Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Tin học
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Tin học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ung_dung_ban_do_tu_du.pdf
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học môn Tin học
- Kinh nghiệm của tôi có thể áp dụng rộng rãi đối với những đối tượng học sinh lớp ở mọi miền đất nước với mô hình dạy 2 buổi/ ngày hoặc các cấp học cao hơn. 3.3. Lợi ích thiết thực của sáng kiến Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. 4. Khẳng định giá trị kết quả đạt được của sáng kiến Sau một thời gian ứng dụng BĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Tin học ở ba khối lớp 3, 4 và 5 cho tất cả các đối tượng học sinh ở trường TH Ngọc Kỳ bước đầu có những kết quả khả quan. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài nhanh, hiệu quả. 5. Đề xuất kiến nghị - Đối với nhà trường: trong các buổi họp phụ huynh ban lãnh đạo nhà trường cũng như các thầy cô giáo chủ nhiệm động viên, khuyến khích phụ huynh trang bị cho con em mình một chiếc máy vi tính để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập. - Đối với PGD: nên nhân rộng các sáng kiến kinh nghiệm hay về các trường để giáo viên áp dụng và phát huy hiệu quả của các sáng kiến trong quá trình giảng dạy của mình. Thường xuyên mở những lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho giáo viên Tin học.
- MÔ TẢ SÁNG KIẾN 1. Hoàn cảnh này sinh sáng kiến Vậy Sơ đồ tư duy là gì? Tại sao GV nên áp dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Tin học? Sơ đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở giữa sơ đồ là ý tưởng trung tâm, từ ý tưởng này phát triển ra các nhánh tượng trưng cho những ý chính (nhánh chính). Các nhánh chính lại được phân thành những nhánh nhỏ để nghiên cứu chủ đề ở mức độ sâu hơn. Những nhánh nhỏ này lại tiếp tục được phân thành những nhánh nhỏ hơn. Sơ đồ tư duy giúp học sinh có được phương pháp học hiệu quả hơn. Nó giải tỏa nỗi lo lắng khi phải học thuộc lòng quá nhiều môn và không tài nào nhớ hết những gì đã viết trong sách vở, phương pháp bản đồ tư duy sẽ giúp các em học sinh sử dụng sức mạnh của não bộ để tư duy, ghi nhớ. Việc rèn luyện phương pháp học tập cho học sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là mục tiêu dạy học. Thực tế cho thấy một số học sinh học rất chăm chỉ nhưng vẫn học kém, các em thường học bài nào biết bài đấy, học phần sau đã quên phần trước và không biết liên kết các kiến thức với nhau, không biết vận dụng kiến thức đã học trước đó vào những phần sau. Phần lớn số học sinh khi đọc sách hoặc nghe giảng trên lớp không biết cách tự ghi chép để lưu thông tin, lưu kiến thức trọng tâm vào trí nhớ của mình. Một số kết quả nghiên cứu cho thấy bộ não của con người sẽ hiểu sâu, nhớ lâu và in đậm cái mà do chính mình tự suy nghĩ, tự viết, vẽ ra theo ngôn ngữ của mình. Sử dụng thành thạo bản đồ tư duy trong dạy học sẽ giúp học sinh có được phương pháp học, biết cách sắp xếp thông tin và ý tưởng một cách khoa học, hệ thống hơn; kích thích trí tưởng tượng, óc sáng tạo của các em. Các em sẽ học tập một cách tích cực, tăng tính độc lập, chủ động, sáng tạo và phát triển tư duy, huy động tối đa tiềm năng của bộ não. Vì vậy nó giúp các em ghi nhớ tốt hơn; Thay vì những gạch đầu dòng nhàm chán, ghi nhớ bằng một bản
