Báo cáo giải pháp Một số giải pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán chuyển động đều ở Lớp 5

doc 21 trang trangle23 16/08/2023 1857
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Báo cáo giải pháp Một số giải pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán chuyển động đều ở Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docbao_cao_giai_phap_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_hoc_tot_dan.doc

Nội dung tóm tắt: Báo cáo giải pháp Một số giải pháp giúp học sinh học tốt dạng giải toán chuyển động đều ở Lớp 5

  1. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 d) DẠNG 4: Hai chuyển động cùng chiều, đuổi kịp nhau, lệch thời điểm xuất phát: Đây thực ra cũng là một dạng “biến thể” của dạng 3 (hai chuyển động cùng chiều đuổi kịp nhau, khởi hành cùng lúc). Nếu học sinh nắm được cách giải của các dạng bài cơ bản ở trên và có khả năng tư duy, suy luận tốt sẽ thì sẽ dễ dàng giải được dạng toán này. Ví dụ 1: Một người đi xe đạp từ A đến B với vận tốc 12 km/giờ. Sau 3 giờ, một xe máy cũng đi từ A đến B với vận tốc 36 km/giờ. Hỏi kể từ lúc bắt đầu đi, sau bao lâu xe máy đuổi kịp xe đạp? (Bài tập 1(b)/146 SGK Toán 5) * Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán: v xe đạp = 12 km/giờ t = 3 giờ v xe đạp = 12 km/giờ A B v xe máy = 36 km/giờ C t đuổi kịp = ? giờ + Học sinh nhìn vào sơ đồ và dễ dàng xác định đây là bài toán dạng 3 (hai chuyển động cùng chiều, khởi hành cùng lúc). + Tìm các điều kiện để giải bài toán dạng này thì thấy còn thiếu khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc. Khoảng cách đó chính là độ dài quãng đường AC do xe đạp đi được trong 3 giờ. + Từ định hướng đó, học sinh sẽ giải được bài toán này như sau: Khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc là: 12 x 3 = 36 (km) Hiệu vận tốc của hai xe là: 36 – 12 = 24 (km/giờ) Thời gian đi để xe máy đuổi kịp xe đạp là: 36 : 24 = 1,5 (giờ) = 1 giờ 30 phút Đáp số: 1 giờ 30 phút Ví dụ 2: Một xe máy đi từ A lúc 7 giờ với vận tốc 40km/giờ. Đến 7 giờ 30 phút, một ô tô cũng đi từ A đuổi theo xe máy với vận tốc 60km/giờ. Hỏi ô tô đuổi kịp xe máy lúc mấy giờ? (Bài tập 3/28 BTCC kiến thức và kĩ năng môn Toán 5 – tập hai – Chương trình của SEQAP) Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 13
  2. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 * Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt bài toán: v xe máy = 40 km/giờ v xe máy = 40 km/giờ t1 = 7 giờ t2 = 7 giờ 30 phút A B C v ô tô = 60 km/giờ t2 = 7 giờ 30 phút t đuổi kịp = ? giờ + Nhìn vào sơ đồ, học sinh cũng sẽ xác định được đây là bài toán có dạng giống dạng 3. + Nếu tìm các điều kiện để giải bài toán dạng này thì cũng thấy còn thiếu khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc. Khoảng cách đó chính là độ dài quãng đường AC do xe máy đi được trong khoảng thời gian từ 7 giờ đến 7 giờ 30 phút. + Từ định hướng đó, học sinh lớp tôi đã giải được bài toán này khá tốt như sau: Thời gian xe máy đi từ A đến C là: 7 giờ 30 phút – 7 giờ = 30 phút = 0,5 giờ Khoảng cách ban đầu của hai xe khi chúng xuất