghế, đồ chơi ngoài trời phù hợp với trẻ Năm học 2014 - 2015 tôi được phân công dạy lớp ghép ở hai độ tuổi (3 tuổi và 4 tuổi), với tổng số cháu là 27 cháu, trong đó có 16 trẻ độ tuổi mẫu giáo nhở và 11 trẻ độ tuổi mẫu giáo bé. Có 8 trẻ dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ: 42%; 11 trẻ dân tộc Vân Kiều chiếm tỷ lệ 57,89%. Đây là điều kiện thuận lợi để trẻ dân tộc Vân Kiều có điều kiện học hỏi, giao tiếp với trẻ người Kinh từ đó giúp trẻ hiểu và biết sử dụng tiếng Việt trong giao tiếp. b. Khó khăn: Cháu ở độ tuổi mẫu giáo nhỡ khả năng nhận thức cũng như ngôn ngữ của trẻ phát triển không đồng đều, có nhiều cháu còn nói ngọng, nói chớt, đa số trẻ chưa mạnh dạn, tự tin; khi trả lời câu còn cộc lốc. Đa số phụ huynh ở đây đều thuộc đồng bào dân tộc Vân Kiều nên việc nhận thức, nuôi dạy trẻ một cách khoa học còn nhiều hạn chế, đặc biệt là việc dạy trẻ nói trọn câu. Thậm chí một số phụ huynh đang còn mắc lỗi nói cộc lốc và không đúng ngữ pháp như vậy dễ làm người khác nghe sẽ hiểu sai nghĩa. Qua đây, chứng tỏ trẻ cũng bị ảnh hưởng bởi cách phát âm về cấu trúc ngữ câu của cha, mẹ và người lớn. Có một số bà mẹ người Kinh thường hay nói chớt theo giọng nũng nịu của con mình. Vào đầu năm, tôi đã tiến hành khảo sát các cháu để nắm tình hình và có kế hoạch giáo dục. Kết quả như sau: (cần lập bảng điều tra thực tiễn). - 25% trẻ hứng thú trả lời câu hỏi của cô và trả lời trọn câu. - 35% trẻ chưa mạnh dạn, tự tin khi trả lời, trả lời chưa trọn câu. - 40% trẻ còn nói chớt, nói ngoọng và có một số trẻ chưa chịu nói mà chỉ dùng cử chỉ, hành động để thể hiện cái mà trẻ mong muốn như gật đầu hoặc khóc. Mặc dù còn nhiều khó khăn song với lòng yêu nghề, mến trẻ, tôi đã tìm ra một số biện pháp để dạy trẻ nói trọn câu. 2.2. Một số biện pháp giúp trẻ 4- 5 tuổi Bru - Vân Kiều nói trọn câu a. Biện pháp 1: Xây dựng mẫu câu: Để dạy trẻ nói trọn câu, nói đúng ngữ pháp và diễn đạt mạch lạc, cô giáo cần thường xuyên trò chuyện với trẻ để việc phát triển ngôn ngữ của trẻ phát triển hơn. Việc học câu không giống như học từ, học từ yêu cầu các cháu phải nhớ từ để khi cần mang ra sử dụng, còn học câu thì không thể. Để trẻ nói trọn câu, đúng ngữ pháp, cô giáo phải giúp trẻ rút ra được các mô hình câu khi giao tiếp với người lớn. Ví dụ: Khi cô giáo hỏi: "Sáng nay con ăn gì?" Trẻ trả lời: "Sáng nay con ăn cháo." TN CN VN BN Như vậy, mô hình câu khái quát là: trạng ngữ - chủ ngữ - vị ngữ - bổ ngữ. 6
  4. Theo cách này, dần dần cho trẻ làm quen với các mô hình câu khác nhau từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Trong quá trình cho trẻ làm quen với tác phẩm văn học, chúng ta có thể dạy trẻ nói trọn câu thông qua mô hình các câu hỏi và câu văn trong truyện: Ví dụ: Cô hỏi trẻ: "bạn Thỏ và Gà Trống tốt bụng còn Cáo thì sao?" Trẻ trả lời: "Bạn Thỏ và Gà Trống tốt bụng, Cáo gian ác." CN VN CN VN Như vậy, trong quá trình giao tiếp hàng ngày với trẻ, với những câu hỏi vì sao, để làm gì, cô giáo đã dạy cho trẻ nói trọn câu, nói đúng ngữ pháp và mạch lạc. b. Biện pháp 