Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 5

doc 24 trang binhlieuqn2 07/03/2022 4811
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ren_ki_nang_giai_toan.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh Lớp 5

  1. trường hợp cá biệt khác. Ở bài toán trên học sinh đã sai khi vận dụng công thức tính diện tích xung quanh hình hộp chữ nhật để tính diện tích quét sơn của một thùng dạng hình hộp chữ nhật không nắp. - Hướng dẫn học sinh: Giáo viên có thể cho học sinh quan sát mẫu hình hộp chữ nhật. Cần giúp học sinh nhận ra: + Nếu quét sơn toàn bộ hình hộp chữ nhật thì diện tích quét sơn chính bằng diện tích toàn phần của hình hộp. + Nếu quét sơn toàn bộ thùng không nắp có dạng hình hộp chữ nhật thì diện tích quét sơn chính bằng diện tích xung quanh của hình hộp cộng với diện tích một mặt đáy. Mở rộng ra: Nếu quét sơn mặt trong một phòng học dạng hình hộp chữ nhật ( không quét trần) thì diện tích quét sơn chính bằng diện tích xung quanh căn phòng hình hộp chữ nhật đó. 7.2.1.4. Giải toán về chuyển động đều Khi giải dạng toán này, HS thường mắc phải các sai lầm: * Lúng túng khi tìm cách giải. * Thực hiện các phép toán không cùng đơn vị đo. * Không phân biệt được thời điểm và thời gian. Ví dụ1. Một người đi xe đạp trong 15 phút với vận tốc 12,6 km/giờ. Tính quãng đường đi được của người đó. Có em giải như sau: Quãng đường đi được của người đó là: 12,6 x 15 = 189 (km/giờ) Trong bài giải trên học sinh đã sai khi chưa đổi: 15 phút = 0,25 giờ. - Khi dạy giải toán về chuyển động, giáo viên cần chú ý cho học sinh đổi đơn vị thời gian theo đơn vị của vận tốc. Lời giải đúng: Đổi: 15 phút = 0,25 giờ Quãng đường đi được của người đó là: 12,6 x 0,25 = 3,15 (km) Đáp số: 3,15 km 14
  2. Ví dụ 2. Một xe máy đi từ A lúc 8 giờ 37 phút với vận tốc 36 km/giờ. Đến 11 giờ 7 phút một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vân tốc 54 km/giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ? Giải Thời gian xe máy đi trước ô tô là: 11 giờ 7 phút – 8 giờ 37 phút = 2 giờ 30 phút 2 giờ 30 phút = 2,5 giờ Khi ô tô khởi hành xe máy đã đi được quãng đường là: 36 x 2,5 = 90 (km) Thời gian ô tô đuổi kịp xe máy là: 90 : 18 = 5 (giờ) Thời gian để ô tô đuổi kịp xe máy là: (*) 11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút. - Câu trả lời (*) chưa chính xác do học sinh không phân biệt được thời điểm và thời gian. - Giáo viên cần nhấn mạnh cho học sinh: Thời gian để ô tô đuổi kịp xe máy chính là khoảng thời gian dùng để đuổi kịp ô tô. Ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ? là tính thời điểm ô tô đuổi kịp xe máy. Câu trả lời giải đúng là: Ô tô đuổi kịp xe máy lúc: 11 giờ 7 phút + 5 giờ = 16 giờ 7 phút Đáp số: 16 giờ 7 phút 7.2.6. Một số biện pháp khắc phục những sai lầm thường gặp khi dạy giải toán có lời văn ở lớp 5 7.2.6.1.Giúp HS lớp 5 nắm được các nguyên nhân dẫn tới sai lầm khi giải toán có lời văn. * Nguyên nhân 1: Hiểu không đầy đủ và chính xác các khái niệm toán học. Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế nên phần lớn các khái niệm toán học được đưa vào chương trình tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng chủ yếu hình thành biểu tượng toán học thông qua trực quan hoặc từ các ví dụ cụ thể, sinh động. Điều này có ưu điểm là phù hợp với đặc điểm nhận thức của học sinh tiểu học.Tuy nhiên mặt hạn chế là thiếu tính chặt chẽ, chính xác và tổng quát. Do đó dễ xuất hiện các sai 15
