SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 5

doc 19 trang binhlieuqn2 03/03/2022 7452
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_luong_day_hoc_phan.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn Lớp 5

  1. làm của mình. Khi thấy một HS ngồi trước một đề văn trong khoảng 15 đến 20 phút nhưng chưa viết được, GV thường cho rằng các em không nắm được lí thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng nguyên nhân đầu tiên làm các em không có hứng thú viết là do các em đã không tạo được một quan hệ thân thiết giữa mình và đề bài- đối tượng của miêu tả, kể , nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết về cái đó. Nguyên nhân của tình trạng trên là việc thiếu hụt vốn sống, vốn cảm xúc. Vì vậy phải bồi dưỡng vốn sống cho các em. Trước hết đó là vốn sống trực tiếp: GV cho các em quan sát, trải nghiệm những gì sẽ phải viết. Ví dụ GV cần hướng dẫn HS quan sát con đường từ nhà đến trường trước khi yêu cầu tả nó, hoặc GV tổ chức cho các em tham quan một danh lam thắng cảnh của địa phương trước khi yêu cầu các em tường thuật một buổi tham quan. Tất nhiên, GV cần làm cho vốn sống thực này không cản trở trí tưởng tượng phong phú của HS. Nhưng trí tưởng tượng dù bay bổng đế mấy vẫn phải có cơ sở, bắt nguồn từ đời sống thực. Một em HS ở vùng núi xa xôi chưa từng thấy cánh đồng rộng bao la hoặc biển thì không thể tả được cánh đồng hoặc biển và có cảm xúc với nó. Cũng như những học sinh khác không thể tả cây chuối đang trổ buồng, cây bàng đang thay lá khi chưa hề nhìn thấy chúng lần nào Khi HS tham quan hoặc quan sát, GV nên đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được, những gì đã được mắt thấy, tai nghe. Những bài văn không phải chỉ bị chi phối bởi đích giao tiếp mà còn bị chi phối bởi đối tượng giao tiếp. Trong đời sống thường ngày, HS phải tiếp xúc với nhiều người khác nhau và trong từng trường hợp cụ thể ấy các em cũng sẽ giữ những “vai” khác nhau. Chính “vai” giao tiếp này buộc các em trau dồi thêm vốn sống lựa chọn chi tiết để nói, chọn ngôn từ để thể hiện. 2/ Hình thành, bồi dưỡng các kỹ năng về tập làm văn cho học sinh: a). Bồi dưỡng kỹ năng quan sát- tìm ý - lập dàn bài chi tiết: - Giáo viên phải nắm vững yêu cầu của tiết quan sát và tìm ý gồm hai mặt: + Chuẩn bị kiến thức phục vụ cho việc làm một đề văn theo yêu cầu đầu bài đã cho. + Hình thành phương pháp và kĩ năng quan sát. - Rèn kĩ năng quan sát cho học sinh: + Khi quan sát phải sử dụng các giác quan như mắt, tai, mũi, lưỡi để nhìn, nghe, sờ, ngửi, nếm nhằm nhận biết sự vật về hình dạng, màu sắc, âm thanh, mùi vị + Quan sát nhằm nhận ra những nét độc đáo đặc biệt của đối tượng chứ không phải thống kê tỉ mỉ trung thực mọi chi tiết về sự vật. + Trong khi quan sát còn luôn gắn với cảm xúc, với kỉ niệm, với cuộc sống cá nhân của người quan sát. Từ đó gắn chặt với các hoạt động liên tưởng so sánh, tưởng tượng, hồi tưởng của từng cá nhân. 11