phát cùng lúc là: 40 x 0,5 = 20 (km) Hiệu vận tốc của hai xe là: 60 – 40 = 20 (km/giờ) Thời gian đi để ô tô đuổi kịp xe máy là: 20 : 20 = 1 (giờ) Đáp số: 1 giờ e) DẠNG 5: Chuyển động của thuyền lúc xuôi dòng nước và ngược dòng nước: (Đây là nội dung đã được Bộ GD&ĐT giảm tải nhưng tôi cũng xin đề cập đến vì nội dung này giáo viên có thể dùng để bồi dưỡng cho những học sinh có năng khiếu Toán học.) * Để dạy – học tốt nội dung này, tôi đã hướng dẫn để giúp học sinh hiểu rằng: Nếu dòng nước chảy thì bản thân dòng nước cũng là một chuyển Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 14
  3. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 động. Cho nên khi vật chuyển động trên dòng nước thì dòng nước có ảnh hưởng đến chuyển động của vật cụ thể: - Nếu vật chuyển động ngược dòng thì có lực cản của dòng nước. - Nếu vật chuyển động xuôi dòng thì có thêm vận tốc của dòng nước. - Vận tốc xuôi dòng = vận tốc của vật + vận tốc dòng nước - Vận tốc ngược dòng = vận tốc của vật – vận tốc dòng nước Từ đó, ta suy ra được: - Vận tốc dòng nước = (vận tốc xuôi dòng – vận tốc ngược dòng) : 2 - Vận tốc của vật = (vận tốc xuôi dòng + vận tốc ngược dòng) : 2 Ví dụ: Một thuyền máy đi xuôi dòng từ bến A đến bến B. Vận tốc của thuyền máy khi nước lặng là 22,6 km/giờ và vận tốc dòng nước là 2,2 km/giờ. Sau 1giờ 15 phút thì thuyền đến bến B. Tính độ dài quãng sông AB. (Bài tập 4/162 SGK Toán 5) * Giáo viên hướng dẫn học sinh tóm tắt đề toán: t = 1 giờ 15 phút s = ?km A B v dòng nước = 2,2 km/giờ v thuyền máy = 22,6 km/giờ * Dựa vào tóm tắt, học tìm cách giải: - Đề bài yêu cầu tính gì? (Độ dài quãng sông AB) - Muốn tính độ dài quãng sông AB ta phải biết gì? (vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng và thời gian thuyền máy đi từ bến A đến bến B) - Vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng biết chưa? (Chưa) - Dựa vào lưu ý: “Nếu vật chuyển động xuôi dòng thì có thêm vận tốc của dòng nước”. Muốn tìm vận tốc thuyền máy khi xuôi dòng nước ta làm thế nào? (ta lấy: 22,6 + 2,2 = 24,8 (km/giờ) - Thời gian thuyền máy đi từ bến A đến bến B biết chưa? (1 giờ 15 phút) - Muốn tính độ dài quãng sông AB, ta làm thế nào? Đổi: 1 giờ 15 phút = 1,25 giờ 24,8 x 1,25 = 31(km) Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 15
  4. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 Như vậy, dù bài toán về chuyển động đều đang ở dạng nào thì điều quan trọng đối với học sinh là phải biết cách tóm tắt đề toán. Nhìn vào tóm tắt xác định đúng dạng toán để chọn phép tính phù hợp và trình bày bài giải đúng. Khi giải các bài toán dạng này, cần có cách giải linh hoạt, không áp đặt, để học sinh lựa chọn cách giải, lời giải và phép tính giải phù hợp với yêu cầu đặt ra của mỗi bài toán (nhất là khi giải các bài toán có nội dung thực tế). Đặc biệt, khuyến khích và trân trọng những học sinh cố gắng suy nghĩ, tìm tòi những cách giải mới, hay và sáng tạo. Bởi vì quá trình tìm tòi những cách giải khác nhau của bài toán cũng là quá trình rèn luyện trí thông minh, óc sáng tạo và khả năng suy nghĩ linh hoạt cho học sinh. 3.5. Luyện tập – thực hành: Để hình thành kĩ năng giải toán có lời văn cho học sinh mà ở đây là kĩ năng giải các bài toán về chuyển động đều không phải chỉ nói bằng lí thuyết là đủ mà phải luyện tập thường xuyên. Chính vì vậy, trong từng tiết dạy trên lớp, tôi đều hướng dẫn chậm và kĩ ở mỗi dạng bài mới trong SGK. Đối với những học sinh chưa nắm bắt được nội dung bài học ngay trên lớp thì tôi sẽ hướng dẫn lại cho các em trong giờ ra chơi và các tiết ôn luyện. Ngoài những nội dung thực hành (2 tiết / tuần) trong quyển Bài tập củng cố kiến thức và kĩ năng môn Toán (Chương trình đảm bảo chất lượng giáo dục trường học - SEQAP) nhằm góp phần giúp học sinh đạt được chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Toán một cách vững chắc thì mỗi tuần, lớp tôi còn có thêm 1 tiết Luyện Toán. Đây là tiết giúp giáo viên ôn tập, giúp đỡ thêm cho những học sinh còn chưa hoàn thành ở một nội dung Toán học nào đó. Đồng thời, đây cũng là tiết giúp giáo viên bồi dưỡng cho những học sinh có năng khiếu về Toán. Chính vì vậy, khi học đến nội dung giải toán chuyển đều, trong mỗi tiết Luyện Toán, tôi đều giao những bài tập giúp học sinh tự ôn tập và củng cố về dạng bài đang học cũng như những dạng bài đã học ở tiết trước, phải đảm bảo tính vừa sức nhưng tăng dần yêu cầu về kĩ năng vận dụng. Việc kiểm tra bài làm của học sinh được tôi thực hiện đều đặn trong các tiết dạy (dù quỹ thời gian cho một tiết dạy có hạn). Bởi vì theo tôi, việc làm này sẽ giúp giáo viên nắm được mức độ tiếp thu bài, mức độ vận dụng của các em để kịp thời điều chỉnh phương pháp dạy - học, giúp các em dễ hiểu bài Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 16
  5. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 hơn. Nếu những bài tập tôi giao vẫn còn có nhiều học sinh làm sai sót thì tôi sẽ sửa bài, hướng dẫn lại để học sinh nắm và vận dụng được ở những bài học sau. * Việc ghi lời nhận xét (theo Thông tư 30 của Bộ Giáo dục và Đào tạo) vào bài làm của học sinh thật cẩn thận, cụ thể, những lời khen ngợi, động viên, khích lệ tinh thần kịp thời cũng là cách giúp học sinh tự tin, tự hào, trân trọng bài làm đúng của mình, giúp những em làm sai không cảm thấy mất tự tin, mặc cảm và bản thân tự rút kinh nghiệm trong những bài giải sau, cũng như giúp phụ huynh đánh giá đúng thực chất năng lực học tập của con em mình ở lớp. Qua đó, phụ huynh sẽ có biện pháp phối hợp với giáo viên nhằm giúp các em đạt được kết quả tốt nhất khi học giải toán chuyển động đều. * Bên cạnh đánh giá của thầy đối với trò, giáo viên cũng cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh tham gia đánh giá kết quả học tập của bản thân, của bạn một cách khách quan, trung thực. 3.6. Trò chơi học tập: Đối với môn Toán ở Tiểu học, nếu mỗi giáo viên chỉ truyền đạt, giảng giải theo các tài liệu đã có sẵn trong SGK, trong các sách hướng dẫn và thiết kế bài dạy một cách rập khuôn, máy móc thì sẽ làm cho học sinh học tập một cách thụ động. Điều đó sẽ khiến cho việc học tập của các em thật tẻ nhạt, đơn điệu và kết quả học tập thường không cao. Nó là một trong những nguyên nhân gây cản trở việc đào