  3. lầm về khái niệm toán học. Từ đó dẫn tới suy luận sai và kết quả sai khi giải toán có lời văn. Các sai lầm mục 2.1. cho thấy HS chưa nắm vững các khái niệm về tỉ số, tỉ số phần trăm. Thực tế cũng cho thấy biểu tượng hình học của HS tiểu học còn khá hạn chế, do vậy HS thường gặp khó khăn khi xác định các yếu tố đáy, đường cao của hình tam giác, hình thang, đặc biệt là khi các hình này có sự thay đổi về hình dạng, góc độ quan sát. * Nguyên nhân 2: Không nắm vững các quy tắc, công thức, tính chất toán học . Ở bậc tiểu học, việc phát triển tư duy toán học cho HS được gắn liền với việc vận dụng các quy tắc, công thức, tính chất toán học thông qua giải các bài toán có lời văn. Do đặc điểm nhận thức của HS tiểu học là nhận thức cảm tính còn chiếm ưu thế trong khi các quy tắc, công thức, tính chất toán học lại mang tính khái quát và trừu tượng cao nên HS gặp rất nhiều khó khăn khi vận dụng vào giải toán, nhất là với HS có lực học trung bình yếu. Biểu hiện là dễ lẫn lộn các bước tính, nhầm lẫn khi vận dụng công thức tính diện tích, chu vi, thể tích, của các hình đã học. Kĩ năng vận dụng các công thức toán học còn hạn chế. Đó là các bài toán ngược lại với những gì đã học(tìm được diện tích tam giác khi biết đáy, chiều cao tương ứng nhưng lại không tính được đáy khi biết diện tích và chiều cao tương ứng). * Nguyên nhân 3: Thiếu các kiến thức cần thiết về logic. Khi giải toán có lời văn, đòi hỏi HS phải suy luận. Quá trình suy luận rất cần đến những kiến thức về lôgíc, đặc biệt là các quy tắc suy luận lôgíc. Khi đứng trước một bài toán có lời văn học sinh thường vận dụng một cách máy móc những gì đã được học mà không suy nghĩ được vì sao ta vận dụng công thức, quy tắc này mà không vận dụng công thức, quy tắc kia, vì sao ta giải toán theo cách này mà không giải theo cách kia. Sự thiếu hụt kiến thức logic còn là nguyên nhân của những sai lầm khi HS diễn đạt, trình bày lời giải. * Nguyên nhân 4: Không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản Phương pháp giải các bài toán cơ bản giữ vị trí quan trọng trong giải toán có lời văn vì phần lớn các bài toán trong SGK tiểu học đều được xây dựng từ các bài toán cơ bản (toán điển hình). Không nắm vững phươn g pháp giải các bài toán cơ bản thì khó có thể giải quyết trọn vẹn các bài tập trong SGK và không thể giải quyết các bài toán có nội dung nâng cao khi mà các tình huống đã có sự biến đổi. Thực tế là không ít HS đã không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản (mặc dù nắm vững quy tắc, công thức toán học). Biểu hiện là không nhớ hoặc lẫn lộn các dạng toán; khi học dạng toán mới thì lại quên dạng toán cũ. 16
