Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các bài toán mở cho học sinh Lớp 1

pdf 14 trang binhlieuqn2 03/03/2022 4622
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các bài toán mở cho học sinh Lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_d.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các bài toán mở cho học sinh Lớp 1

  1. đối nhiều, nhưng thực tế việc dạy và học các bài toán mở vẫn chưa đạt được kết quả cao. Bởi vì đối với lớp 1: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là nói chung học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán mở các em có thể nhẩm đúng phép tính của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi thực hành các bài toán mở. Một số em chưa biết tóm tắt bài toán, chưa biết phân tích đề toán để tìm ra đường lối giải, chưa biết tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán, học toán và giải toán một cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chước. Đây cũng là lý do mà chúng tôi chọn đề tài "Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các bài toán mở cho học sinh lớp 1" mong tìm ra những giải pháp nhằm góp phần nâng cao kĩ năng giải toán cho học sinh lớp 1 nói riêng và môn Toán 1 nói chung. Để từ đó, các em có thể thành thạo hơn với những bài toán mở khó và phức tạp ở các lớp trên. 1.1. Giải pháp cũ thường làm 1.1.1. Nội dung giải pháp Khi dạy và học các bài toán mở ở lớp 1 giáo viên thường thực hiện theo quy trình và theo các bước sau: Bước 1: Nêu yêu cầu của đề bài. Bước này yêu cầu học sinh phải đọc kĩ đề bài, nhớ những dũ kiện bài toán đã cho một cách chính xác và nắm vững yêu cầu của đề bài. Học sinh phải hiểu bài toán cho biết gì và bài toán yêu cầu gì. Trong quá trình này học sinh cần nhận ra bài toán đã cho thuộc dạng toán nào. Bước 2: Nêu bài toán phù hợp với tranh vẽ. Dựa vào việc nhận dạng tranh vẽ ở bước 1, hướng dẫn học sinh cách giải bắt đầu từ yêu cầu đề bài toán. 2
  2. Muốn giải đáp những yêu cầu của đề bài thì cần phải biết những gì? Những điều đó đề bài đã cho biết chưa? Nếu chưa biết thì tìm bằng cách nào, dựa vào đâu để tìm? Cứ lần lượt như vậy cho đến khi nào học sinh có thể tìm được cách giải đáp từ những dữ kiện cho sẵn trong đề bài. Bước 3: Viết phép tính phù hợp với bài toán. Bước 4: Kiểm tra kết quả - Nêu các bài toán tương tự . 1.1.2. Những ưu, nhược điểm của giải pháp cũ. Ưu điểm: + Giáo viên hướng dẫn học sinh biết nêu bài toán phù hợp với tranh vẽ + Học sinh viết được 1 đến 2 phép tính phù hợp với 1 đến 2 bài toán vừa nêu qua quan sát tranh vẽ. Nhược điểm: + Phương pháp dạy học của giáo viên còn nặng nề, chưa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí của học sinh tiểu học, chưa phát huy được tính chủ động tích cực của học sinh, mang tính giảng giải , thuyết trình nhiều. Điều đó thể hiện qua một số tình trạng sau: + Học sinh nhớ các dạng toán một cách máy móc. + Học sinh ngại học các bài toán mở, dẫn đến không tự tin khi làm bài. Trong quá trình quản lí và giảng dạy ở Tiểu học, đặc biệt là ở các lớp 1, chúng tôi