  2. + Từ việc quan sát học sinh tìm được từ ngữ diễn tả đúng và sinh động những điều đã quan sát được. + Hướng dẫn học sinh lựa chọn trình tự quan sát: Trình tự không gian: quan sát toàn bộ đến quan sát từng phần, từ trái sang phải, từ trên xuống dưới, ngoài vào trong hoặc ngược lại. + Trình tự tâm lí: Thấy nét gì nổi bật thu hút bản thân, gây cảm xúc mạnh cho bản thân hứng thú hay khó chịu, yêu hay ghét ) thì quan sát trước, các phần khác quan sát sau. Phần trọng tâm bài thì quan sát kĩ lưỡng hơn. + Hướng dẫn học sinh sử dụng các giác quan để quan sát. Đây là thao tác quan trọng nhất và có tính chất quyết định về nhiều mặt. Thông thường học sinh chỉ dùng mắt để quan sát do đó kết quả thu được thường là các nhận xét và cảm xúc gắn liền vời thính giác (hình dáng, màu sắc, đường nét, độ xa, gần ) đó là mặt mạnh và cũng là một nhược điểm của học sinh. Chúng ta cần lưu ý các em dùng thêm các giác quan thích hợp khác để quan sát. ví dụ quan sát giờ ra chơi sân trường em ngoài việc dùng mắt để quan sát các trò chơi còn phải sử dụng tai để nghe âm thanh của tiếng nói, cười, tiếng động các trò chơi và từ đó liên tưởng, so sánh, cảm xúc của bản thân. + Tổ chức quan sát và tìm ý: Học sinh phải được quan sát trực tiếp cảnh vật và người. · Học sinh tự làm việc, tự quan sát, tự ghi chép là chính. Sự quan sát của học sinh phải được hướng dẫn cụ thể bằng hệ thống câu hỏi gợi ý. Ví dụ: để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau: Đọc kĩ đề bài, phát hiện thể loại? · Trọng tâm của đề bài là gì? (Chú ý đứng ở chỗ nào quan sát được toàn cảnh sân trường) Khung cảnh và không khí của sân trường trước giờ ra chơi? (yên ắng, vắng vẻ, bầu trời ) Cảnh sân trường trong giờ ra chơi: + Âm thanh lúc đó? (ồn ào) + Học sinh các lớp ra sân như thế nào? + Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? nói? các nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường? có thể tả cảnh thiên nhiên xen kẽ lúc này. + Chú ý tả kĩ các nhóm chơi vui điển hình: nhảy dây, đá cầu, kéo co, cướp cờ. mèo đuổi chuột + Tả kĩ hoạt động của vài cá nhân tiêu biểu. Ví dụ: Hãy quan sát trò chơi đá cầu: + Có mấy người tham gia? + Thái độ của các cổ động viên xung quanh? Quả cầu được đưa qua, đưa lại bằng những pha đẹp mắt như thế nào? + Tiếng cổ động viên reo hò ra sao ? Tiếng hò reo, cổ vũ lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết thúc . Chú ý các trò chơi đều tả sự hoạt động vui chơi nhộn nhịp, vui vẻ. - Lúc có tiếng trống báo vào lớp: + Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào? 12
  3. + Trên khuôn mặt một số bạn còn biểu hiện luyến tiếc cuộc chơi? + Không khí trên sân trường lúc này ra sao? (im ắng, gió thổi, lá cây , bầu trời?) - Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi: + Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi? Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trò? Sau khi đã quan sát được học sinh sẽ tự sắp xếp ý để lập dàn bài chi tiết theo sự hướng dẫn của giáo viên trong tiết Lập dàn bài chi tiết cụ thể trong sách giáo khoa. Từ tiết Lập dàn bài cho đến tiết miệng học sinh tiếp tục quan sát trong các giờ ra chơi để bổ sung cho bài của mình mà qua tiết Lập dàn bài mình thấy còn thiếu. b) Bồi dưỡng kỹ năng trong bước Tập làm văn nói. Đây là phần khó khăn nhất đối với học sinh. Từ các ý quan sát tìm được, học sinh phải sắp xếp thành câu văn và nói được trước lớp. Khi nói phải đảm bảo phát âm đúng, dùng từ ngữ chính xác, đặt