  4. Do không nắm vững phương pháp giải các bài toán cơ bản nên học sinh thường mắc sai lầm ngay từ những bước giải đầu tiên. * Nguyên nhân 5: Yếu kĩ năng chuyển một bài toán về dạng toán cơ bản Trong chương trình toán 5, các bài toán được xây dựng từ các bài toán cơ bản nhưng có sự thay đổi điều kiện để tăng độ khó như tăng yếu tố, đại lượng. Ví dụ trong toán chuyển động đó là sự tham gia của 2 động tử và xuất phát và kết thúc chuyển động ở những thời điểm khác nhau. Do không nhận ra các dấu hiệu bản chất nên HS không nhận ra sự tương đồng của bài toán biến đổi với bài toán cơ bản, vì vậy HS không có khả năng chuyển bài toán về dạng cơ bản, đơn giản hơn. * Nguyên nhân 6: Hạn chế về vốn từ và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt Sự hạn chế về vốn từ và kĩ năng sử dụng tiếng Việt còn gây nên nhiều khó khăn cho HS khi đặt câu trả lời cho các phép tính. 7.2.6.2. Hướng dẫn HS nắm vững các kiến thức về môn Toán Một trong những nguyên nhân chủ yếu của các sai lầm là do trình độ còn yếu. Trong đó có thể là học sinh không nắm vững kiến thức cơ bản về môn Toán. Khi truyền thụ giáo viên cần lưu ý: - Nắm vững các kiến thức về môn Toán ở tiểu học góp phần hạn chế những sai lầm mà học sinh gặp phải trong giải toán. Để tránh các sai lầm, GV cần tổ chức các hoạt động nhằm tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Học sinh chủ động nắm kiến thức bằng chính "lao động" của mình. .Vì vậy phương pháp dạy học đóng vai trò không nhỏ trong việc phòng ngừa các sai lầm cho học sinh. Nếu học sinh được làm quen với các hệ thống phương pháp dạy học mới, khêu gợi trí sáng tạo, biết phát hiện và giải quyết vấn đề sẽ tự tin, năng động, tạo tâm thế vững vàng, hạn chế việc mắc sai lầm trong dạy học giải Toán. Cụ thể: + Dạy các khái niệm toán học để HS tránh được sai lầm khi giải toán. Chương trình toán tiểu học được xây dựng theo cấu trúc đồng tâm, lấy số học làm hạt nhân, do vậy các khái niệm toán học cũng có sự mở rộng theo các lớp. Trong quá trình giảng dạy, cần đặc biệt lưu ý khắc sâu mối quan hệ giữa các kiến thức có liên quan. Không ít mối quan hệ giữa các kiến thức không được trình bày trong SGK mà phải do GV cung cấp. Chẳng hạn khi học về hình học thì cần lưu ý HS: Hình vuông cũng là hình chữ nhật(hình vuông là trường hợp đặc biệt của hình chữ nhật, hình thoi, ). 17
  5. Một dạng toán khác mà nhiều HS gặp khó khăn và dễ mắc sai lầm là toán về tỉ số phần trăm. Để giúp HS vượt qua những khó khăn trên, khi dạy gi ải toán về tỉ số phần trăm, GV cần ôn lại tỉ số, nhấn mạnh mối quan hệ giữa tỉ số với tỉ số phần trăm, tỉ số phần trăm với phân số.Các bài toán về tỉ số phần trăm thực chất là các bài toán liên quan đến tỉ số. Với các bài toán liên quan đến kinh doanh cần cung cấp cho HS các khái niệm: Vốn: tương ứng với giá mua hay chi phí ban đầu. Lãi (hay lời): bằng giá bán trừ giá mua. Giá bán: Bao gồm cả vốn và lãi. Với một số bài toán có nội dung thực tế, học sinh phải hiểu rõ ý nghĩa của một số từ: ngày công, kế hoạch, chỉ tiêu, + Dạy các quy tắc, công thức, tính chất toán học Ở bậc Tiểu