tạo các em thành những con người năng động, tự tin, sáng tạo, sẵn sàng thích ứng với những đổi mới diễn ra hằng ngày. Vì vậy người giáo viên phải gây được hứng thú học tập cho các em bằng cách lôi cuốn các em tham gia vào các hoạt động học tập. Trò chơi học tập là một hoạt động mà các em hứng thú nhất. Hiểu được điều đó nên sau mỗi giờ học toán về chuyển động đều, tôi đều tổ chức hoạt động củng cố bài cho học sinh bằng những trò chơi học tập thú vị để củng cố về công thức tính quãng đường, vận tốc, thời gian đi, củng cố kĩ năng giải các dạng toán cơ bản, chuyển đổi các đơn vị đo thời gian, như: -“Tìm nhà cho thỏ” : Học sinh sẽ tìm những chú thỏ có đáp án đúng về tính vận tốc (hoặc quãng đường, thời gian đi, ), về chuyển đổi các đơn vị đo Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 17
  6. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 đại lượng hoặc về thực hiện các phép tính với số vào ngôi nhà phù hợp có chứa đề bài phù hợp. - “Gà mẹ tìm con”: Đưa những chú gà con có đáp án đúng về với gà mẹ (có mang đề bài tương ứng). - “Kết bạn”: Lớp được chia thành 2 đội. Một số bạn của mỗi đội sẽ mang những thẻ từ có chứa đề bài, một số khác sẽ mang thẻ từ có chưa đáp án. Trong thời gian một bài hát, đội nào có nhiều đôi bạn kết hợp đúng sẽ là đội chiến thắng. Những ai chưa tìm được người bạn phù hợp với mình sẽ phải thực hiện theo một “yêu cầu nho nhỏ” của lớp đặt ra. - “Ai nhanh, ai đúng?”, “Tiếp sức”, “Truyền điện”, * Ngoài ra, trong năm học này, tôi đã tổ chức thêm một số hình thức trò chơi mới lạ để thu hút học sinh hứng thú tham gia vào ngay trong từng hoạt động học tập. Đó là: a) “Tôi là ai?”: Học sinh cũng chơi theo đội. Một học sinh được chọn của một đội sẽ đọc bất kì một công thức, quy tắc tính hoặc mối quan hệ giữa hai đại lượng bất kì, chẳng hạn như: “Muốn tìm tôi, bạn phải lấy quãng đường chia cho vận tốc. Đố bạn biết, tôi là ai?” thì một học sinh được chỉ định của đội bạn phải trả lời là:”Bạn là thời gian đi.”. Nếu đội bạn trả lời đúng thì được ghi nhận bằng 1 bông hoa, nếu sai mà đội nhà trả lời được thì bông hoa đó dành cho đội nhà. b) Đố vui toán học bằng truyện: Tôi đã thay những động tử của các bài toán trong SGK bằng những con vật dễ thương như bác Kiến, chú Ong, cô Bướm, bác Rùa đi dự tiệc bằng ô tô, đặt trong những tình huống truyện cực kì dễ thương và ngộ nghĩnh kèm những số liệu đơn giản (học sinh có thể nhẩm tính được). Mục đích là để rèn cho học sinh khả năng tư duy linh hoạt, nhạy bén, kĩ năng suy luận, tính toán nhanh khi giải các dạng bài về chuyển động đều. c) “Đuổi hình bắt chữ”: HS dựa vào nội dung bức tranh để đoán ra đó là đại lượng gì và nêu quy tắc tìm đại lượng đó. Hoặc dựa vào tình huống trong tranh (thực ra đó là một dạng tóm tắt bài toán bằng tranh cho sinh động), học sinh sẽ suy luận, nhẩm tính và thông báo ẩn số của bài toán. Đây là hình thức mà học sinh lớp tôi hứng thú tham gia nhiều nhất. Song song đó, tôi cũng luôn tạo điều kiện, động viên và khuyến khích những học sinh tiếp thu bài chậm, kĩ năng nhẩm tính, giải toán còn hạn chế Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 18