2: Sửa lỗi về ngôn ngữ cho trẻ: * Về từ loại: Trẻ thường sử dụng sai các tính từ chỉ màu sắc. Với kiểu sai này, giáo viên cần cung cấp các khái niệm đúng và yêu cầu trẻ nhắc lại nhiều lần. * Lỗi về câu: + Câu rút gọn: Trẻ thường mắc lỗi nói câu rút gọn, đây là hiện tượng phổ biến trong ngôn ngữ của trẻ ở tất cả các lứa tuổi. Câu rút gọn của trẻ có thể là rút gọn một thành phần hoặc rút gọn nhiều thành phần như: Vị ngữ, chủ ngữ, bổ ngữ. Ví dụ: Cô hỏi: "Vịt Xám đi chơi bị làm sao?" Trẻ trả lời: " Bị lạc đường." (Rút gọn chủ ngữ) Câu rút gọn không có khả năng truyền đạt thông tin rộng rãi, nhất là đối với trẻ đang trong quá trình học nói trọn câu, hạn chế câu rút gọn sẽ làm cho trẻ nắm được cơ cấu, nội dung của câu nhanh hơn. + Câu sai trật tự từ: Ví dụ: Hai trẻ có xích mích với nhau dẫn đến một bạn khóc và chạy đến thưa cô: "Cô ơi! đập Khánh cháu" Trong tiếng Việt, trật tự từ có ý nghĩa ngữ pháp rất lớn, nó quy định các thành phần câu. Song trong một số trường hợp do chưa nắm được ngữ pháp nên trẻ nói sai trật tự câu, những gì trẻ muốn nhấn mạnh thì trẻ nói trước, trong những trường hợp như vậy, cô giáo cần nói lại câu cho đúng và yêu cầu trẻ nhắc lại. Bạn Khánh đánh cháu. + Câu lặp ý, không mạch lạc: Những câu nói không mạch lạc thể hiện điều trẻ nhận thức được và muốn nói những trẻ chưa biết sắp xếp, lựa chọn từ thích hợp, do đó câu nói của trẻ bị lộn xộn, không rõ ràng. Từ các câu nói chưa đúng của trẻ, chúng ta thấy rõ những khó khăn mà trẻ gặp phải trong giai đoạn này khi trẻ tiếp thu và sử dụng từ cũng như các loại câu. 7
  5. Vì vậy, chúng ta cần giúp trẻ biết cách diễn đạt ý mình rõ ràng, mạch lạc, biết diễn đạt thông tin rõ ràng, sử dụng đúng từ, đúng cấu trúc ngữ pháp. c. Biện pháp 3: Dạy trẻ nói trọn câu trên các tiết học: Ở trên tiết học là điều kiện thuận lợi để trả lời các câu hỏi về kiến thức mà cô giáo cung cấp cho trẻ một cách lưu loát, mạch lạc và trọn câu. Bởi vậy, cô giáo cần nghiên cứu để xây dựng hệ thống các câu hỏi cho các bài học một cách đơn giản, dể hiểu và phù hợp với đặc điểm ngôn ngữ lứa tuổi. Khi hỏi, cô giáo phải tạo ra không khí thật sự nhẹ nhàng, thoải mái và tự nhiên, phù hợp với khả năng của trẻ. Nếu trẻ trả lời chưa đúng, cô giúp trẻ bằng cách cô gọi những trẻ giỏi trả lời giúp bạn, sau đó cho trẻ đó nhắc lại nhiều lần. Ví dụ: Khi dạy bài thơ: "Đi bừa", cô hỏi: " Mẹ dắt trâu đen đi đâu?". Trẻ trả lời: "đi bừa" thì cô nhắc trẻ trả lời lại trọn câu: "Mẹ dắt trâu đen đi bừa". Sau các tiết học, tôi ghi vào nhật ký những trẻ nói còn hạn chế để có kế hoạch bồi dưỡng trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. d. Biện pháp 4: Dạy trẻ nói trọn câu ở mọi lúc, mọi nơi: Trẻ lứa tuổi mãu giáo nhỡ trí nhớ của trẻ dễ nhớ nhưng cũng dễ quên, vì vậy cô giáo cần phải thường xuyên ôn luyện cho trẻ vào các thời điểm thích hợp trong ngày, ở mọi lúc, mọi nơi để rèn luyện cho trẻ có thói quen nói và trả lời trọn câu. * Lúc đón và trả trẻ: Tôi thường xuyên cùng trò chuyện với trẻ, đặt ra một vài câu hỏi để trẻ trả lời. Tuy