học, các quy tắc, công thức nhìn chung chỉ yêu cầu HS nhớ và biết vận dụng, không yêu cầu chứng minh quy tắc, công thức. GV cần giúp HS hệ thống lại các quy tắc, công thức, tính chất, bằng các bảng biểu, sơ đồ. Thường xuyên kiểm tra các quy tắc, công thức, tính chất trong các tiết học. Chỉ có ôn tập, củng cố thường xuyên học sinh mới nhớ lâu, nhớ chính xác những gì mình đã được học. + Ôn luyện, củng cố cho HS phương pháp giải các bài toán điển hình Việc thường xuyên ôn tập và củng cố lại các bước giải các bài toán điển hình sẽ giúp học sinh tránh được sai lầm là lẫn lộn giữa các dạng toán. Từ lời giải một bài toán cụ thể, GV cần gợi ý cho HS phương pháp giải cho một số bài toán tương tự việc tổng kết và hệ thống lại các phương pháp giải toán là việc nên làm trong quá trình dạy học toán. Công việc trên nếu được tiến hành có kết quả sẽ giúp HS hạn chế được các sai lầm khi giải toán. 7.2.6.3.Trang bị cho học sinh phương pháp tìm tòi bài giải cho một bài toán có lời văn Ở lớp 5, các bài toán có lời văn đều có dạng điển hình và đã có các cách giải được trình bày tương đối kĩ trong SGK ( phần hình thành kiến thức mới). Tuy nhiên, để giải được từng bài toán cụ thể một cách chính xác và khoa học đòi hỏi phải có suy luận và vận dụng kiến thức một cách sang tạo chứ không đơn thuần chỉ áp dụng công thức một cách máy móc. Vấn đề đặt ra là cần có một đường lối chung khi giải quyết các bài toán có lời văn. Đây là vấn đề cốt lõi, quan trọng trong giải toán. Muốn giải bài toán tốt và tránh được những sai lầm vừa nêu, Gv cần giúp HS nắm các bước chung khi giải một bài toán có lời văn: 18
  6. Bước 1: Đọc thật kĩ đề toán, xác định được đâu là cái đã cho, đâu là cái cần tìm. - HS phải xác định chính xác cái đã cho, cái cần tìm. - Hướng sự tập trung suy nghĩ của HS vào những từ quan trọng trong đề toán, phải hiểu ý nghĩa một số từ cần thiết trong đề. Bước 2: Tóm tắt đề toán. - Có thể tóm tắt đề toán bằng nhiều cách khác nhau tùy từng bài toán cụ thể như sơ đồ, hình vẽ, kí hiệu, Bước 3: Phân tích bài toán để tìm cách giải. - Để phân tích bài toán chúng ta tập trung suy nghĩ vào câu hỏi của bài toán. Muốn trả lời được câu hỏi đó thì phải biết những gì hoặc làm những phép tính gì. Trong những cái cần phải biết đó, cái nào đã có sẵn trong đề toán, cái nào phải tìm. Muốn tìm được cái này thì phải biết những gì, Cứ như vậy ta suy nghĩ ngược lên cho tới vấn đề đã cho trong bài toán. Bước 4: Giải bài toán và thử lại kết quả: Dựa vào kết quả phân tích ở bước 3, xuất phát từ những điều đã cho trong đề toán, ta lần lượt thực hiện các phép tính để tìm ra đáp số. Cần chú ý thử lại sau khi làm xong từng phép tính và kiểm tra lại đáp số. Bước 5: Khai thác bài toán(bước này dành cho HS khá, giỏi: HS tìm các cách giải khác nhau và tự đặt các bài toán tương tự với bài toán vừa làm). 