câu đúng ngữ pháp , câu ngắn gọn, rành mạch, rõ ràng, làm cho người nghe tiếp nhận được một cách có hiệu quả tốt nhất. Biết sử dụng giọng nói, điệu bộ diễn tả nhằm hỗ trợ cho việc thể hiện nội dung. Ở tiết này học sinh nói được càng nhiều càng tốt. Không nhất thiết nói lên phải chuẩn ngay (vì học sinh đang tập nói), có thể câu còn lủng củng, thiếu từ, sai lỗi. Học sinh và giáo viên chú ý theo dõi, à hướng sửa lỗi câu văn hay hơn, đúng hơn. Nếu học sinh bí từ, giáo viên có thể cung cấp thêm từ cho học sinh để có những câu văn sinh động hấp dẫn, từ đó mà phát triển tư duy và ngôn ngữ cho học sinh. (chú ý trong diễn tả lời văn phải tự nhiên, chân thành và giản dị). Trong tiết này giáo viên cần tạo ra không khí hào hứng, kích thích học sinh muốn nói và mạnh dạn nói từ đó hướng dẫn các em cách nói sao cho đạt hiệu quả tốt nhất Sau tiết này giáo viên dặn học sinh về viết nháp bài văn này để giờ sau có tiết viết. Qua tiết miệng học sinh tự bổ sung cho bài văn của mình hay hơn. Ngoài ra, sau những tiết miệng ngoài việc học sinh phát hiện từ hay trong khi bạn nói để bổ sung cho bài của mình, tôi còn cung cấp cho các em một số từ hay phục vụ cho từng bài. Ví dụ: ở bài tả giờ ra chơi tôi cung cấp những từ sau: + Bước chân: thoăn thoắt. + Điệu bộ: Bẽn lẽn, bình thản, hăng hái, láu táu + Giọng nói, thái độ, nụ cười: liến thoắng, pha trò, hả hê. + Tình cảm, tâm trạng: thoả thích, sảng khoái, khoái chí, sửng sốt, kinh ngạc c. Rèn kĩ năng viết văn cho học sinh. * Viết đoạn văn: Muốn viết được một bài văn hay thì người giáo viên cần hướng và rèn luyện cho học sinh viết câu, đoạn cho tốt sau đó mới có thể viết được bài văn. Ở đây học sinh đã được rèn luyện viết câu rất kĩ, kế đó là viết đoạn văn. Chính vì vậy trong lớp 5 giáo viên chú trọng vào viết đoạn văn cho học sinh. Khi viết giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng viết được câu mở đoạn cho học sinh, từ câu mở đoạn mới có thể triển khai viết thành một đoạn văn. Trong đoạn văn cần 13
  4. chú ý cho học sinh cách tả theo trình tự lô gic nhất định, tránh tình trạng tả đi tả lại chỉ một vấn đề. Khi viết đoạn văn cần chú ý nhắc học sinh tránh lỗi lặp từ, nhiều học sinh đã mắc rất nhiều lỗi đó là lỗi lặp từ, lặp ý trong cùng một đoạn văn. Cần nhắc học sinh khi miêu tả chúng ta cần tả kĩ các chi tiết để tránh tình trạng học sinh mới viết được 5 đến 7 câu là đã tả xong cảnh vật đó mà không còn biết tả gì nữa. Tức là học sinh miêu tả một cách rất chung chung đại khái không đi sâu vào nội dung chi tiết cảnh vật tả - Học sinh viết đoạn văn theo yêu cầu của giáo viên: - Học sinh viết bài, sau đó cho học sinh đọc bài của mình giáo viên cùng cả lớp nhận xét về bài làm đó. - Mỗi lần học sinh viết giáo viên nên gợi ý cho học sinh thấy đâu là câu mở đoạn trong đoạn văn. Từ câu mở đoạn đó triển khai viết từ câu mở đoạn đó. Ví dụ: Câu mở đoạn là: “Quê hương em rất đẹp.” Vậy quê em đẹp như thế nào thì phân tích và miêu tả ra trong các câu tiếp theo. Khi hết đoạn cần có câu kết đoạn. Viết cả bài văn. Dựa trên quá trình viết đoạn văn thì học sinh có thể viết được cả bài văn, giáo viên lưu ý cho học sinh viết bài văn có đủ ba phần. Mở bài, thân bài, kết bài. * Phần mở