  7. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 tham gia để vừa giúp các em ôn tập, củng cố vừa tạo hứng thú học tập cho các em. Tất nhiên, thỉnh thoảng cũng cần có những phần thưởng nho nhỏ để động viên, khích lệ tinh thần học tập của các em. Tuy nhiên, giáo viên cũng không nên quá lạm dụng vì dễ biến “trò chơi học tập” thành cuộc tranh đua vì giải thưởng thì sẽ không hay. 4. KẾT QUẢ THU ĐƯỢC: Kết hợp với nền nếp học tập về giải toán đã được hình thành dần ngay từ đầu năm học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh nên khi học về phần giải toán chuyển động đều các em ít bị lúng túng hơn. Qua theo dõi trong quá trình thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh nắm chắc kiến thức, hiểu được bản chất của vấn đề, tiếp thu bài tốt, chất lượng học tập đồng đều hơn. Học sinh ít mắc sai lầm trong quá trình làm bài, tỉ lệ học sinh làm đúng bài tập được nâng lên, không có học sinh nào không làm được bài. Học sinh hứng thú hơn khi học về giải toán chuyển động đều. Điều đó chứng tỏ, những giải pháp mà tôi đã áp dụng đã thu được kết quả tốt. Cụ thể là: Đúng dưới 50% Đúng nhưng còn Chỉ đúng được Đúng hoàn toàn hoặc Thời gian sai sót gần 50% sai hoàn toàn Tổng Tổng Tổng Tổng Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ Tỉ lệ số số số số Giữa HKII 15 39,5% 11 28,9% 12 31,6% 00 00% Ôn tập 25 65,8% 11 28,9% 02 5,3% 00 00% cuối năm Kiểm tra 35 92,1% 02 5,3% 01 2,6% 00 00% CHKII 5. PHẠM VI ỨNG DỤNG CỦA CÁC GIẢI PHÁP TRÊN: Một lần nữa, tôi đã khẳng định được rằng những giải pháp mà tôi đã áp dụng ở trên thực sự có tính hiệu quả và khả thi cao. Dù biết rằng, trong cuộc sống, không có gì là hoàn hảo hết. Và những giải pháp tôi đã áp dụng trên đây chắc chắn cũng chưa phải là giải pháp hay nhất và tốt nhất. Bởi vì để có kết quả giảng dạy tốt đòi hỏi người giáo viên không chỉ yêu nghề, yêu trẻ, nhiệt Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 19
  8. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 tình mà còn phải có một phương pháp giảng dạy tốt. Có một phương pháp giảng dạy tốt là một quá trình tìm tòi, học hỏi và tích lũy kiến thức, kinh nhiệm của riêng bản thân mỗi người. Nhưng sau khi áp dụng các giải pháp trên, tôi nhận thấy học sinh lớp tôi học tốt hơn hẳn mảng giải toán chuyển động đều so với những năm học trước mặc dù kĩ năng tính và giải toán của các em ở đầu năm học thì thua xa những năm học trước. Với những kết quả đã đạt được, tôi tin rằng, nếu mạnh dạn áp dụng thì các giải pháp trên hoàn toàn có thể áp dụng được cho tất cả các lớp 5 ở bất kì trường Tiểu học nào khi giáo viên giảng dạy về phần giải toán chuyển động đều. Điều quan trọng là giáo viên phải có sự tìm tòi, ham học hỏi, phải sáng tạo, linh hoạt, khéo léo trong việc vận dụng, phối hợp nhiều phương pháp và hình thức tổ chức dạy - học khác nhau. Giáo viên cũng cần phải xác định rõ: mình chỉ là người hướng dẫn, đưa ra phương pháp giúp học sinh học tập còn học sinh phải là người hoạt động tích cực tìm tòi và lĩnh hội tri thức để biến nó thành vốn quý của bản thân. Muốn được như vậy, cần