7.2.6.4. Rèn cho HS có thói quen tự kiểm tra phát hiện sai lầm trong giải toán - Đa số học sinh thường bằng lòng với việc tìm ra đáp số của bài toán có lời văn mà không chú ý đến khâu kiểm tra lại lời giải. - Bên cạnh việc hình thành thói quen tự kiểm tra lời giải, GV cũng cần trang bị cho HS các phương pháp nhận biết một lời giải sai lầm. Các sai lầm thường bộc lộ bởi các dấu hiệu. GV cần trang bị cho HS kỹ năng nhận biết các dấu hiệu quan trọng sau đây: + Dấu hiệu thứ nhất: Kết quả tìm được mâu thuẫn với thực tế. Các bài toán có lời lời văn thường đề cập đến những tình huống gần gũi với thực tế. Ở đây, giả sử rằng bài toán đã phù hợp với thực tế mà nếu kết quả mâu thuẫn thực tế thì lời giải mắc sai lầm. Các mâu thuẫn thường gặp: bộ phận tìm được lại lớn hơn tổng thể hoặc ngược lại (VD: số HS nữ tìm được lại lớn hơn số HS toàn trường, số sản phẩm đạt chuẩn lớn hơn tổng số sản phẩm) 19
  7. + Dấu hiệu thứ hai: Kết quả tìm được mâu thuẫn với một yếu tố nào đó trong đề bài. + Dấu hiệu thứ ba: Sai đơn vị (danh số). Chẳng hạn, bài toán yêu cầu tìm thời gian của một chuyển động mà đáp số lại là đơn vị đo độ dài (quãng đường). Ngoài ra, khi giải toán mà không sử dụng hết dữ kiện đề bài thì cũng có thể đã mắc sai lầm. 7.2.6.5. Theo dõi một sai lầm của học sinh khi giải toán có lời văn qua các giai đoạn Ví dụ: Giải toán liên quan đến các đơn vị đo Một cái thùng không có nắp có dạng hình hộp chữ nhật có chiều dài 1,5 m; chiều rộng 0,6 m và chiều cao 8dm. Người ta sơn mặt ngoài của thùng. Hỏi diện tích quét sơn là bao nhiêu mét vuông?( Toán 5/110) - Giai đoạn 1: Sai lầm chưa xuất hiện Biện pháp chủ yếu trong giai đoạn này là trang bị tốt kiến thức bộ môn toán, kiến thức về phương pháp giải toán . Một điều cần lưu ý là ở giai đoạn này, GV có thể dự báo trước các sai lầm, thể hiện qua nhắc nhở và lưu ý của GV đối với HS. Chẳng hạn ở bài toán trên, GV cần lưu ý HS phải chuyển các đơn vị đo của các kích thước về cùng một đơn vị đo là m. - Giai đoạn 2: Sai lầm xuất hiện trong lời giải của học sinh Đây là giai đoạn đòi hỏi GV phải kết hợp được các yêu cầu: kịp thời, chính xác và giáo dục, cùng với sự tích cực hoá hoạt động học tập của HS để vận dụ ng các hiểu biết về việc kiểm tra lời giải nhằm tìm ra sai lầm, phân tích nguyên nhân và tìm hướng giải quyết. Gv có thể sử dụng các hình thức dạy học như: Dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề, dạy học phân hoá đối tượng HS, Ngược lại, nếu giai đoạn này GV không kịp thời phân tích và sửa chữa các sai lầm của HS thì sai lầm sẽ ngày càng trầm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến kết quả dạy học. - Ở ví dụ trên, nếu GV phát hiện thấy có học sinh sai ( chưa đổi về cùng đơn vị đo mà đã giải toán), GV gợi ý để học sinh tự tìm ra sai lầm của mình. GV gợi ý để HS sửa lại cho đúng. GV cũng có thể tổ chức cho HS trong nhóm bàn đổi chéo bài kiểm tra. HS so sánh bài làm của mình với của bạn để biết mình đã sai ở bước nào và tìm cách sủa. Cuối cùng, GV nhấn mạnh những sai lầm mà học sinh mắc phải trong bài toán, nhắc nhở HS cách khắc phục. - Giai đoạn 3: Sai lầm được phân tích và sửa chữa Một sai lầm của HS tuy đã được GV phân tích và sửa chữa, vẫn có nguy cơ tái diễn. Vì vậy GV thường xuyên theo dõi để kịp thời nhắc nhở các em. 20