nhận thấy HS rất lúng túng thậm chí nêu sai bài toán, viết sai phép tính, viết sai đáp số. 1.2. Giải pháp mới cải tiến Giải pháp 1: Chuyển dịch ngôn ngữ thông thường thành ngôn ngữ toán học và ngược lại. * Thay đầu bài , ngữ điệu trong SGK. Bài toán mở nêu các vấn đề thường gặp trong đời sống, các vấn đề đó gắn liền với nội dung (khái niệm, cấu trúc, thuật ngữ ) toán học, do vậy giáo viên cần cho học sinh nắm vững khái niệm thuật ngữ. Để dạy tốt “Các bài toán mở” ở lớp 1, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc những bài toán thể hiện ý nghĩa của phép tính. 3
  3. a) Trong chương trình toán lớp 1 giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên chưa thể đưa ngay “Bài toán có lời văn”. Mặc dù đến tận tuần 22, học sinh mới được chính thức học cách trình bày bài giải “Bài toán có lời văn” song chúng ta đã có ý ngầm chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài “Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) ” ở tuần 7. Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng “ Viết phép tính thích hợp” ở đây học sinh được làm quen với việc: - Xem tranh vẽ. - Nêu bài toán bằng lời. - Nêu câu trả lời. - Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh). Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời : “Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?” rồi tập nêu miệng câu trả lời : “có tất cả 3 quả bóng”, sau đó viết vào dãy năm ô trống để có phép tính: 1+2 = 3. Từ phép tính 1+ 2 = 3, em hãy nêu các bài toán phù hợp với phép tính. VD1: Hà có 1 cái kẹo, Mai có 2 cái kẹo. Hỏi cả hai bạn có bao nhiêu cái kẹo? VD2: Có 1 bút chì đỏ và 2 bút chì xanh. Hỏi có tất cả bao nhiêu bút chì? * Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các bài tập “ Nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống” chúng tôi đã nghiên cứu đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng. Ví dụ: Từ bức tranh “3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới” ở trang 47– SGK, sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống: 3 + 1 = 4 Giáo viên hỏi tiếp: “Vậy có tất cả mấy con chim?” để học sinh trả lời miệng: “Có tất cả 4 con chim”; hoặc “Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có tất cả là 4) Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với các thành phần của bài toán. GV có thể định hướng cho học sinh : Nêu bài toán để tìm số chim có tất cả hoặc nêu bài toán để tìm số chim bay đi hoặc nêu bài toán để tìm số chim còn lại. VD: Có 4 con chim , có 3 con chim bay đi . Hỏi còn lại bao nhiêu con chim? ; Do đó các em sẽ dễ dàng nắm được các thành phần của bài toán có lời văn. .thuận lợi khi viết được các câu lời giải các bài toán có lời văn sau này. 4
  4. Bài toán “Thêm” thành bài toán “gộp”, chẳng hạn: “An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?”, dạng này khá phổ biến. Học sinh lần lượt có thể tự tìm các bài toán tương ứng với phép tính 3+ 4 = 7. hoặc 3+4=7 VD: Có 4 hình vuông , thêm 3 hình vuông . Hỏi có tất cả bao nhiêu hình vuông? Hoặc có 4 bút chì , thêm 3 bút chì . Hỏi có tất cả mấy bút chì? Bài toán “Bớt” thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn: “Lớp 1A có 35 bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?”, dạng này ít gặp vì dạng này hơi khó (CTTH cũ dạy ở lớp 2). Sau khi học sinh học xong bài toán “Thêm” “Bớt” giáo viên có thể cho học sinh dựa vào phép tính để nêu bài toán thích hợp . VD: 1 + 3 = 4 4 – 3 = 1 3 + 1 = 4 4 – 1 = 3 Học sinh lần lượt nêu : Có 1 quả bóng , thêm 3 quả bóng . Hỏi có tất cả bao nhiêu quả bóng ? Hoặc “Có 3 quả bóng , thêm 1 quả bóng. Hỏi có tất cả mấy quả bóng? ” Hoặc “ Có 4 quả bóng , bớt 3 quả bóng. Hỏi còn lại bao nhiêu quả bóng ? Hoặc “ Có 4 quả bóng , bớt 1 quả bóng. Hỏi còn lại bao nhiêu quả bóng? * Từ mô hình vật thật học sinh đặt đề toán phù hợp với tình huống sau đó chuyển dịch thành ngôn ngữ toán học bằng việc viết phép tính thích hợp: Đối với học sinh lớp 1, đặc biệt là những tuần đầu năm học, việc hướng dẫn học sinh đọc để hiểu đề bài và giải được bài toán rất khó khăn, vất vả. Vốn từ ngữ, vốn kiến thức liên quan đến đời sống thực tế của học sinh lớp 1 còn nhiều hạn chế, tư duy của học sinh mang nặng yếu tố hình ảnh, cụ thể. Vì vậy, hướng dẫn học sinh dựa vào mô hình, vật thật, đặt đề toán thích hợp với tình huống, từ đó học sinh chuyển thành ngôn ngữ toán học bằng các phép tính phù hợp. Qua việc dùng ngôn ngữ thông thường để nêu đề toán thích hợp, học sinh có biểu tượng ban đầu về bài toán mở. Với cùng một mô hình, học sinh có thể đưa ra nhiều tình huống khác nhau và viết được các phép tính phù hợp với mỗi tình huống và tìm cách diễn giải bằng ngôn ngữ toán học là các phép tính thích hợp. Ví dụ: Qua các hình ảnh “quả rụng, chim bay, bóng đứt dây, tách số, tách que tính, tách hình ” để diễn đạt bằng ngôn ngữ thông thường thông qua việc đặt 5
  5. các đề toán, sau đó chuyển dịch thành ngôn ngữ toán học bằng việc viết thành các phép tính thích hợp là ý nghĩa thực tiễn của phép tính gắn với bài toán có lời văn sau này. *Thay tranh bằng vật thật. Trước mỗi giờ toán chúng tôi thường nghiên cứu kĩ bài toán tìm xem đồ dùng nào phù hợp với bài như các nhóm đồ vật, các mẫu hình, tranh vẽ. Mỗi học sinh có 1 hộp hình học toán, theo yêu cầu của giáo viên học sinh được rèn luyện các thao tác trên tập hợp các nhóm đồ vật, các mẫu hình. Phần lớn các bài toán đều có chủ đề liên quan tới các đại lượng và mối quan hệ giữa các đại lượng trong bài toán. Vì thế, việc rèn kĩ năng thao tác qua việc học về phép đo đại lượng là rất cần thiết cho việc giải toán. Khi hướng dẫn học sinh làm bài 4(47). Giáo viên cho học sinh lấy các đồ vật trong bộ đồ dùng thực hành toán thay thế cho hình ảnh tranh vẽ. VD: Có 3 hình vuông, thêm 1 hình vuông. Hỏi có tất cả bao nhiêu hình vuông? Hoặc có 3 que tính xanh và 1 que tính vàng. Hỏi có tất cả bao nhiêu que tính? Hoặc có 3 cái quạt trần và 1 cái quạt treo tường. Hỏi có tất cả có bao nhiêu cái quạt ? * Sử dụng sơ đồ ven và học sinh dựa vào sơ đồ ven để diễn giải bằng thuật ngữ toán học mối quan hệ giữa các thành tố và cấu tạo số, lý giải mối quan hệ giữa các phép toán. Từ việc học cấu tạo số giáo viên hướng dẫn học sinh lập sơ đồ ven, dựa vào sơ đồ ven để nêu lại cấu tạo số và mối quan hệ giữa các thành tố, qua đó học sinh được củng cố về cấu tạo số, bước đầu có khái niệm, biểu tượng các phép tính cộng trừ. Khi học về các phép tính cộng, trừ trong phạm vi 10, giáo viên sử dụng sơ đồ ven để củng cố, làm rõ hơn khái niệm, biểu tượng phép tính cộng, trừ: Hình ảnh các chấm tròn trong sơ đồ ven là ý nghĩa của phép tính cộng, phép tính trừ được giáo viên cung cấp cho học sinh theo quan điểm tập hợp, giúp các em cảm nhận bằng trực giác. 1 + 3 = 4 3 + 1 = 4 1 + 3 = 3 + 1 1 3 4 6
  6. Từ sơ đồ ven trên, học sinh có thể xây dựng thành phép tính cộng, cũng bằng sơ đồ ven, giáo viên che bớt các chấm tròn để xây dựng phép tính trừ. Sau đó dùng sơ đồ ven để học sinh hiểu được mối quan hệ ngược giữa phép cộng và phép trừ. Từ phép cộng 1 + 3 = 4 suy ra phép trừ tương ứng 4 – 1 = 3 và 4 – 3 = 1 và chỉ ra rằng phép trừ là phép tính ngược của phép tính cộng. Giải pháp 2: Hoạt động thực hành và đưa trò chơi học tập vào giải các bài toán mở. * Hoạt động trải nghiệm, thực hành: Chúng tôi tổ chức các hoạt động để học sinh được làm việc với vật thật, mô hình. Phát huy tính chủ động của học sinh để học sinh được tham gia tiếp xúc với vật thật, tìm ra cái mới, cách giải quyết bài toán, không gò bó, phụ thuộc vào cái đã có. Chúng tôi tạo điều kiện cho học sinh quan sát, suy nghĩ, hoạt động thực tế với vật thật, mô hình qua đó khuyến khích, động viên và tạo điều kiện cho các em tìm ra các phép tính khác nhau phù hợp với tình huống của bài toán. Đối với các bài toán mở, chúng tôi luôn gắn với thực tế, biến các con số các mối quan hệ toán học khô khan phức tạp với thực tế sinh động phù hợp với tư duy của các em, giúp các em giải quyết vấn đề dễ dàng hơn. Học sinh được trải nghiệm với các tình huống thực tế như: “Có 3 cái kẹo, thêm 4 cái kẹo thành mấy cái kẹo?” Từ các tình huống có trong bài học học sinh có thể vận dụng các tình huống có thực trong đời sống thực tế tự nêu được vấn đề và tự giải quyết vấn đề để tự chiếm lĩnh kiến thức mới. * Đưa trò chơi học tập vào dạy học các bài toán mở. Trò chơi toán học tạo ra không khí vui tươi, hồn nhiên sinh động để học sinh hứng thú trong học tập môn toán đặc biệt là các bài toán mở. Các trò chơi còn kích thích trí tưởng tượng, tính tò mò, ham hiểu biết cho trẻ không những thế, trò chơi học tập giúp các em tự tin hơn, tích cực, tự giác tìm hiểu kiến thức mới, tạo động lực học tập cho các em. Một số trò chơi có thể áp dụng trong quá trình dạy các bài toán mở là: + Trò chơi tiếp sức. 7
  7. Cách chơi : Mỗi tổ cử từ 3 em trở lên , tuỳ theo đầu bài bài toán nối tiếp nhau tham gia trò chơi theo yêu cầu của cô giáo hoặc yêu cầu bài toán, nếu tổ nào hoàn thành nhanh, đúng thì tổ đó sẽ thắng cuộc. VD: Khi dạy bài phép cộng trong phạm vi 6. Giáo viên củng cố cho học sinh bằng cách tổ chức trò chơi tiếp sức như sau : Mỗi tổ cử 4 bạn nối tiếp nhau viết 1 phép tính có kết quả bằng 6 + Trò chơi đoán phép tính thích hợp. Cách chơi: GV đưa ra một bức tranh, học sinh lần lượt nêu các phép tính phù hợp với tranh, sau đó giáo viên lật phép tính ở mặt sau để học sinh đối chiếu xem đúng hay sai và giải thích đã nêu bài toán nào thích hợp. Luật chơi : Mỗi học sinh nêu 1 phép tính mà em cho là phù hợp với tranh vẽ. + Trò chơi : “Nêu bài toán thích hợp” VD: GV đưa phép tính 3 + 2 = 5 Cách chơi: Hai đội cùng chơi, đổi qua, đổi lại, đội nào nêu được bài toán đúng phù hợp với phép tính sau cùng là đội chiến thắng. Luật chơi: Mỗi đội 5 em tham gia trò chơi. + Trò chơi nối tranh vẽ với phép tính thích hợp theo nhóm. Cách chơi: Giáo viên gắn hình ảnh với phép tính trên bảng theo nhóm chơi mỗi nhóm 1 hoặc 1 nhóm học sinh tuỳ theo yêu câù bài toán, lần lượt từng em lên nối tranh vẽ với 1 phép tính (Mỗi em chỉ được nối 1 tranh vẽ với 1 phép tính ) nhóm nào nối xong trước và đúng nhóm đó sẽ chiến thắng. VD: Khi dạy bài “Phép cộng trong phạm vi 4 tôi củng cố kiến thức cho học sinh bằng cách chơi trò chơi: Nối tranh vẽ với phép tính thích hợp”. Giáo viên nêu cách chơi, luật chơi sau đó cử đại diện các nhóm lên chơi, nhóm nào nối đúng, nối nhanh nhóm đó sẽ thắng cuộc. Nối tranh vẽ với phÐp tÝnh thÝch hîp: Nhóm 1 4 – 1 = 3 1 + 3 = 4 4 – 3 = 1 8
  8. 3 + 1 = 4 Nhóm 2 4 – 1 = 3 1 + 3 = 4 4 – 3 = 1 3 + 1 = 4 Ưu điểm: Trò chơi học tập giúp các em khắc sâu kiến thức sau khi học mỗi bài toán, dạng toán, tạo hứng thú cho các em học toán. Giải pháp 3: Đổi mới hình thức tổ chức lớp học. Chúng tôi tổ chức lớp học thật linh hoạt với bàn đôi, ghế đơn, học sinh có thể dịch chuyển dễ dàng, dễ dàng chuyển đổi từ mô hình lớp học cơ bản, sang hoạt động nhóm đôi, nhóm 4 và hoạt động cả lớp. Từ hình thức tổ chức lớp học linh hoạt như trên việc tương tác giữa học sinh với học sinh, học sinh với giáo viên dễ dàng và hợp lý hơn. Từ việc tổ chức lớp học theo hướng linh hoạt đã hạn chế kiểu truyền thụ một chiều từ thầy sang trò, chúng tôi tổ chức, hướng dẫn, khuyến khích cho các em tự học, tự chiếm lĩnh tri thức, tự đánh giá mình, theo dõi, đánh giá bạn, quan hệ hợp tác trong học tập, học sinh chủ động tương tác, hỗ trợ nhau trong quá trình học tập. Chủ động hợp tác nhóm, trao đổi, chia sẻ thông tin và tìm ra hướng giải quyết các vấn đề liên quan đến bài toán mở, tự đánh giá kết quả hoạt động của mình và của bạn từ đó học sinh tự tin bộc lộ khả năng của bản thân. Khi dạy bài toán mở, chúng tôi tổ chức cho các em hoạt động cá nhân làm việc với mô hình vật thật rồi tự đặt đề toán phù hợp với tình huống của bài toán và viết phép tính thích hợp với tình huống đó. Trao đổi với bạn bên cạnh để chia sẻ thông tin tương tác hỗ trợ nhau tìm ra cái mới, hướng giải quyết mới liên quan đến bài toán. Nếu ở vấn đề có tính phức tạp, chúng tôi tổ chức cho các em trao đổi nhận xét, bổ sung về hướng giải quyết, phát huy tính sáng tạo trong cách giải quyết vấn đề của học sinh. 9
  9. Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học các bài toán mở. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học là việc áp dụng những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học, kỹ thuật vào thực tiễn giảng dạy nhằm phát huy tính tích cực của học sinh trong học tập. Khi dạy bài toán : Viết phép tính thích hợp. GV sử dụng máy chiếu , các hình ảnh trực quan vào dạy học để gây hứng thú cho học sinh . 3 + 1 = 4 2 + 2 = 4 1 + 3 = 4 3 + 1 = 4 1 1 + 3 = 3 + 1 3 4 Sử dụng công nghệ thông tin không chỉ dừng ở khai thác trình bày kiến thức mới mà còn thực hiện ở nhiều khâu khi dạy bài toán mở như luyện tập, thực hành, kiểm tra. Không so sánh “hiện đại với thủ công”, việc ứng dụng công nghệ thông tin lựa chọn tùy điều kiện từng lớp và khả năng của giáo viên, chúng tôi nghiên cứu sử dụng đúng mục đích, có hiệu quả thiết thực, tránh hình thức lãng phí và đưa ra 3 nguyên tắc tối thiểu sau: Đúng nội dung kiến thức. Học sinh được cùng tham gia, được thực hành nhiều hơn Tạo môi trường học tập hứng thú, tích cực, phù hợp tâm sinh lý trẻ. 2. Khả năng áp dụng của sáng kiến 10
  10. Sáng kiến "Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy học các bài toán mở cho học sinh lớp 1" đã được áp dụng hiệu quả ở các lớp Một trong trường tiểu học Tân Thành . - Kết quả nắm bắt kiến thức của học sinh được nâng lên rõ rệt. - Những giải pháp trên phát huy được tính tích cực, chủ động tìm hiểu kiến thức của học sinh, các em có hứng thú thi đua học tập. - Kinh nghiệm trên có thể được áp dụng rộng rãi cho tất cả các đối tượng học sinh các lớp 1, đặc biệt là các em học sinh chưa bền vững về kiến thức. Qua thực tế giảng dạy, chúng tôi có thể khẳng định: sáng kiến có thể áp dụng được với các trường tiểu học và các địa phương khác. Giáo viên có thể sử dụng linh hoạt các phương pháp dạy học và sử dụng đồ dùng dạy học hợp lý, các cách thức, các hoạt động khác nhau cho phù hợp với nội dung bài dạy trong mỗi tiết học. IV. ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Sáng kiến sẽ được được áp dụng hiệu quả khi: Để học sinh nắm vững và thực hành thành thạo bài toàn mở ở lớp 1. Giáo viên cần: + Xác lập được mối liên hệ giữa các dữ liệu của bài toán. + Chọn phép tính thích hợp trả lời đúng yêu cầu của bài toán. Điều chủ yếu của việc dạy học các bài toán mở là giúp học sinh tự tìm hiểu được mối quan hệ giữa tranh vẽ với phép tính thích hợp trong điều kiện bài toán mà thiết lập các phép tính số học tương ứng, phù hợp. Để tiến hành được điều đó, việc dạy toán diễn ra theo 3 mức độ. - Mức độ thứ nhất: Hoạt động chuẩn bị cho bài toán. - Mức độ thứ hai: Hoạt động làm quen với bài toán. - Mức độ thứ ba: Nêu được phép tính hoặc bài toán thích hợp. + Tạo giờ học thoải mái, sinh động, hợp tác tin cậy lẫn nhau giữa thầy và trò phát huy tốt tính tích cực tư duy của học sinh. Giáo viên nên dùng những thuật ngữ đơn giản, dễ hiểu trong khi giảng bài. + GV phải có tác phong mẫu mực, ứng xử khéo léo, nhiệt tình với công việc. + Nắm rõ đặc điểm về tâm lý của học sinh ở từng độ tuổi những kinh nghiệm trong giảng dạy. 11