- đồ với những hình ảnh và màu sắc sinh động sẽ giúp HS không còn kém tập trung, diễn đạt lủng củng hay nhớ trước quên sau nữa. 2. Cơ sở lý luận Môn Tin học ở bậc Tiểu học bước đầu giúp học sinh (HS) làm quen với một số kiến thức ban đầu về CNTT như: các bộ phận của máy tính, một số thuật ngữ máy tính thường dùng, các từ Tiếng Anh chuyên ngành Tin học, rèn một số kĩ năng sử dụng máy tính Trong quá trình giảng dạy, người thầy luôn phải đặt ra cái đích, đó là giúp HS nắm vững kiến thức cơ bản, hình thành phương pháp, kỹ năng, kỹ xảo, tạo thái độ và động cơ học tập đúng đắn để HS có khả năng tiếp cận và chiếm lĩnh những nội dung kiến thức mới theo xu thế của thời đại và giải quyết phù hợp các vấn đề nảy sinh. Tuy nhiên qua nghiên cứu cho thấy, nhiều học sinh chưa biết cách học, cách ghi kiến thức vào bộ não, mà chỉ học thuộc lòng, học vẹt, thuộc một cách máy móc, thuộc nhưng không nhớ được kiến thức trọng tâm, không nắm được “sự kiện nổi bật” trong tài liệu đó, hoặc không biết liên tưởng, liên kết các kiến thức có liên quan với nhau. Việc ghi nhớ của các em gần như tái hiện lại nguyên văn trong SGK làm cho việc học tập trở nên nhàm chán, máy móc, thụ động, không sáng tạo, khả năng phân tích, so sánh, tư duy vận dụng còn hạn chế. Để đa dạng hóa các hình thức dạy học, để khắc sâu kiến thức trong bộ não một cách lôgic mà lại phát huy được khả năng tiềm ẩn trong bộ não của HS, trong quá trình giảng dạy của mình, tôi thường hướng dẫn HS ghi nhớ bài học dưới dạng từ khóa và chuyển cách ghi bài truyền thống sang phương pháp ghi bài bằng bản đồ tư duy của Tony Buzan. Một trong những phương pháp dạy học mới và hiện đại nhất đang được rất nhiều nước trên thế giới áp dụng. Qua việc tìm hiểu và vận dụng phương pháp dạy học bằng bản đồ tư duy, tôi nhận thấy phương pháp dạy học này rất có hiệu quả trong công tác giảng dạy và học tập của học sinh. Phương pháp này là thực sự cần thiết nhằm giúp HS
- rút ngắn thời gian học, giúp các em dễ nhớ, nhớ lâu, dễ dàng hệ thống hoá kiến thức với lượng lớn, đồng thời phát triển tư duy cho các em. 3. Thực trạng của vấn đề * Tình hình học sinh - Hầu hết học sinh đều ngoan hiền, năng động. Vì được học trên các phương tiện trực quan sinh động nên học sinh rất hứng thú say sưa học tập. - Hầu hết các em đều đã tiếp xúc và làm quen với máy vi tính, đa số gia đình học sinh nào cũng có máy vi tính. * Những vấn đề nảy sinh cần giải quyết - Học sinh thờ ơ với Tin học: trong trường tiểu học, môn Tin học chỉ là môn tự chọn nên một số học sinh tỏ ra thờ ơ với môn Tin học. Các em còn phải dành thời gian học các môn khác. Phần lớn phụ huynh chỉ chú trọng cho con mình học tập các môn: Toán, Tiếng Việt, Anh văn. - Ý thức học tập của học sinh: hầu hết các em học sinh đều có suy nghĩ rằng học Tin học là được thực hành trên máy tính, mà thực hành trên máy tính là các em sẽ có