  8. 7.2.6.6. Trau dồi ngôn ngữ cho học sinh - Việc một HS học tốt môn Tiếng Việt cũng góp phần rất lớn trong quá trình giải toán có lời văn của học sinh. Học sinh sẽ biết đặt những câu lời giải chính xác, khoa học, diến đạt trôi chảy, rõ ràng; lập luận chặt chẽ, logic. Trong một bài toán, GV cần gợi mở để HS tự đặt được nhiều lời giải khác nhau phù hợp với nội dung bài toán. Tuy nhiên, GV cũng nên khuyến khích các em lựa chọn những lời giải nào ngắn gọn nhất, hay nhất. 7.3. Khả năng áp dụng Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng đề tài vào thực tiễn, tôi thấy đề tài nghiên cứu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đạt được mục tiêu dạy học toán nói chung và của môn toán lớp 5 nói riêng, đó là: Các lớp học đối chứng học rất trầm kể cả lớp có học sinh năng khiếu khi chưa đưa SKK vào áp dụng. Các thầy cô giáo lớp đối chứng thì ngại không tham gia thiết kế đồ dùng dạy học, chủ yếu làm là vì trách nhiệm, không nhiệt tình hưởng ứng Các lớp thực nghiệm thì không khí học tập khác hẳn, các em học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chăm chỉ hơn; giáo viên giảng dạy cũng hăng say hơn, hưởng ứng phong trào học tập nhiệt tình hơn. Những em có khó khăn trong cách giải toán có lời văn hay những em lúng túng trong cách ghi câu trả lời thì giờ cũng tiến bộ vượt trội hơn trước rất nhiều. Tôi đã tiến hành thử nghiệm bằng 25 câu hỏi TNKQ (0,4 điểm/1câu) trong thời gian 45 phút sau khi kết thúc chuyên đề SKK này ở mỗi lớp trong giờ học toán tự luyện. - Phương án thử nghiệm 1: cho các lớp 5A, 5D làm lớp thử nghiệm (được học theo phương pháp của SKK này) còn các lớp 5B, 5C làm lớp đối chứng (được học theo phương pháp cũ). Kết quả cụ thể như sau: Điểm 5-6 Số Lớp Điểm dưới 5 Điểm 7-8 Điểm 9-10 HS thử dự nghiệm Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ KS lượng % lượng % lượng % lượng % 5A 32 1 3,1 9 28,1 12 37,6 10 31,2 5D 35 1 2,8 9 25,7 11 31,4 14 40,1 21
  9. Số Điểm 5-6 Lớp Điểm dưới 5 Điểm 7-8 Điểm 9-10 HS đối dự chứng Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ KS lượng % lượng % lượng % lượng % 5B 32 5 15,6 15 46,9 7 21,8 5 15,7 5C 32 4 12,5 16 50 8 25 4 12,5 - Phương án thử nghiệm 2: ở lớp 5A (lớp có học sinh năng khiếu), học sinh có năng lực cao hơn nên không thể thực hiện thử nghiệm với các lớp trên mà tiến hành làm thử nghiệm Test trước khi học và sau khi học phương pháp với mức độ đề khó hơn. Kết quả như sau: Quy ước: 1. - Trước khi học phương pháp 2. - Sau khi học phương pháp Điểm 5-6 Số Điểm dưới 5 Điểm 7-8 Điểm 9-10 Lớp HS 5A dự Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ Số Tỉ lệ KS lượng % lượng % lượng % lượng % 1. 25 1 4,0 10 40,0 7 28,0 7 28,0 2. 25 0 0 2 8,0 12 48,0 11 44,0 - Phân tích, ta thấy kết quả thử nghiệm theo phương án 1 (ở các lớp thường) có: + Tỉ lệ điểm dưới 5 giảm mạnh: =∑(12,9% + 13,3% )/2 - ∑(3,2% + 3,3%)/2 = 9,85%. + Tỉ lệ điểm từ 5 - 6 giảm mạnh: =∑(48,4% + 46,7% )/2 - ∑(29,0% + 30,0%)/2 = 18,05%. 22
  10. + Tỉ lệ điểm 7 - 8 tăng mạnh: =∑(35,5% + 36,7% )/2 - ∑(22,6% + 26,7%)/2 = 11,45%. + Tỉ lệ điểm 7 - 8 tăng mạnh: =∑(32,3% + 30,0% )/2 - ∑(16,1% + 13,3%)/2 = 16,45%. - Phân tích, ta thấy kết quả thử nghiệm theo phương án 2, có: + Tỉ lệ điểm dưới 5 giảm: 4,0% - 0,0% = 4,0%. + Tỉ lệ điểm từ 5 - 6 giảm mạnh: 40,0% - 8,0% = 32,0%. + Tỉ lệ điểm từ 7 - 8 tăng mạnh: 48,0% - 28,0% = 20,0%. + Tỉ lệ điểm 9 - 10 tăng mạnh : 44,0% - 28,0% = 16%. Như vậy, từ kết quả thử nghiệm của cả hai phương án đều cho thấy việc áp dụng " Biện pháp nâng cao chất lượng giải toán có lời văn cho học sinh lớp 5" là có hiệu quả rõ rệt: tỉ lệ điểm dưới 5 giảm mạnh, tỉ lệ điểm từ 5 – 6 cũng giảm tương đối ở các lớp thường và tăng mạnh ở lớp có học sinh năng khiếu, tỉ lệ điểm từ 7 -10 tăng tương đối ở các lớp thường và tăng mạnh ở lớp năng khiếu. Tỉ lệ điểm từ 5 - 6 ở lớp năng khiếu giảm mạnh còn lớp thường giảm tương đối nhưng chấp nhận được vì đã có một tỉ lệ học sinh nhất định ở mức điểm này chuyển lên tỉ lệ của mức điểm từ 7 -10. Qua kết quả cụ thể ở trên, tôi nhận thấy rằng sáng kiến của tôi đưa vào áp dụng không những giúp các em năng động, sáng tạo có kết quả học tập tốt hơn mà còn giúp các em say mê môn học, biết thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, cùng giúp nhau tiến bộ, các em biết nhường nhịn nhau và ngoan hơn trước rất nhiều. Vì vậy tôi nhận thấy rằng đưa trò chơi vào giờ học toán ở tiểu học là cần thiết, nhất là trong giờ học toán ở lớp 5. Sáng kiến này không chỉ đem lại thành công cho giờ học toán mà còn đem lại thành công cho tất cả các giờ học khác. Nó không chỉ áp dụng cho một nhà trường mà nó còn có thể áp dụng trong phạm vi toàn tỉnh. 8. Những thông tin cần được bảo mật (Không có) 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến Điều kiện thường 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến Qua quá trình nghiên cứu, áp dụng đề tài vào thực tiễn, tôi thấy đề tài nghiên cứu đã thu được những kết quả đáng khích lệ, đạt được mục tiêu dạy học toán nói chung và dạy học giải toán có lời văn ở lớp 5 nói riêng, đó là: 23
  11. Các lớp học đối chứng học rất trầm kể cả lớp có học sinh năng khiếu khi chưa đưa sáng kiến vào áp dụng. Các thầy cô giáo lớp đối chứng thì ngại khó, ngại thay đổi, chủ yếu làm là vì trách nhiệm, không nhiệt tình hưởng ứng việc đưa sơ đồ vào giảng dạy Các lớp thực nghiệm thì không khí học tập khác hẳn, các em học tập tích cực hơn, hào hứng hơn, chăm chỉ hơn; giáo viên giảng dạy cũng hăng say hơn, hưởng ứng phong trào nhiệt tình hơn. Những em HS chậm chạp cũng năng động hơn. Những em có tính tự ti cũng hoà nhập với các bạn hơn chất lượng của lớp, khối vượt trội hơn trước rất nhiều. 11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu Số Phạm vi/Lĩnh vực Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ TT áp dụng sáng kiến 1 Bùi Minh Hiền GV lớp 5A trường Môn Toán Tiểu học Hợp Thịnh 2 Nguyễn Ngọc Dung GV lớp 5B trường Môn Toán Tiểu học X Hợp Thịnh, ngày tháng năm Hợp Thịnh, ngày 28 tháng 2 năm 2019 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Trần Thị Nga Lan Phùng Thị Minh 24