  11. + Bản thân giáo viên luôn luôn tự học tự rèn, liên hệ trao đổi với đồng nghiệp. V. ĐÁNH GIÁ LỢI ÍCH THU ĐƯỢC DO ÁP DỤNG SÁNG KIẾN. 1. Hiệu quả kinh tế Hiệu quả kinh tế mà sáng kiến đem lại chính là việc thường xuyên sử dụng có hiệu quả các đồ dùng học tập không gây lãng phí về cơ sở vật chất. Việc sử dụng tranh ảnh có sẵn trên mạng cũng giảm bớt nhiều chi phí. Trước đây giáo viên phải mất rất nhiều thời gian để tìm tranh ảnh minh họa hoặc nhà trường phải mua các bộ tranh học từ thì bây giờ giáo viên có thể sử dụng hình ảnh trên mạng và chiếu lên qua máy chiếu để cả lớp có thể quan sát. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế lớn nhất mà sáng kiến mang lại là chất lượng dạy học môn Toán được nâng lên rõ rệt. Đây chính là nguồn lợi kinh tế lâu dài mang lại cho bản thân học sinh, gia đình học sinh và xã hội mà những người làm giáo dục mong muốn đạt được. 2. Hiệu quả xã hội Qua quá trình quản lí và giảng dạy chúng tôi thấy trước khi chưa áp dụng phương pháp mới học sinh thường không nắm được yêu cầu của đề bài. Khi đưa các phương pháp mới vào thực hiện thì học sinh tự tin hơn, vững kiến thức về giải toán có lời văn hơn. Ở những tuần đầu học sinh lớp tôi chưa biết phương pháp học các bài toán mở nên các em chỉ nêu được bài toán 1 cách thụ động, nhưng sau khi đưa các giải pháp trên vào dạy học các bài toán mở tôi thây các em hoàn toàn tự tin để thực hành các bài toán mở và học sinh lớp tôi còn có thói quen đọc kĩ đề bài, tóm tắt, phân tích đề toán, không những biết cách đặt câu lời giải hay, viết phép tính đúng mà còn biết cách trình bày bài giải đúng, đẹp có ý thức kiểm tra lời giải, kết quả, có thói quen tìm ra cách giải khác. Những kết quả mà các em đạt được sau những lần kiểm tra định kì như sau: Lớp chưa thử nghiệm: 1B - Năm học 2013 -2014 THỜI GIAN ĐIỂM 9-10 ĐIỂM 7-8 ĐIỂM 5-6 ĐIỂM DƯỚI 5 CUỐI KÌ I 13 15 7 0 CUỐI KÌ II 20 12 3 0 12
  12. Lớp thử nghiệm : Lớp 1C- Năm học 2014- 2015 THỜI GIAN ĐIỂM 9-10 ĐIỂM 7-8 ĐIỂM 5-6 ĐIỂM DƯỚI 5 CUỐI KÌ I 20 10 5 0 CUỐI KÌ II 27 7 1 0 Có được kết quả như vậy một phần nhờ tinh thần học tập tích cực, tự giác của học sinh, sự quan tâm nhắc nhở của phụ huynh học sinh, bên cạnh đó là các biện pháp giáo dục đúng lúc, kịp thời của giáo viên. Qua kết quả đã đạt được trên, chúng tôi thấy số học sinh đạt điểm 9, điểm 10 tăng. So với năm học trước thì kết quả trên thật là một điều đáng mừng. Điều đó cho thấy những cố gắng trong đổi mới phương pháp dạy học của chúng tôi đã có kết quả khả quan. Lớp học sôi nổi, nắm kiến thức vững chắc học sinh tương tác, hỗ trợ nhau trong quá trình học tập mang lại hiệu quả rõ rệt đó chính là động lực để chúng tôi tiếp tục theo đuổi ý tưởng của mình. Với kết quả này, chắc chắn khi các em học lên các lớp trên, các em sẽ vẫn tiếp tục phát huy hơn nữa với những bài toán có lời văn yêu cầu ở mức độ cao hơn. Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật. TP. Ninh Bình, ngày 25 tháng 4 năm 2016 NGƯỜI NỘP ĐƠN Tác giả Bùi Thị Sơn Đồng tác giả Nguyễn Thị Bích Bùi Thị Hạnh Phúc Nguyễn Thị Bích Liên Phạm Bích Hà Thủy 13
  13. TRƯỜNG TIỂU HỌC TÂN THÀNH PHÒNG GIÁO DỤC THÀNH PHỐ NINH BÌNH XÁC NHẬN XÁC NHẬN 14