phải có sự kiên trì của cả hai phía giáo viên và học sinh trong suốt quá trình học tập của các em. Mặt khác, giáo viên cũng cần trang bị cho học sinh một cách có hệ thống các kiến thức cơ bản về 3 đại lượng: vận tốc, quãng đường, thời gian. Đồng thời, giáo viên cần biết phân dạng, hệ thống hóa các bài tập theo dạng bài, giúp học sinh nắm phương pháp giải từng dạng bài từ đơn giản đến phức tạp. Trong mỗi dạng, cần phân nhỏ từng loại theo mức độ kiến thức tăng dần để khi gặp bài toán chuyển động đều, học sinh phải tự trả lời được: Bài toán thuộc dạng nào, loại nào? Vận dụng kiến thức nào để giải? Giáo viên phải nắm được khả năng của từng học sinh để phân loại các em theo từng nhóm đối tượng giúp các em phát huy được năng lực cá nhân, đặc biệt theo dõi, quan tâm, giúp đỡ nhiều đến những em tiếp thu bài chậm, chưa thành thạo về kĩ năng giải toán giúp các em mạnh dạn, tự tin và cố gắng vươn lên trong học tập. Trong mỗi giờ học Toán, giáo viên cần tạo không khí học tập thoải mái, thân thiện “chơi mà học, học mà vui”; phải lắng nghe, tạo điều kiện để các em được nói, được trình bày ý kiến, suy nghĩ sáng tạo của mình một cách mạnh dạn, tự tin; thường xuyên kiểm tra, nhận xét, sửa bài, biểu dương kịp thời học sinh tiến bộ, đồng thời nghiêm khắc phê bình với những thái độ học tập thiếu trách nhiệm. Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 20
  9. PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CẦN GIUỘC Đề tài sáng kiến kinh nghiệm TRƯỜNG TIỂU HỌC PHƯỚC VĨNH ĐÔNG Năm học: 2015 - 2016 Học sinh Tiểu học nói chung và học sinh lớp 5 nói riêng còn rất bỡ ngỡ trước một số thao tác tư duy như so sánh, phân tích, , khả năng khái quát thấp, nếu có thì chỉ có thể dựa vào dấu hiệu bên ngoài. Việc rèn cho học sinh khả năng tư duy độc lập, suy luận logic để tìm ra “ẩn số” của bài toán bằng những câu hỏi gợi mở phải được tiến hành đồng bộ, thường xuyên ngay từ khi học sinh bắt đầu làm quen, bắt đầu học về giải toán có lời văn, nhất là học những dạng giải toán cơ bản ở các lớp dưới. Và một điều quan trọng là phải biết khơi gợi trong các em sự tò mò, hứng thú học tập, không nản chí trước những khó khăn trước mắt. Ban giám hiệu nhà trường, tổ khối chuyên môn nên có những buổi sinh hoạt chuyên đề về cách giải những dạng toán điển hình để giáo viên có điều kiện được học tập, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau. Qua đó sẽ góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả của việc giảng dạy môn Toán trong nhà trường Tiểu học. Đồng thời, nhà trường và gia đình cần chuẩn bị tốt những phương tiện hỗ trợ để các em có được sự thoải mái khi học tập. Vì thời gian có hạn và năng lực nhận thức còn hạn chế nên khó tránh khỏi những thiếu sót. Tôi cũng rất mong nhận được những đóng góp chân thành của anh chị em đồng nghiệp và các cấp lãnh đạo để những giải pháp của tôi được hoàn thiện hơn, giúp học sinh lớp tôi học tốt hơn mảng kiến thức này trong những năm học tiếp theo. Thủ trưởng đơn vị xác nhận, đề nghị Người viết (ký, đóng dấu) (ký, ghi rõ họ tên) Võ Thị Phương Diễm Người viết: Võ Thị Phương Diễm Trang 21