bài: - Để viết một bài văn hoàn chỉnh có ý văn tốt giáo viên rèn cho học sinh cách mở bài. Cũng có thể rèn cho học sinh cách mở bài theo kiểu dán tiếp, hay trực tiếp tùy theo khả năng tiếp thu làm việc của học sinh. Nhưng tốt nhất giáo viên nên rèn cho học sinh viết mở bài theo kiểu dán tiếp tức là tả vòng vo loanh quanh sau đó đi vào ý chính cần tả. - Giáo viên cho học sinh tập viết phần mở bài sau đó cho học sinh đọc và các bạn khác nhận xét bài viết của học sinh xem đã đúng theo chủ đề chưa, mở bài vậy đã hay chưa. Nếu học sinh viết chưa được giáo viên nên cho học sinh viết lại, lúc này các bạn viết tốt hơn làm tư vấn cho bạn mình hoàn thiện bài viết. Giáo viên là người cuối cùng đưa ra nhận xét và kết luận. * Thân bài: Phần thân bài cũng có thể hướng cho học sinh viết thành nhiều đoạn, mỗi đoạn là một ý khác nhau, tả một cảnh vật và đi chi tiết của canh vật đó. - Trong mỗi đoạn khi miêu tả cần chú ý chi học sinh về sử dụng các hình ảnh so sánh, nhân hóa trong văn miêu tả. Hướng cho học sinh vận dụng các giác quan tham gia vào việc miêu tả như mắt, mũi, tai, xúc giác, - Giáo viên cho học sinh viết phần thân bài sau đó đọc cho cả lớp cùng nghe rồi nhận xét, đánh giá các ý mà học sinh viết. Những bài đạt chất lượng là những bài có cách viết trôi chôi chảy, các ý diễn ra một cách tư nhiên. Học sinh biết sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hóa, liên tưởng một cách phù hợp. Bài viết có vận dụng các giác quan vào việc miêu tả một cách linh hoạt và khoa học. Bài viết phải có hồn khi đọc bài lên thì hình ảnh phải được hiện lên trước mắt người đọc. Nếu đạt được như thế thì đó là bài văn thành công. - Nếu bài viết chưa đạt đạt các ý trên, thì giáo viên phải động viên các em đó viết lại, có thể tham khảo những bạn có bài văn thành công. Nếu như học sinh viết 14
  5. vẫn chưa được thành công lắm thì giáo viên nên đưa ra các hình ảnh, tranh ảnh minh họa hay một đoạn video về phong cảnh và chỉ dẫn cho học sinh miêu tả từng bước một. (Về hình ảnh, video giáo viên có thể sử dụng trình chiếu). * Kết bài: - Đây cũng là một phần rất quan trọng trong bài văn, nó đóng một phần thành công hay thất bại của bài văn mà mình đã làm. Cũng tương tự như phần trên giáo viên nên cố gắng rèn cho học sinh viết bằng được phần này. Khi học sinh viết tốt thì giáo viên nên động viên khích lệ tinh thần học tập của học sinh. * Dựa vào yêu cầu bài tập (hay đề bài) để viết một đoạn văn (hay bài văn), HS có thời gian suy nghĩ, tìm cách diễn đạt (dùng từ, đặt câu, sử dụng các biện pháp so sánh, nhân hoá, ) thuận lợi hơn làm văn nói. Tuy nhiên, HS cũng cần đạt được những yêu cầu rèn luyện về kĩ năng sản sinh văn bản ở mức cao hơn, lời văn viết vừa cần rõ ý vừa cần sinh động, bộc lộ được cảm xúc; bố cục bài văn cần chặt chẽ, hợp lí ở từng đoạn và cả bài. Các bài học về phân môn TLV trong SGK Tiếng Việt 5 được xây dựng trên cơ sở qui trình sản sinh ngôn ngữ văn bản và chú trọng các kĩ năng bộ phận. Kĩ năng viết của HS được rèn luyện chủ yếu qua các bài tập viết đoạn văn trước khi viết một bài văn hoàn chỉnh. Do vậy, trong quá trình rèn luyện kĩ năng viết, GV cần giúp HS thực hiện tốt những yêu cầu sau: - Phân tích đề bài, xác