cơ hội được chơi trò chơi. Nên thường tiết lí thuyết các em học rất thiếu tập trung, chỉ mong đến tiết thực hành. - Mục tiêu của môn Tin học trong trường Tiểu học là hình thành cho học sinh một số phẩm chất và năng lực cần thiết như: - Có hiểu biết ban đầu về Tin học và ứng dụng của Tin học trong đời sống và học tập. - Có khả năng sử dụng máy tính điện tử trong việc học những môn học khác, trong hoạt động, trong vui chơi giải trí nhằm nâng cao chất lượng giáo dục và tạo điều kiện để các em thích ứng với đời sống xã hội hiện đại. - Bồi dưỡng năng lực trí tuệ. - Thấy được vai trò của máy tính điện tử trong đời sống. - Rèn luyện một số phẩm chất của con người hiện đại: tính cẩn thận, tỷ mỉ, chính xác, thói quen tự kiểm tra Nhưng thực tế hiện nay cho thấy môn Tin học thường bị học sinh xem nhẹ. Bởi vậy muốn thu hút học sinh, chúng ta phải tích cực đổi mới phương
- pháp dạy Tin học, khơi dậy sự hứng thú của các em, hình thành cho các em phương pháp học hiệu quả nhất. 4. Các giải pháp, biện pháp thực hiện 4.1. Cách xây dựng BĐTD - Bắt đầu từ trung tâm với hình ảnh của chủ đề. Phải dùng hình ảnh để HS dễ liên tưởng, dễ nhớ và vẽ một vòng tròn xung quanh nó. Tạo cho trung tâm một hình ảnh rõ ràng miêu tả được nội dung tổng quát của toàn bộ SĐTD. - Khi bắt đầu đi từ những ý chính của chủ đề mà mình đã lựa chọn (hoặc những sự kiện hay thông tin quan trọng mà liên quan đến chủ đề) hãy vẽ những đường xuất phát từ vòng tròn chứa tiêu đề và đặt tên những đường thẳng phù hợp với ý chính đã chọn. - Mỗi ý quan trọng vẽ một đường phân nhánh xuất phát từ hình trung tâm và nối với một ý phụ. - Nên dùng các đường kẻ cong thay vì các đường thẳng vì đường cong thu hút được sự chú ý của mắt hơn rất nhiều các đường thẳng buồn tẻ. - Từ mỗi ý quan trọng, lại vẽ các phân nhánh mới các ý phụ bổ sung cho ý đó. - Từ các ý phụ này lại, mở ra các phân nhánh chi tiết cho mỗi ý. - Tiếp tục vẽ hình phân nhánh các ý cho đến khi đạt được giản đồ chi tiết nhất (hình rễ cây mà gốc chính là đề tài đang làm việc). - Luôn sử dụng màu sắc vì màu sắc cũng có tác dụng kích thích não như hình ảnh. 4.2. Các giải pháp Giải pháp 1: Dạy cho HS đọc và hiểu một SĐTD đơn giản Bởi vì thực tế cho thấy rằng rất nhiều HS cũng chưa biết SĐTD là cái gì, cấu trúc ra sao và vẽ như thế nào, vì thế đầu tiên tôi cho HS làm quen và giới thiệu về SĐTD cho HS. Tôi cũng đã giới thiệu cho HS về nguồn gốc, ý nghĩa hay tác dụng của việc sử dụng SĐTD trong học tập môn Tin học. Ví dụ
- Khi dạy về khu vực chính của bàn phím, tôi hiển thị SĐTD, và giới thiệu cho HS về SĐTD từ năm lớp 3. Giải pháp 2: Cho HS điền vào một mẫu SĐTD có sẵn Ví dụ Khi dạy bài “Người bạn mới của em” lớp 3, về các bộ phận quan trọng nhất của một máy tính để bàn tôi cho HS quan sát rồi điền vào SĐTD. Giải pháp 3: Dùng sơ đồ tư duy để kiểm tra kiến thức cũ Sử dụng sơ đồ tư duy giúp giáo viên kiểm tra được HS đã nhớ bài và hiểu bài như thế nào. Tuy nhiên tùy đối tượng HS mà Giáo viên có thể đưa ra một số SĐTD sau đó yêu cầu HS diễn giải, thuyết trình về nội dung của