nhiên, khi trò chuyện với trẻ, tôi đã tạo không khí thoải mái như vừa buộc tóc, vuốt ve, cắt móng tay hoặc khen ngợi trẻ có áo quần mới để trẻ tự nhiên nói chuyện, mạnh dạn, tự tin thể hiện cảm xúc, suy nghĩ của mình. Bên cạnh đó, tôi cũng thường xuyên trò chuyện với trẻ về chủ đề, chủ điểm đang học để trẻ dễ dàng nhớ lại bài cũ và tiếp thu kiến thức mới giúp trẻ phát triển ngôn ngữ hơn. Ví dụ: Trong chủ điểm Thế giới thực vật tôi đặt ra những câu hỏi: “Ở nhà con trồng những cây gì?”; “ Những cây đó có ích lợi gì?” Ngoài ra, tôi thường kể chuyện, đọc thơ, ca dao, đồng dao, tục ngữ cho trẻ nghe. Qua giọng đọc, giọng kể của cô giáo, trẻ có thể cảm nhận và nhận biết được ngữ điệu, giọng điệu, âm điệu, vần điệu của ngôn ngữ nghệ thuật, từ đó trẻ dần dần học được cách sử dụng từ ngữ sao cho thật mạch lạc để nói trọn câu và nói đúng cấu trúc ngữ pháp. Hay nói cách khác trẻ vừa học vừa bắt chước theo cô. Ví dụ: Tôi hỏi: "Hôm qua cô đã dạy cho các con bài thơ gì?" Trẻ trả lời: "Cây bàng" Như vậy, tôi phải hỏi lại: "Ai được học bài thơ cây bàng?" để trẻ trả lời trọn câu: "Hôm qua, con học bài thơ cây bàng". Sau đó, tôi có thể đọc diễn cảm lại bài thơ cho trẻ nghe. Tôi cũng có thể hướng dẫn trẻ đọc thơ bằng các hình thức: 8
  6. Đọc theo các tác phẩm văn học nhằm cho trẻ làm quen và bắt chước cách diễn đạt mạch lạc, biểu cảm của ngôn ngữ nghệ thuật. Đọc theo tranh và theo đồ vật, đồ chơi: Trên cơ sở những tranh vẽ và đồ vật, đồ chơi. Trước khi đọc mẫu, tôi cho trẻ quan sát đặc điểm của đồ vật, đồ chơi Khi đọc mẫu cho trẻ nghe phải rõ ràng, chính xác theo trình tự lôgíc để trẻ nắm được nội dung và cách đọc. Ví dụ: Tôi cho trẻ xem các tranh vẽ về các nhân vật: "Mẹ, bé, cánh đồng” trong bài thơ “Đi bừa”. * Khi dạo chơi, tham quan trường mầm non, tôi cho trẻ quan sát lớp mẫu giáo lớn, cho trẻ biết sau kỳ nghỉ hè thì trẻ sẽ được học lớp mẫu giáo lớn. Tôi sẽ giới thiệu cho trẻ biết ở trường mầm non trẻ sẽ gặp cô giáo mới, có nhiều bạn mới, được học nhiều câu chuyện dài hơn * Trong các giờ chơi tập: Tôi hướng cho trẻ xem sách, tranh ảnh về trường mầm non và đặt ra những câu hỏi đơn giản để trẻ trả lời. * Trong khi đợi đến giờ ăn cơm, tôi đặt ra một vài câu hỏi như: "Hôm nay, cô cấp dưỡng nấu món gì cho các con ăn?"; "Trước khi ăn các con phải làm gì?" để giúp trẻ nói trọn câu, nói lưu loát. d. Biện pháp 5: Tìm hiểu về đặc điểm tâm sinh lý của trẻ: Đặc điểm tâm sinh lý của trẻ phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố khác nhau và nhìn chung tâm sinh lý của trẻ rất đa dạng. Ở cùng một độ tuổi, có trẻ phát triển tốt song cũng có trẻ phát triển chậm; có trẻ thì mạnh dạn, tự tin trò chuyện cùng cô ở mọi lúc, mọi nơi, tích cực và thích thú trả lời các câu hỏi của cô và trả lời trọn vẹn, lưu loát; có trẻ thì ngược lại: rụt rè, nhút nhát, trả lời cộc lốc, câu nói sai trật tự ngữ pháp. Vì vậy, cô giáo cần phải tìm hiểu và nắm rõ đặc điểm tâm sinh lý của trẻ, phân nhóm trẻ theo trình độ nhận thức để có kế hoạch giáo dục thích hợp. * Đối với trẻ Khá - Tốt: Tôi dành những câu hỏi khó hơn, đòi hỏi trẻ phải tư duy, suy luận khi trả lời và phải biết diễn đạt thật mạch lạc, biểu cảm suy nghĩ của mình. Tôi thường dùng câu hỏi: Vì sao?, Tại sao? Hoặc câu hỏi giúp trẻ tự suy nghĩ, liên hệ bản thân để trả lời. Ví dụ: Khi dạy chuyện: "Thỏ con không vâng lời", tôi hỏi: "Thỏ con không vâng lời mẹ nên bị lạc đường về nhà, thế còn các con thì sao?". * Đối với trẻ Trung bình - Yếu: Tôi hỏi trẻ những câu hỏi ngắn gọn, dễ hiểu và đặc biệt cần có những câu hỏi gợi mở để giúp trẻ trả lời trọn vẹn, lưu loát. Ví dụ: Dạy chuyện: "Thỏ con không vâng lời", tôi hỏi trẻ: "Qua câu chuyện, các con thấy bạn Thỏ có ngoan không?"; "Vì sao bạn Thỏ không ngoan?"; "Các con có nên học tập tấm gương của bạn Thỏ không?" Từ đó hướng trẻ rút ra bài học giáo dục. 9
  7. h. Biện pháp 6: Kịp thời khen ngợi, động viên trẻ: Trẻ ở lứa tuổi này thích được khen ngợi, động viên, khuyến khích của cô giáo, người lớn nên tôi rất chú trọng đến việc khen ngợi trẻ kịp thời để trẻ nói trọn câu. Nếu trẻ trả lời chưa đúng, tôi động viên trẻ: "Con trả lời gần đúng rồi!", tuyệt đối không nên chê bai trẻ. Đối với những trẻ trả lời đúng, mạch lạc, trọn câu, tôi kịp thời khen ngợi, khích lệ trẻ. Ngoài ra, tôi còn tổ chức cho trẻ cắm hoa bé ngoan sau các tiết học, các giờ hoạt động. Nhờ vậy mà trong các giờ học, trẻ tích cực hứng thú tham gia hoạt động và trả lời trọn câu các câu hỏi của cô. Biện pháp 7: Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh: Phụ huynh là cầu nối giữa gia đình và Nhà trường để hoàn thành tốt mục tiêu giáo dục mầm non. Để thực hiện tốt sự phối hợp đó, ngay từ đầu năm, tôi đã mạnh dạn chia sẽ suy nghĩ với phụ huynh về tầm quan trọng của việc chăm sóc, giáo dục trẻ mầm non, trong đó có nội dung dạy trẻ nói trọn câu. Để từ đó, phụ huynh có nhận thức đúng đắn và xác định vai trò của mình trong việc chăm sóc, giáo dục trẻ, đặc biệt là phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Trong những giờ đón và trả trẻ, tôi trực tiếp trao đổi với phụ huynh và đưa ra một vài ví dụ cho phụ huynh tham khảo để dạy trẻ nói trọn câu ở nhà cho thật hiệu quả. Động viên phụ huynh đặt nhiều câu hỏi cho trẻ trả lời và khuyến khích trẻ trả lời trọn câu. Tuyệt đối không nhại theo những từ mà trẻ đã phát âm sai, hoặc âu yếm vỗ về trẻ bằng cách nói nậng với trẻ. Đồng thời tôi đã viết những bài thơ, mẫu chuyện hoặc cắt các hình tam giác, hình vuông, hình tròn, hình chữ nhật đưa cho phụ huynh rồi hướng dẫn phụ huynh về nhà kèm cho trẻ đọc thuộc ở nhà. Qua đó tích hợp được nhiều vốn từ cho trẻ, giúp trẻ trả lời trọn câu. Đối với những trẻ còn nhút nhát, nói chớt, nói ngoọng, tôi có kế hoạch gặp gỡ, trao đổi với phụ huynh nhiều hơn để giúp trẻ tiến bộ, đồng thời cũng thường xuyên trò chuyện với trẻ trong các giờ đón và trả trẻ, các HĐNT, HĐC 2.3. Kết quả đạt được: Nhờ biết chọn lọc và sử dụng các biện pháp trên một cách linh hoạt và sáng tạo nên chỉ mới thực hiện trong một học kỳ, lớp tôi đã đạt được kết quả như sau: 100% trẻ tích cực, hứng thú tham gia vào các hoạt động học tập, vui chơi, đặc biệt thích trả lời các câu hỏi mà tôi đưa ra. 93% trẻ mạnh dạn, tự tin, gần gủi trò chuyện với cô giáo và người lớn. 90% trẻ biết trả lời trọn câu, trả lời các câu hỏi một cách trôi chảy, mạch lạc. Bản thân tôi có thêm một số kinh nghiệm chăm sóc, giáo dục trẻ. Xác định được kiến thức, kỹ năng của các bài học để truyền thụ cho trẻ phù hợp. Phụ huynh học sinh đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc nói trọn câu đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ và đã biết cách dạy trẻ nói trọn câu ở nhà. 10
  8. Phần III KẾT LUẬN Giáo viên là lượng nồng cốt quyết định chất lượng chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục trẻ. Các cháu mầm non được chăm sóc, giáo dục chu đáo là cơ sở để hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ; làm tiền đề, nền móng vững chắc cho trẻ học phổ thông. Đảng, Nhà nước giao cho chúng ta trọng trách vinh quang, rất đổi tự hào và trách nhiệm lớn lao, đó là nhiệm vụ “Trồng người”. Bác Hồ nói: “ Vì lợi ích mười năm ta phải trồng cây, Vì lợi ích trăm năm ta phải trồng người” Sự nghiệp “Trồng người” đối với trẻ em vùng thuận lợi đã rất khó khăn, vất vả song đối với trẻ em người dân tộc thiểu số lại càng khó khăn vất vả hơn. Làm sao cho trẻ phát triển đúng yêu cầu của nền giáo dục nước nhà đó là mục tiêu, trách nhiệm cao cả của mỗi một người giáo viên. Thấm nhuần lời dạy của Người, giáo viên mầm non phải ra sức thi đua dạy tốt, học tốt, đem hết sức lực, tâm huyết, trí tuệ của mình cống hiến cho sự nghiệp “Trồng người” của đất nước. “Tăng cường dạy Tiếng Việt” cho trẻ là góp phần thực hiện “lời dạy của Người”. Dạy Tiếng Việt cho trẻ bao gồm các nội dung: Dạy cho trẻ nghe Tiếng Việt một cách đầy đủ, chính xác, hiểu Tiếng Việt là hiểu được ý nghĩa câu nói, câu hỏi, câu trả lời; nói Tiếng Việt một cách thành thạo là nói đúng từ, đúng câu, đúng âm điệu, ngữ điệu, nhịp điệu, thanh điệu và làm quen với việc đọc, viết Tiếng Việt Các nội dung trên có mối quan hệ đặc biệt với nhau nếu nghe đúng thì nói đúng và hiểu đúng ý nghĩa câu nói, ngược lại nếu nghe sai thì không hiểu được ý nghĩa câu nói và nói không đúng. Để thực hiện tốt các nội dung trên thì phải thực hiện đồng thời, thường xuyên và liên tục, kết hợp hài hòa giữa Nhà trường- Gia đình - Xã hội. Việc dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt có ý nghĩa nhân văn sâu sắc nhằm hình thành và phát triển toàn diện về thể chất, nhận thức, tình cảm và quan hệ xã hội. Đồng thời góp phần vào việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc, tinh hoa nhân loại; đóng góp vào công cuộc đổi mới đất nước, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước mà Đảng ta đã và đang khởi xướng. Dạy trẻ sử dụng thành thạo Tiếng Việt thông qua biện pháp dạy trẻ nói Tiếng Việt đúng quy định, nghe và hiểu được nội dung lời nói, làm quen với việc đọc, viết và sử dụng chúng trong giao tiếp, ứng xử hàng ngày làm tiền đề nền tảng cho việc phát triển tư duy, nhận thức và hoàn thiện nhân cách con người giúp cho các cháu trẻ em người dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Vân Kiều nói riêng vươn lêm làm chủ đất nước, làm chủ cuộc đời. Sử dụng đúng Tiếng Việt ngay từ tuổi mầm non là cơ sở để giúp trẻ sau này lớn lên có điều kiện mở rộng môi trường giao tiếp, giao lưu với các bạn bè các 11
  9. vùng miền trên quê hương, đất nước, trong cộng đồng dân cư, trong mái nhà chung Việt Nam. Để dạy Tiếng Việt cho trẻ có kết quả, giáo viên mầm non cần vận dụng linh hoạt sáng tạo kiến thức khoa học nuôi dạy trẻ với kỹ năng và thực tiễn công việc. Phối hợp hài hòa giữa giáo dục Nhà trường-Gia đình-Xã hội. Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển nhân cách cho trẻ nên việc dạy trẻ nói trọn câu là một nhiệm vụ quan trọng của giáo dục học mầm non. Dạy trẻ nói trọn câu giúp trẻ có khả năng diễn đạt suy nghĩ, thể hiện cảm xúc của mình một cách trôi chảy, mạch lạc, biểu cảm. Giáo viên mầm non là người đóng vai trò quan trọng trong việc dạy trẻ nói trọn câu. Do đó, bản thân tôi không ngừng học tập, tham gia các buổi sinh hoạt chuyên môn liên trường đầy đủ nhằm tích lũy kinh nghiệm cho bản thân. Ngoài ra, tôi luôn nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của mỗi trẻ, luôn tạo sự say mê, hứng thú ở trẻ để trẻ tích cực tham gia học tập, vui chơi, tạo ra hiệu quả tốt trong việc dạy trẻ nói trọn câu, nói mạch lạc, đúng ngữ pháp. Do đặc thù trẻ ở đơn vị tôi đang công tác phần đông là trẻ dân tộc Vân Kiều khả năng sử dụng Tiếng Việt của trẻ rất hạn chế, nên tôi luôn tìm hiểu về phong tục, tập quán của người dân nơi đây để có biện pháp tăng cường dạy tiếng Việt cho trẻ. Bản thân tôi là giáo viên mầm non nên phải luôn gương mẫu trong tác phong, lời ăn, tiếng nói, cách ứng xữ, giao tiếp với đồng nghiệp, phụ huynh và trẻ. 2. Những kiến nghị, đề xuất: Đề nghị lãnh đạo ngành và cán bộ quản lý giáo dục mầm non tạo điều kiện để bản thân tôi được học tập thêm chị em đồng nghiệp, được giao lưu và đúc rút được nhiều kinh nghiệm góp phần nâng cao năng lực sư phạm và nâng cao hơn nữa chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Trên đây là một số kinh nghiệm của bản thân tôi trong việc dạy trẻ nói trọn câu mà tôi đã áp dụng khá thành công. Bên cạnh kết quả đã đặt được song sáng kiến kinh nghiệm này cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót kính mong sự đóng góp ý kiến giúp đỡ của đồng nghiệp, Hội đồng khoa học của Nhà trường và Hội đồng khoa học của ngành để cho bản Sáng kiến kinh nghiệm này được hoàn thiện hơn và có thể áp dụng rộng rãi không những trong trường, trong huyện mà còn được áp dụng trong các đơn vị mầm non của tỉnh nhà. Tôi xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HĐKH NHÀ TRƯỜNG NGƯỜI VIẾT (Chú ý: Phần thực trạng bổ sung thêm bảng điều tra thực tiễn); Phần kết quả: Lấy từ bảng điều tra thực tiễn sau đó có số lượng và tỷ lệ % cụ thể, không ghi chung chung như vậy. 12
  10. Dò lại lỗi chính tả cho đầy đủ, không được viết tắt, thể thức văn bản, in, mai đem lên trường ký, đóng dấu để nộp tại PGD. 13