định nội dung viết; tìm dàn ý, sắp xếp ý để chuẩn bị thực hiện yêu cầu viết theo loại văn, kiểu bài đã học - tương tự một số yêu cầu rèn luyện kĩ năng nói. - Tập viết đoạn văn đảm bảo sự liên kết chặt chẽ về ý: Viết các đoạn phần thân bài, viết đoạn mở bài (trực tiếp, gián tiếp), viết đoạn kết bài (mở rộng, không mở rộng) sao cho có sự liền mạch về ý, các ý trong được diễn tả theo một trình tự nhất định nhằm minh hoạ, cụ thể hoá ý chính. - Viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung và thể hiện cụ thể: Các đoạn văn trong một bài phải liên kết với nhau thành một văn bản hoàn chỉnh, được bố cục chặt chẽ theo ba phần (mở bài, thân bài, kết bài). Lời văn trong bài cần phù hợp với yêu cầu nội dung và thể loại. Ví dụ: + Tả đồ vật thường dung nhiều từ ngữ gợi rõ hình dạng, đặc điểm, so sánh, nhân hoá làm cho đồ vật được miêu tả thêm sinh động. + Tả cây cối thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, màu sắc, hương thơm, mùi vị; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để gợi ra hình ảnh cây cối ở thời kì phát hay mùa khác nhau. + Tả con vật thường dùng nhiều từ ngữ gợi rõ hình dáng, màu sắc, âm thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, trạng thái của con vật; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh, nhân hoá để tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ gần gũi với con người. 15
  6. + Tả cảnh thường dụng nhiều từ ngữ gợi tả hình dạng, đặc điểm; có thể so sánh, nhân hoá làm cho cảnh vật được miêu tả thêm sinh động; cần bộc lộ cảm xúc trước sự vật được miêu tả trong cảnh. + Tả người thường dùng nhiều từ ngữ gợi tả hình dáng, màu sắc, âm thanh; từ ngữ chỉ hoạt động, đặc điểm, trạng thái của người; có thể sử dụng biện pháp liên tưởng, so sánh để miêu tả cho sinh động và bộc lộ mối quan hệ tình cảm với người được tả. + Tường thuật: Lưu ý xen tả và bộc lộ cảm xúc khi cần thiết làm bài văn thêm hấp dẫn. d) Trả bài Tập làm văn. Để có thể làm tốt một bài tập làm văn (nói hay viết) ngoài những kỹ năng nói, học sinh còn cần được rèn luyện thêm kĩ năng sửa chữa, rút kinh nghiệm, nhằm đạt kết quả ngày một cao hơn. Tập nhận xét bạn trong giờ Tập làm văn nói, tự rà soát và sửa chữa bài nháp của mình hay bài viết chính thức ở lớp, rút kinh nghiệm và tự sửa chữa trong giờ trả bài, tất cả đều giúp học sinh luyện tập hình thành kĩ năng và thói quen “tự điều chỉnh”, tự học tập để luôn tiến bộ. Tiết “Trả bài viết” có ý nghĩa quan trọng đối với việc rèn luyện kĩ năng nói rong tiết Tập làm văn miệng. So với các tiết khác (Lập dàn bài – nói), tiết trả bài cần được giáo viên chuẩn bị công phu từ lúc chấm bài, thống kê lỗi, nhận xét khái quát về bài làm, chuẩn bị dẫn chứng, minh hoạ đến khi soạn giáo án cụ thể cho tiết trả bài. Việc hướng dẫn học sinh học tập trên lớp cũng đòi hỏi sự gợi mở, dẫn dắt và ứng xử linh hoạt của giáo viên nhằm giúp các em tự phát hiện nhận thức được ưu, khuyết điểm trong bài viết của mình. Qua đó, học sinh có ý thức viết bài ngày càng tiến bộ và có kết quả cao hơn. Sau tiết học này tôi thường nhắc học sinh về làm lại và tôi chấm lại cẩn thận cho các em. Cách làm này làm cho học sinh tăng thêm hứng thú khi học môn này. KẾT QUẢ: Qua việc vận dụng những biện pháp trên vào thực tế dạy - học Tập làm văn ở lớp tôi đã đem lại kết quả rất khả quan. 1. Về học sinh: - Hầu hết học sinh đều ham thích và hứng thú học tập phân môn này, các em không còn có biểu hiện ngại học mỗi khi nhắc đến nó. - Học sinh học tập trong không khí tự nhiên thoải mái, tích cực và hào hứng nhất là vào tiết làm bài xây dựng đoạn mở bài, xây dựng đoạn kết bài hay viết một đoạn văn ngắn phần thân bài. Ngoài việc các em nêu lên ý kiến diễn đạt của mình mà các em còn nhận xét được ý vừa nêu của bạn theo nhận thức của em một cách chân thật nhất. - Các em có điều kiện để bộc lộ những khả năng tư duy, hiểu biết, khả năng diễn đạt, sáng tạo, phát triển vốn từ, trí thông minh và óc sáng tạo mà ở một số em yếu cũng đã nhận thức được. Để thực hiện bài văn thì ta phải thực hiện như thế nào là đúng nhất về phần cấu tạo của thể loại văn đó mặc dù ý diễn đạt của em yếu vẫn còn hạn chế theo mức độ của em. - Trong văn nói các em mạnh dạn hơn, diễn đạt lưu loát đầy đủ ý. Trong văn viết các em tiến bộ rõ rệt so với đầu năm học, khắc phục được nhược điểm về đặt 16
  7. câu, đồng thời biết lựa chọn từ ngữ, hình ảnh phù hợp để đặt câu, làm cho câu văn, đoạn văn và bài văn thêm sinh động phong phú hơn. - Kết quả học tập của học sinh ở phân môn Tập làm văn qua các kì kiểm tra được nâng lên một cách rõ rệt. - Trong đợt chuyển giao chất lượng cuối năm số học sinh đạt 33/33 em chiếm tỉ lệ 100%. 2. Về giáo viên: - Sau mỗi tiết dạy Tập làm văn, tôi cảm thấy lòng mình thanh thản và tự tin khi học sinh học tập tích cực chủ động, sáng tạo và ngày càng tiến bộ. - Bản thân không còn cảm thấy ái ngại và khó khăn mỗi khi đến tiết dạy phân môn Tập làm văn. III. KẾT LUẬN: III.1. Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài. Việc nâng cao chất lượng dạy Tập làm văn lớp 5 với mục tiêu chính là bồi dưỡng lẽ sống, tâm hồn, khả năng tư duy và năng lực ngôn ngữ, cảm thụ văn chương cho học sinh, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại. Góp phần phát triển bốn kỹ năng sử dụng Tiếng Việt cho học sinh bởi các hoạt động dạy học phân môn Tập làm văn rất gần với cuộc sống thực tế. Góp phần khơi dậy, nuôi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt. Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh các kĩ năng sản sinh ra văn bản (nói và viết). Nhờ vậy, Tiếng Việt không chỉ là hệ thống cấu trúc được xem xét từng phần, từng mặt qua từng phân môn mà nó trở thành một công cụ sinh động trong quá trình giao tiếp, tư duy, học tập. Nói cách khác, phân môn Tập làm văn đã góp phần thực hiện hóa mục tiêu quan trọng bậc nhất của việc dạy và học Tiếng Việt là dạy học sinh sử dụng Tiếng Việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh hội các tri thức khoa học Để học sinh có kĩ năng viết văn đúng ngữ pháp, sử dụng hình ảnh sinh động, từ ngữ phong phú, nâng cao được năng lực tư duy lôgich và tư duy hình tượng đòi hỏi phải có sự kiên trì, bền bỉ, sự nổ lực cố gắng của cả thầy và trò. Qua một năm đúc kết kinh nghiệm và thực hiện các biện pháp mà bản thân đã có những trăn trở và tìm kiếm đồng thời với sự hỗ trợ tích cực của đồng nghiệp, việc dạy học phân môn Tập làm văn ở lớp tôi phụ trách đã đạt được những kết quả đang phấn khởi. Từ kết quả thực tế đó, xin được rút ra một số bài học cơ bản sau đây để chia sẻ cùng với các đồng nghiệp. Bài học kinh nghiệm: - Bản thân giáo viên cần nhận thức rõ, để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập làm văn không nên nóng vội bỏ qua các khâu cần thiết mang phải sử 17
  8. dụng đồng bộ các biện pháp, từ việc dạy tốt các phân môn Tiếng Việt để học sinh có vốn kiến thức, nâng cao năng lực về cảm thụ văn học, đến việc bồi dưỡng vốn sống trong thực tế cho học sinh, hình thành các kỹ năng về Tập làm văn (quan sát, lập dàn ý, viết đoạn, viết thành bài). - Trong việc tổ chức cho học sinh hoạt động học tập, giáo viên thường xuyên kiểm tra, phát hiện ra những chỗ “hỏng” kiến thức và kỹ năng của từng học sinh để kịp thời giúp các em bổ sung cho đầy đủ kịp thời. Nhất là phải thường xuyên cho học sinh ôn luyện, củng cố những kiến thức đã học một cách linh hoạt, lồng ghép vào các hoạt động tìm hiểu kiến thức mới nhằm khắc phục tận gốc những sai sót, hạn chế của học sinh. - Luôn tạo bầu không khí vui tươi, tự nhiên, thoải mái, kích thích học sinh hứng thú hoạt động học tập để phát huy vốn sống, khả năng diễn đạt trong văn nói cũng như trong văn viết. - Hình thức dạy học phải đa dạng, phong phú tạo cho học sinh môi trường học tập tích cực, chủ động và sáng tạo. Học sinh có điều kiện được bộc lộ những khả năng sẵn có, tích luỹ và phát triển vốn từ ngữ, rèn luyện kĩ năng lựa chọn, sử dụng từ phù hợp, giàu hình ảnh, gợi tả, gợi cảm để học sinh có những câu văn hay, đoạn văn hay và cả bài văn hay. - Cần khuyến khích học sinh tham khảo những bài văn hay để học cách diễn đạt, cách sử dụng từ ngữ, hình ảnh sinh động Nhưng thật nghiêm khắc đối với học sinh chép văn mẫu, dễ làm các em khó phát triển về khả năng tư duy, óc sáng tạo, dần dần học sinh có thói quen ỷ lại và lười biếng. Giáo viên cũng cần lưu ý chỉ chấm bài, sửa bài đối với những bài văn thực chất của học sinh, không chấm những bài văn chép từ văn mẫu. Có như vậy mới giúp các em rèn luyện được khả năng tự học, tự bồi dưỡng cho mình. - Trên đây chỉ là một vài kinh nghiệm nhỏ trong việc giảng dạy phân môn Tập làm văn lớp 5 của cá nhân tôi. Trong quá trình nghiên cứu, trình bày không tránh khỏi những thiếu sót, kính mong quý thầy cô và các bạn đồng nghiệp đóng góp ý kiến chân thành để sáng kiến kinh nghiệm của tôi ngày càng hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! III.2. Những kiến nghị đề xuất. Trên đây là những kinh nghiệm được rút ra từ thực tế hoạt động dạy học phân môn Tập làm văn của bản thân, tuy vậy đang ở mức khái quát chung của phân môn. Nếu đề tài này được thành công thì tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu, tìm tòi để đề ra nhiều giải pháp, nhằm nâng cao chất lượng dạy – học phân môn Tập làm văn ở cấp bậc Tiểu học theo từng thể loại trong những năm học tới. 18
  9. Mong đồng nghiệp có sự chia sẻ và có sự quan tâm tiếp nối rút kinh nghiệm phát triển theo chiều sâu về dạy học phân môn Tập làm văn, nhất là nâng cao chất lượng từng thể loại tập làm văn ở lớp 5. Tháng 5 năm 2015 ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC HUYỆN LỆ THỦY 19