- SĐTD theo cách hiểu riêng của mình hoặc là yêu cầu vẽ SĐTD. Với việc thực hiện bước này sẽ giúp HS bước đầu làm quen và hiểu về SĐTD. Ví dụ 1 Khi dạy bài “Những gì em đã biết” trong chương Em học nhạc, đối với lớp có đối tượng HS khá giỏi nhiều, tôi cho học sinh vẽ SĐTD để gợi nhớ về phần mềm Encore với thảo luận nhóm 4 để trả lời câu hỏi: “Em đã dùng phần mềm Encore để làm gì? ”. Sau khi có một nhóm học sinh vẽ xong bản đồ tư duy sẽ cho một nhóm khác nhận xét, bổ sung. Có thể cho học sinh vẽ thêm các đường, nhánh khác và ghi thêm các chú thích rồi thảo luận chung trước lớp để hoàn thiện, nâng cao kĩ năng vẽ cho các em. Giải pháp 4: Dùng sơ đồ tư duy để dạy bài mới Giáo viên đưa ra một từ khóa để nêu kiến thức của bài mới rồi yêu cầu học sinh vẽ sơ đồ tư duy bằng cách đặt câu hỏi, gợi ý cho các em để các em tìm ra các tự liên quan đến từ khoá đó và hoàn thiện SĐTD. Qua đó học sinh sẽ nắm được kiến thức bài học một cách dễ dàng. Ví dụ:
- Giải pháp 5: Dùng sơ đồ tư duy để củng cố kiến thức sau mỗi tiết học và hệ thống kiến thức sau mỗi chương. Sau mỗi bài học, giáo viên khuyến khích, hướng dẫn, gợi ý để học sinh tự hệ thống kiến thức trọng tâm, kiến thức cần nhớ của bài học hay tóm tắt lại bài học bằng cách vẽ sơ đồ tư duy. Mỗi bài học được vẽ kiến thức trên một trang giấy rồi kẹp lại thành tập. Việc làm này sẽ giúp các em dễ ôn tập, xem lại kiến thức khi cần một cách nhanh chóng, dễ dàng. Ví dụ: Khi học bài “ Những gì em đã biết” trong phần “Em học nhạc” cuối giờ GV cho từ khoá “Ôn nhạc lý” rồi yêu cầu học sinh vẽ SĐTD bằng cách đặt câu hỏi gợi ý cho các em, sau khi các nhóm HS vẽ xong, cho một số em lên trình bày trước lớp để các học sinh khác bổ sung ý. Giáo viên kết luận qua đó giúp các em tự chiếm lĩnh kiến thức một cách nhẹ nhàng, tự nhiên nhưng rất hiệu quả, đồng thời kích thích hứng thú học tập của học sinh.
- Ví dụ Khi học bài “Sử dụng phím Shift”, sau khi học xong cách gõ phím Shift, GV chốt lại tất cả các kiến thức về phím Shift như số lượng, vị trí, chức năng, cách gõ bằng SĐTD cho HS dễ ghi nhớ.
- Giải pháp 6: Dùng sơ đồ tư duy để giới thiệu một chương trình, hay một phần mềm bằng cách GV cho HS trả lời các câu hỏi để tìm cụm từ trung tâm chính là tên chương trinh hay phần mềm màí GV hướng tới. Ví dụ Khi dạy bài “Những gì em đã biết” trong chương “Em học nhạc” lớp 5, để HS gợi nhớ về một phần mềm mà các em đã học ở lớp 4, Gv sử dụng SĐTD thiết kế như là một trò chơi, sau khi HS trả lời được các câu hỏi ở nhánh chính. HS sẽ đoán được tên của phần mềm. Giải pháp 7: GV giúp HS sử dụng SĐTD để hỗ trợ học tập, phát triển tư duy lôgic - Học sinh có thể tự sử dụng SĐTD để hỗ trợ việc tự học ở nhà: Tìm hiểu trước bài mới, củng cố, ôn tập kiến thức bằng cách vẽ bản đồ tư duy trên giấy, bìa, hoặc để tư duy một vấn đề mới qua đó phát triển khả năng tư duy lôgic, củng cố khắc sâu kiến thức, kĩ năng ghi chép. - Các bản đồ tư duy thường được tôi sử dụng ở dạng thiếu thông tin, yêu cầu học sinh điền các thông tin còn thiếu và rút ra nhận xét về mối quan hệ của các nhánh thông tin với từ khóa trung tâm. Hoặc tôi cho HS tự điền vào một bản đồ có sẵn.
- - Học sinh cũng có thể trực tiếp làm việc với máy tính, sử dụng phần mềm iMindMap 5, phát triển khả năng ứng dụng công nghệ thông tin, sử dụng máy tính trong học tập.Sau mỗi chương tôi cho các nhóm HS tự tổng hợp kiến thức bằng cách vẽ sơ đồ tư duy rồi tổ chức thi trưng bày sản phẩm giữa các nhómvới giám khảo là các em HS trong lớp, sau đó thu thập lại làm tư liệu ôn tập sau này. 5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau một thời gian ứng dụng SĐTD trong đổi mới phương pháp dạy học môn Tin học ở ba khối lớp 3, 4 và 5 cho tất cả các đối tượng học sinh ở trường Tiểu học Ngọc Kỳ bước đầu có những kết quả khả quan. Đa số các em học sinh khá, giỏi đã biết sử dụng bản đồ tư duy để ghi chép bài, tổng hợp kiến thức môn học. Một số học sinh trung bình đã biết dùng bản đồ tư duy để củng cố kiến thức bài học ở mức đơn giản. Đối với môn Tin học, học sinh rất hào hứng trong việc ứng dụng sơ đồ tư duy để ghi chép bài nhanh, hiệu quả. Qua nghiên cứu lí luận và thực nghiệm dạy học ở môn Tin học cho thấy, sử dụng sơ đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được các em tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Với sản phẩm độc đáo “kiến thức với hội họa” là niềm vui sáng tạo của học sinh và cũng là niềm vui của chính thầy cô giáo khi chứng kiến thành quả lao động của học trò của mình. Cách học này còn phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ, hệ thống hóa kiến thức, khả năng hội họa, sự vận dụng kiến thức được học qua sách vở vào cuộc sống. Cụ thể: Sau khi kết thúc chương trình học kì I Tin học lớp 3, 4 và 5, tôi tiến hành kiểm tra học kì và tổng kết môn học. - Năm học 2017 - 2018 là năm học tôi thực hiện dạy học bằng phương pháp “sử dụng bản đồ tư duy” kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực theo đặc thù bộ môn.
- - Năm học 2016 - 2017 là năm học tôi chỉ dạy học bằng các phương pháp dạy học tích cực theo đặc thù bộ môn. - Kết quả cụ thể được thể hiện ở bảng số liệu sau : SL Điểm khá Điểm giỏi Khối Lớp Năm học học sinh SL % SL % 3 61 32 52,4 29 47,6 2016 - 2017 4 63 36 57,2 27 42,8 5 50 29 58 21 42 3 68 29 42,6 39 57,4 4 58 24 41,3 34 58,7 2017 - 2018 5 60 22 36,6 38 63,4 So sánh giữa kết quả dạy học giữa 2 năm thì kết quả của tôi thực hiện dạy học bằng phương pháp “sử dụng bản đồ tư duy” kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực theo đặc thù bộ môn, đã cao hơn về số lượng học sinh đạt điểm giỏi và khá. 6. Điều kiện để sáng kiến được nhân rộng Kinh nghiệm: “Một số biện pháp ứng dụng bản đồ tư duy vào dạy học ” của tôi có thể áp dụng rộng rãi đối với những đối tượng học sinh ở mọi miền đất nước với mô hình dạy 2 buổi/ ngày hoặc các mô hình khác với các điều kiện sau: 6.1. Đối với giáo viên - Giáo viên thực sự yêu nghề mến trẻ và tâm huyết với nghề. - Giáo viên cần chú ý xác định nhiệm vụ của từng nội dung dạy học, từng tiết học, từng bài tập để có kế hoạch tổ chức các hoạt động cho hợp lí. - Trong quá trình dạy bồi dưỡng giáo viên tăng cường rèn kỹ năng tự tìm tòi, phát hiện ra kiến thức mới dựa trên kiến thức trong sách phù hợp với từng môn học, tạo điều kiện cho các em tích cực tham gia nghiên cứu, học tập, phát huy khả năng sẵn có của học sinh.
- - Theo dõi và kiểm tra thường xuyên kết quả học tập của học sinh để kịp thời chỉnh sửa nội dung, phương pháp giảng dạy cho phù hợp. - Tích cực dự giờ, thăm lớp, học hỏi kinh nghiệm giảng dạy qua đồng nghiệp, sách báo để tự bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của bản thân. - Phải nắm chắc chuyên môn, nghiệp vụ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, không ngừng học hỏi, tích luỹ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm đúc rút kinh nghiệm hàng năm trong công tác giảng dạy. 6.2. Đối với học sinh - Cần có thái độ đúng đắn trong việc học tập phân môn Tin học. - Học sinh có đủ đồ dùng học tập phục vụ cho việc học tập được dễ dàng hơn. 6.3. Đối với cấp trên - Nhà trường cần tạo điều kiện về cơ sở, vật chất một cách đầy đủ như có đủ sách giáo khoa, sách giáo viên, tài liệu tham khảo và đồ dùng học tập. Đủ phòng học theo mô hình học 2 buổi/ ngày để giáo viên có nhiều thời gian giảng dạy và ôn tập cho các em. - Tăng cường công tác chuẩn hoá đội ngũ giáo viên trong các nhà trường. - Bố trí phòng học nơi thoáng mát, đủ điều kiện về ánh sáng, máy tính. 6.4. Đối với các bậc phụ huynh - Mua sắm đầy đủ sách vở cũng như đồ dùng học tập cho các em để các em có điều kiện học tập tốt.
- KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận - Bản đồ tư duy một công cụ có tính khả thi cao vì có thể vận dụng được với bất kì điều kiện cơ sở vật chất nào của các nhà trường hiện nay. Có thể thiết kế sơ đồ tư duy trên giấy, bìa, bảng phụ, bằng cách sử dụng bút chì màu, phấn, tẩy, hoặc cũng có thể thiết kế trên phần mềm bản đồ tư duy. - Việc vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học tin học ở trường tiểu học sẽ dần dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nhìn vấn đề một cách hệ thống, khoa học. Sử dụng sơ đồ tư duy kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực khác như vấn đáp gợi mở, thuyết trình, xem phim minh họa có tính khả thi cao góp phần đổi mới phương pháp dạy học. Qua qúa trình xây dựng, thực hiện, ứng dụng các biện pháp trong sáng kiến kinh nghiệm, tôi rút ra các bài học kinh nghiệm: Phải tìm tòi, sáng tạo cách dạy, cách học tạo sự hứng thú tiếp thu bài. Thiết kế bài dạy phù hợp với nhiều đối tượng học sinh. Bản đồ tư duy mang lại hiệu quả tốt cho quá trình Dạy – Học: - GV: Tiết kiệm thời gian, tăng tính linh hoạt. - HS: Học phương pháp học, tăng tính chủ động sáng tạo, phát triển tư duy. Thường xuyên thăm lớp, dự giờ, sinh hoạt cụm tin học, hội thảo phương pháp giảng dạy các bộ môn khác. Tích cực tham mưu với lãnh đạo nhà trường để tăng cường nâng cấp máy, trang thiết bị dạy học. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng bản đồ tư duy vào dạy tin học lớp 3, 4 và 5 đã mang lại một số kết quả như mong muốn, tuy nhiên đó chỉ là kinh nghiệm của riêng bản thân tôi. Rất mong sự đóng góp y kiến chân thành của quý thầy cô đồng nghiệp để tôi hoàn thiện hơn và việc áp dụng này đạt kết quả cao hơn nữa.
- 2. Khuyến nghị * Đối với nhà trường - Nhà trường nên củng cố lại hệ thống điện để một giờ học Tin học có hiệu quả nhất. - Thường xuyên sửa chữa, nâng cấp máy tính, mua bổ sung thay thế các máy hỏng, phấn đấu tối đa 2 học sinh/máy thì hiệu quả thực hành mới được nâng cao. - Tham mưu với cấp ủy, chính quyền địa phương, các cấp quản lý giáo dục để tăng cường hơn nữa các trang thiết bị hiện đại phục vụ cho giáo dục. - Trong các buổi họp phụ huynh ban lãnh đạo nhà trường cũng như các thầy cô giáo chủ nhiệm động viên, khuyến khích phụ huynh trang bị cho con em mình một chiếc máy vi tính để tạo điều kiện tốt nhất cho các em học tập. * Đối với các cấp quản lý giáo dục: - Nên nhân rộng các sáng kiến kinh nghiệm hay về các trường để giáo viên áp dụng và phát huy hiệu quả của các sáng kiến trong quá trình giảng dạy của mình. - Tham mưu với các cấp quản lý, tạo điều kiện thuận lợi về việc cấp bổ sung máy vi tính cho các trường trong huyện. - Thường xuyên mở những lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ để nâng cao trình độ cho giáo viên Tin học. Trên thực tế, việc ứng dụng sáng kiến này mới chỉ trong một phạm vi hẹp, vì thế cũng chưa thể đánh giá được toàn diện và chính xác nhất những ưu điểm và hạn chế của nó trong dạy học. Vì vậy, tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ cùng những lời góp ý chân thành từ các cấp lãnh đạo và các thầy cô giáo để sáng kiến ngày một hoàn thiện hơn. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã áp dụng vào dạy tin học khối 3, 4,5. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố khách quan và chủ quan và vẫn còn nhiều mặt hạn chế. Rất mong được sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để chuyên đề của tôi có hiệu quả hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn!