Sáng kiến kinh nghiệm Một vài giải pháp dạy tập viết cho học sinh Lớp 2

doc 19 trang thulinhhd34 7023
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một vài giải pháp dạy tập viết cho học sinh Lớp 2", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_vai_giai_phap_day_tap_viet_cho_hoc.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một vài giải pháp dạy tập viết cho học sinh Lớp 2

  1. + Giáo viên nói đến nét nào thì lật từng nét ấy minh họa cho học sinh nhìn rõ. + Giáo viên giới thiệu xong nét nào, yêu cầu học sinh nhắc lại tên nét chữ ấy và giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Để hoàn thành một con chữ thì các con cần viết mấy nét và đó là những nét nào?” - Tác dụng của đồ dùng: + Giúp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách rõ ràng, dễ hiểu, sinh động, hấp dẫn. + Giúp học sinh nắm rõ cấu tạo, kích thước của con chữ cần viết. + Giáo viên cũng có thể dùng đồ dùng này hướng dẫn học sinh cách viết một con chữ hoàn chỉnh. Ví dụ: Trong bài Tập viết “Chữ hoa A” (lớp 2), giáo viên dùng que chỉ và đưa ra hệ thống câu hỏi: (?) Các con nhìn lên bảng và cho thầy biết đây là chữ gì? (chữ A hoa) (?) Chữ A hoa được cấu tạo bởi mấy nét? (gồm 3 nét) (?) Cho cô biết nét thứ nhất của chữ A hoa là nét gì? (nét 1 gần giống nét móc ngược (trái) và hơi lượn ở phía trên và nghiêng về phía bên phải). (?) Nét thứ 2 là nét gì? (giáo viên lật trang thứ ba ra và yêu cầu học sinh nêu: nét 3 là nét lượn ngang) Giáo viên chốt lại bằng câu hỏi: “Chữ A hoa gồm mấy nét chữ ghép lại?” * Đồ dùng viết hoàn chỉnh một chữ cái bằng cách di chuyển nam châm (dùng để hướng dẫn các nét tạo thành con chữ): - Mục đích sử dụng của đồ dùng: Giúp học sinh điều chỉnh 1 chữ cái đúng yêu cầu từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc. - Cách làm đồ dùng: + Một tờ bìa cứng khổ A4 có in mẫu chữ hoa hoặc thường theo đúng quy định. + Hai viên nam châm tròn, một viên có dán giấy màu đỏ ở trên, một viên để nguyên. - Cách sử dụng đồ dùng: 7
  2. Giáo viên dùng thao tác viết ở phía sau tờ bìa bằng cách di chuyển viên nam châm không có giấy màu đỏ. Di chuyển viên nam châm đúng theo quy trình viết một con chữ từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút để viên nam châm có dán giấy màu đỏ phía trước đúng khi giáo viên viết một con chữ cái. Ví dụ: Hướng dẫn bài Tập viết “Chữ A hoa” Giáo viên giảng: Từ điểm đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc ngược (trái) từ dưới lên, nghiêng về bên trái và lượn ở phía trên, dừng bút ở đường kẻ 6. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút viết nét móc ngược phải, dừng bút ở đường kẻ ngang 2, (vừa nói, giáo viên vừa di chuyển viên nam châm ở phía sau tờ bìa). (?) Đến đây, cô đã viết xong chữ A chưa? Giáo viên giảng tiếp: Cô lia bút lên khoảng giữa của thân chữ (trên đường kẻ ngang thứ 3 một chút), viết nét lượn ngang mềm mại chia đôi con chữ. -Tác dụng của đồ dùng: + Giúp học sinh biết cách viết liền nét từ điểm đặt bút đến điểm kết thúc nét bút mà không nhấc bút. + Giúp học sinh hình dung rõ quy trình viết hoàn chỉnh một con chữ mà không hề bị tay hay người của giáo viên trong quá trình viết che khuất. + Đồ dùng sinh động với sự di chuyển chấm đỏ trên chữ mẫu rất thu hút sự chú ý của học sinh. 7.2.3. Sử dụng những phương pháp hiệu quả trong dạy tập viết thông qua các tiết học tập viết a. Phương pháp kể chuyện nêu gương Khi dạy tập viết cho học sinh, điều quan trọng là phải gây được hứng thú, làm cho học sinh yêu thích rèn viết chữ từ đó các em say mê và quyết tâm rèn chữ cho đẹp. Giáo viên có thể nêu những gương sáng về rèn chữ viết, cần nêu ngay những gương người thật việc thật, ví dụ: Em A chữ viết đẹp nhất trường, các em hãy quan sát chữ viết của bạn và học tập. Giáo viên có thể phô tô các bài viết của học sinh đạt giải cấp thành phố, cấp tỉnh, cấp quốc gia để làm mẫu cho các em, đồng thời động viên các em nếu cố gắng, kiên trì rèn luyện thì chữ viết 8
  3. của các em cũng đạt được như vậy thậm chí có thể đẹp hơn. Khi đã gây được hứng thú cho học sinh, lúc đó các em rất thích rèn viết chữ đẹp. Cô giáo lúc này sẽ cung cấp các bài tập để rèn kĩ năng viết. b. Phương pháp đàm thoại gợi mở Sử dụng trong giai đoạn đầu của tiết học để hướng dẫn học sinh phân tích nhận xét cấu tạo của chữ cái, độ cao, độ rộng con chữ, nét giống nhau và khác biệt giữa con chữ mới với con chữ đã học từ trước. Giáo viên đặt câu hỏi và định hướng cho học sinh trả lời. c. Phương pháp trực quan Trong luyện viết cho học sinh thì đồ dùng trực quan có tác dụng không nhỏ, nó hỗ trợ và là phương tiện giúp cho việc luyện viết của học sinh. Những đồ dùng này nhằm mục đích là giúp học sinh khắc sâu những biểu tượng về chữ viết, có ý thức viết đúng mẫu và tạo không khí sôi nổi, phấn chấn trong quá trình dạy viết chữ theo hướng “Đổi mới phương pháp dạy học”. Đồ dùng trực quan có thể sử dụng trong quá trình dạy bài mới, luyện tập hoặc củng cố bài học. Sử dụng khi hình thành biểu tượng về chữ cho các em. Phương tiện trực quan là chữ mẫu: Chữ mẫu in sẵn, chữ phóng to trên bảng, chữ trong vở tập viết, hộp chữ mẫu, hoặc một bài viết đẹp, chữ của giáo viên khi sửa chấm bài Chữ mẫu phải đúng quy định, rõ ràng và đẹp. Bảng mẫu chữ cần cố định thường xuyên để giáo viên có thể chủ động sử dụng khi cần thiết không chỉ trong giờ Tập viết mà ngay trong cả những môn học khác khi có học sinh viết chưa đúng mẫu chữ. Để việc rèn chữ được lồng vào trong tất cả các môn học hiệu quả, ở trường tôi các bảng đều được kẻ ô li để giáo viên dễ dàng trong việc rèn chữ cho các em. Cần đưa giáo cụ trực quan là chữ viết mẫu được in sẵn từng chữ cái, bảng chữ cái. Đây là việc làm để cung cấp cho học biểu tượng về chữ viết, chưa cung cấp được kĩ năng viết. Ngoài việc đưa chữ mẫu, chữ phóng to trên bảng thì quan trọng nhất vẫn là nét chữ giáo viên. Chữ giáo viên phải chuẩn, đúng mẫu, biết được học sinh viết đúng chỗ nào và sai chỗ nào, chỗ nào cần chỉnh sửa đó là 9
  4. điều quan trọng nhất. GV viết chưa đẹp, chưa đúng thì HS không thần tượng, đã không thần tượng thì các em chê liền. Khi dạy chữ viết giáo viên vừa viết, vừa phân tích từng nét của chữ cái hoặc từng kĩ thuật nối liền nét các con chữ trong một chữ. Việc viết mẫu của giáo viên còn có tác dụng tạo niềm tin cho học sinh, mặt khác học sinh cũng dễ tiếp thu hơn, tạo điều kiện cho việc rèn kĩ năng viết liền mạch, viết nhanh. Khi chấm bài, chữa bài, lời phê, chữ viết của giáo viên được học sinh quan sát như một loại chữ mẫu. Vì vậy giáo viên cũng phải chú ý rèn chữ viết cho mình được đúng mẫu, rõ ràng, đều, đẹp. Ngoài ra khi dạy viết chữ giáo viên cũng chú ý đọc mẫu các chữ đó. Đọc đúng cũng góp phần quan trọng để đảm bảo viết đúng. Điều quan trọng nhất khi dạy viết chữ hoa vẫn là cho học sinh biết điểm đặt bút và điểm dừng bút để học sinh viết đúng quy trình viết chữ. Ví dụ: Hướng dẫn bài Tập viết “Chữ A hoa” Giáo viên treo chữ mẫu và giảng: Từ điểm đặt bút ở đường kẻ ngang thứ 3, viết nét móc ngược (trái) từ dưới lên, nghiêng về bên trái và lượn ở phía trên, dừng bút ở đường kẻ 6. Từ điểm dừng bút của nét 1, chuyển hướng bút viết nét móc ngược phải, dừng bút ở đường kẻ ngang 2, (vừa nói, giáo viên vừa di chuyển viên nam châm ở phía sau tờ bìa). Giáo viên giảng tiếp: Cô lia bút lên khoảng giữa của thân chữ (trên đường kẻ ngang thứ 3 một chút), viết nét lượn ngang mềm mại chia đôi con chữ. d . Phương pháp luyện tập thực hành Sử dụng để hình thành kĩ năng viết chữ cho học sinh. Đây là một phương pháp cực kì quan trọng. Chữ viết, tập viết chữ có tính chất thực hành. Phải thường xuyên nhắc nhở học sinh ở mọi lúc mọi nơi, không chỉ ở môn tập viết mà còn ở tất cả các môn khác, môn nào cũng cần chữ viết để ghi nội dung bài. Các bài tập cho học sinh luyện tập cần chú ý. Các chữ có nét giống nhau thì cùng xếp vào một nhóm để rèn. Rèn chữ với số lượng ít nhưng lặp lại nhiều lần với yêu cầu cao dần. Cho học sinh viết đi viết lại nhiều lần một bài để giáo viên dễ dàng nhận ra lỗi sai của học sinh đồng thời cũng dễ nhận xét sự tiến bộ của học sinh. Hướng dẫn học sinh luyện tập phải tiến hành từ thấp nên cao, tăng dần 10
  5. độ khó để học sinh dễ tiếp thu: viết đúng rồi viết nhanh viết đẹp. Việc luyện chữ phải được tiến hành một cách đồng bộ ở lớp cũng như ở nhà, phân môn tập viết cũng như các môn khác, môn học khác. Khi học sinh luyện tập viết chữ, giáo viên cần chú ý uốn nắn để các em cầm bút đúng và ngồi đúng tư thế. Nơi ngồi viết cần phải đảm bảo đủ ánh sáng, ghế ngồi viết phải phù hợp với chiều cao của học sinh. *Các hình thức luyện tập: + Tập viết chữ trên bảng lớp: Khi kiểm tra bài cũ, hoặc sau bước giải thích cách viết chữ, bước luyện tập viết chữ ở lớp. + Tập viết chữ vào bảng con của học sinh: Trước khi tập viết giáo viên cần chú ý nhắc nhở học sinh lau bảng từ trên xuống, cách sử dụng và bảo quản phấn, cách lau tay sau khi viết. Khi viết xong giơ bảng lên để kiểm tra theo lệnh của giáo viên. Cần chú ý giữ trật tự trong lớp khi dùng hình thức này và nên tận dụng hai mặt bảng. + Luyện tập trong vở tập viết: Giáo viên cần hướng dẫn tỉ mỉ nội dung và yêu cầu về kĩ năng của từng bài viết. Trước khi học sinh viết giáo viên cần nhắc nhở một lần nữa về tư thế ngồi viết cách cầm bút và để vở. + Luyện tập viết chữ khi học các môn học khác: Giáo viên phải có những yêu cầu về chữ viết của học sinh khi học những môn học khác. Coi chữ viết là một trong những tiêu chuẩn kiểm tra và đánh giá tất cả các môn học. e. Phương pháp chia nhóm Căn cứ vào đặc điểm của từng chữ cái, căn cứ vào các nét đồng dạng giữa các chữ cái trong bảng chữ cái, căn cứ vào kích thước quy trình viết các chữ cái. Chúng ta có thể chia nhóm chữ như sau: * Chữ thường có thể chia làm 3 nhóm. - Nhóm 1 : i, u, ư, t, p, y, n, m, v, r, s - Nhóm 2 : l, b, h, k - Nhóm 3 : o, ô, ơ, a, ă, â, d, đ, q, g, c, e, ê, x 11
  6. Cần chú ý khi dạy các chữ thường là phân tích kĩ chữ đầu tiên của nhóm. Dựa vào nét chữ đồng dạng với đầu nhóm, giáo viên cho học sinh tự rèn các chữ còn lại chú ý nhắc học sinh rèn kĩ các nét cơ bản. * Chữ hoa. Dựa và các nét chữ đồng dạng ta chia chữ cái viết hoa thành các nhóm như sau: - Nhóm 1 gồm các chữ: A, Ă, Â, M, N - Nhóm 2 gồm các chữ: P, R, B, D, Đ - Nhóm 3 gồm các chữ: C, E, Ê, G, L, S, T - Nhóm 4 gồm các chữ: I, K, H, V - Nhóm 5 gồm các chữ: O, Ô, Ơ, Q, Q - Nhóm 6 gồm các chữ: U, Ư, X, Y -Việc chia nhóm như vậy sẽ giúp học sinh so sánh được cách viết các chữ, tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau. Từ đó, học sinh nắm chắc được cách viết và các em sẽ viết được chuẩn hơn, đẹp hơn. Vì vậy, tôi cũng cho các em luyện thêm cách viết theo nhóm trong các tiết hướng dẫn học ôn tập. - Để phục vụ tốt cho việc dạy bằng phương pháp chia nhóm tôi có một đĩa Flash về cấu tạo các loại chữ hoa do trung tâm Ánh Dương tặng, nhằm cho học sinh thấy được cấu tạo các con chữ, điểm đặt bút, dừng bút cũng như quy trình viết chữ hoa một cách rõ nét hơn. Khi dạy và minh họa bằng đĩa này tôi nhận thấy tiết học rất sinh động, gây được chú ý và hứng thú học tập cho học sinh khi học môn tập viết và các em viết chữ hoa cũng đúng mẫu hơn. Đưa Flash vào dạy tập viết chính là điểm mới trong sáng kiến kinh nghiệm của tôi so với các sáng kiến kinh nghiệm của những năm trước mà tôi tham gia dự thi. 7.2.4. Tư thế ngồi và cách cầm bút Để giúp các em viết được những nét chữ, đúng mẫu, đẹp tôi đã hướng dẫn cả lớp tư thế ngồi viết: “Em phải ngồi tư thế ngay ngắn, lưng thẳng, không được tì ngực vào cạnh bàn, đầu hơi cúi, mắt cách trang giấy khoảng 25 – 30 cm”. Tư thế ngồi viết không ngay ngắn sẽ ảnh hưởng rất lớn đến chữ viết. Ngồi nghiêng vẹo sẽ kéo theo chữ viết không thẳng, bị lệch dòng. Không những thế còn có hại cho sức khoẻ: sẽ bị cận nếu chúi sát vở, vẹo cột sống, gù lưng, phổi bị ảnh 12
  7. hưởng nếu ngồi viết không ngay ngắn. Trước mỗi giờ viết bài, đặc biệt là giờ học Tập viết tôi thường yêu cầu các em nhắc lại tư thế ngồi viết câu hỏi: “Muốn viết đẹp con phải ngồi thế nào?”. Dần dần, các em sẽ có thói quen ngồi đúng tư thế. Tư thế ngồi học đúng Tư thế ngồi học sai Một việc hết sức quan trọng giúp cho việc viết chữ đẹp là cách cầm bút và cách đặt vở trên bàn. Điều này các em được tôi hướng dẫn kỹ càng: “Khi viết, các con cần cầm bút bằng 3 ngón tay (ngón trỏ, ngón cái, ngón giữa) của bàn tay phải, Đầu ngón trỏ đặt ở phía trên, đầu ngón giữa phía bên trái, phía bên phải của đầu bút tựa vào đầu đốt giữa ngón tay giữa”. Tôi cũng lưu ý các em cầm bút vừa phải. Vì nếu cầm bút sát ngòi hoặc quá xa ngòi bút thì việc điều khiển bút khi viết sẽ khó khăn, làm cho chữ xấu mà mực dễ bị giây ra tay, ra vở. Còn vở viết khi viết bài, tôi cũng luôn hỏi lại học sinh cầm bút và cách đặt vở. Những yếu tố tưởng chừng không quan trọng nhưng thực chất đã góp phần tích cực vào việc rèn chữ cho học sinh. 13
  8. Cách cầm bút đúng Cách cầm bút sai 7.2.5. Rèn kỹ năng viết cho học sinh Trong quá trình dạy Tập viết và trong các hướng dẫn học, tôi sẽ củng cố, nhắc lại và khác sâu cho các em nhớ lại cách viết tử những ngày đầu các em cầm bút ở lớp 1. - Trước tiên, giáo viên cần hướng dẫn học sinh nhớ các đường kẻ trong bảng con và trong vở Tập viết. Việc này góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy viết chữ. 5 4 3 2 1 + Bảng con: 1. Đường kẻ ngang trên 3. Đường kẻ ngang dưới 2. Đường kẻ ngang giữa 4. Đường kẻ ngang phía dưới Có những chữ cái cao hơn một đơn vị được xác định bằng đường kẻ ngang trên và đường kẻ ngang dưới: a, o, c 14
  9. Có những chữ cái cao 2 đơn vị rưỡi được xác định bằng đường kẻ ngang trên, đường kẻ ngang giữa và đườn kẻ ngang dưới: b, g, h + Vở Tập viết (vở in và vở ô li): Vở tập viết của các em đã có sẵn đường kẻ, giáo viên cần hướng dẫn để các em nắm được một số quy ước về cách gọi. - Giúp học sinh củng cố, nhớ lại và nắm chắc các nét cơ bản: Như nét khuyết trên, nét khuyết dưới-nét móc hai đầu, nét móc phải, nét móc trái Từ những nét cơ bản này, các chữ cái sẽ được tạo thành. Với một số kinh nghiệm bản thân cùng với sự trao đổi, học hỏi đồng nghiệp, tôi nhận thấy: nếu học sinh viết các nét cơ bản không đúng, không đẹp thì việc viết xấu, viết sai là điều không tránh khỏi. Vì vậy tôi sẽ củng cố lại cho các em cách viết các nét cơ bản. Chú ý điểm đặt bút, dừng bút. Chẳng hạn với nét khuyết xuôi (), nét khuyết ngược (), học sinh không rèn viết ngay từ đầu thì dễ viết lệch, xấu sẽ dẫn đến những chữ được tạo bởi 2 nét đó như: h, k, g, y cũng không được đẹp và đây cũng là 2 nét khó mà học sinh thường lúng túng khi viết. Chú ý: nét khuyết phải tròn, thon đều, không to quá, cũng không nhỏ quá hoặc không bị vuông đầu và đặc biệt điểm gặp nhau của hai nét phải ở đường kẻ 2 từ dưới lên (với nét khuyết xuôi), đường kẻ 1 (với nét khuyết ngược). Không chỉ vậy, muốn học sinh viết đẹp thì với những chữ khó viết, tôi thường cho các em luyện viết lên bảng nhiều, đến khi nào học sinh viết tương đối đồng đều thì lúc đó mới viết vào vở. Những học sinh nào viết bảng xấu, chậm, tôi thường xuống tận nơi cầm tay uốn nắn các em viết đúng. - Hướng dẫn viết nối nét: Khi học sinh đã viết các con chữ đúng mẫu, thì việc hướng dẫn nối chữ cũng rất quan trọng. Học sinh biết cách nối chữ thì bài viết mới rõ ràng đều và đẹp được hơn nữa mới đảm bảo được tốc độ viết ở những lớp trên. Tôi hướng dẫn kỹ học sinh cách điều tiết điểm DB của chữ đứng trước sao cho hợp lý. Ví dụ chữ “uê”. Cần điều tiết điểm bắt đầu của chữ ê đi sau thấp xuống một chút và kéo dài, nét kết thúc của chữ cái đứng trước lên cao một chút. 15
  10. + Ngoài ra giáo viên phải lưu tâm nhắc nhở học sinh viết chữ bằng một con chữ không tưởng tượng. Viết sát quá hoặc xa quá đều không được. + Tầm quan trọng của viết dấu thanh: Dấu thanh không được viết to quá, bé quá và phải viết đúng vị trí. Thực tế trong những năm dạy Tiếng Việt lớp 2 tôi thấy học sinh thường mắc tình trạng các dấu thanh viết cao quá, ảnh hưởng lớn đến chất lượng chữ viết. Tôi luôn nhắc học sinh dấu viết vừa phải và gần chữ nhưng không được dính vào chữ. Và đặc biệt lưu tâm đến những em hay viết dấu sai vị trí thường gọi lên bảng viết nhiều lần để các bạn nhận xét - Với học sinh Tiều học, nhất là học sinh đầu cấp, thường hiếu động, thiếu kiên trì nên nhiều em không tự giác khi viết bài. Các em muốn viết thật nhanh chóng cho hết bài để chơi. Để khắc phục điều này, tôi có quy định với học sinh: viết từng dòng theo hiệu lệnh của cô. Nhờ vậy, tránh được tình trạng viết nhanh, viết ẩu trong quá trình viết của học sinh. Đặc biệt, với những em viết đẹp, có nhiều cố gắng thì tôi sẽ cho điểm động viên, tuyên dương trước lớp để các em khác nhìn vào noi theo. - Với học sinh, việc củng cố bài của giáo viên cũng góp phần rất quan trọng để tạo hứng thú cho học sinh, Giáo viên có tiến hành theo cách sau để thu hút học sinh đến với các giờ Tập viết theo: + Cho học sinh nhận xét bài viết của bạn và bài viết của chính mình để các em nhận ra những điểm được và chưa được để sửa chữa. + Cho học sinh luyện viết lại những chữ chưa đạt yêu cầu. + Tổ chức một số trò chơi để tránh căng thẳng, mệt mỏi cho học sinh: Thi viết chữ đẹp, Thi viết nhanh + Sau khi học sinh viết xong bài, giáo viên cần chấm điểm ngay một số vở, sửa lỗi sai cho học sinh: tuyên dương những bài viết tốt. - Với những bài viết chưa đẹp, viết ẩu thì ngoài việc kèm thêm ở lớp, tôi còn trực tiếp gặp gỡ phụ huynh của em đó trao đổi và cùng ra hướng giải quyết hay thống nhất cách dạy nhằm giúp học sinh tiến bộ hơn. Với việc làm này cùng với sự chỉ bảo của giáo viên ở trên lớp mà những em viết xấu, viết ẩu ở lớp tôi hiện nay cũng tiến bộ nhiều. 16
  11. 7.2.6. Các giải pháp mới Để đạt được những kết quả trên bản thân tôi đã tìm ra cho mình một số giải pháp như sau: - Thường xuyên tự học, tự bồi dưỡng, nắm chắc phương pháp dạy tập viết lớp 2. - Rèn chữ dựa trên sự nhận thức và sự khéo léo của từng học sinh. - Không làm thay, viết thay học sinh mà tổ chức các hoạt động rèn chữ cho học sinh. - Cho học sinh rèn chữ ở lớp cũng như ở nhà. - Học sinh phải tự viết đúng theo mẫu chữ dưới sự hướng dẫn của giáo viên. - Tạo không khí vui vẻ để học sinh thi đua, hợp tác với nhau trong quá trình luyện chữ. - Luôn tìm tòi và đổi mới phương pháp dạy học, sử dụng một số đồ dùng trực quan đơn giản để thu hút sự chú ý của học sinh vào bài viết. Ngôn ngữ của giáo viên giản dị, ngắn gọn, rõ ràng để học sinh nắm bắt một cách dễ dàng. 8. Những thông tin cần được bảo mật: không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến - Cơ sở vật đảm bảo cho công tác giảng dạy và học tập của giáo viên và học sinh. - Các cấp lãnh đạo Đảng và chính quyền địa phương quan tâm, tạo điều kiện giúp đỡ để nhằm nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến a. Về phương pháp hình thành kiến thức: - Phương pháp này không chỉ giúp các em học sinh lớp 2 nâng cao kĩ năng và cải thiện chữ viết, đặc biệt là viết chữ hoa mà còn giúp các em hình thành những kĩ năng rất tốt trong học tập như sự kiên trì, bền bỉ; tính cẩn thận, khéo léo, óc thẩm mỹ 17
  12. - Tạo không khí vui vẻ để học sinh thi đua, hợp tác với nhau trong quá trình tập viết để tiến tới luyện viết chữ đẹp. b. Về quá trình nghiên cứu của giáo viên - Đã xác định đúng mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài. - Làm rõ được cơ sở lý luận và cơ sở thực tiễn của việc dạy học. - Thể hiện được sự nhiệt tình, năng nổ, sáng tạo của mỗi giáo viên trong quá trình dạy học. - Thấy được những sai sót của học sinh, qua đó tìm ra những nguyên nhân dẫn đến những sai lầm, thiếu sót đó của học sinh để có hướng khắc phục và giúp học sinh được học tập tốt hơn. c. Kết quả việc vận dụng kiến thức của học sinh Do nắm được vai trò quan trọng của môn Tập viết nên những việc làm trên đã được tôi tiến hành một cách thường xuyên trong các giờ Tập viết. Nếu so với đầu năm, nhiều em còn viết ẩu, viết xấu, thậm chí còn lệch dòng kẻ, sai cỡ chữ thì chữ viết của học sinh lớp tôi tương đối đều, bài viết sạch đẹp; tốc độ viết của học sinh đã nhanh hơn, tỉ lệ viết đúng, viết đẹp của học sinh cũng nâng lên. Cụ thể là: - Nhiều em viết chữ đúng chuẩn, đẹp, sạch. - Một số em thời gian đầu chữ viết xấu, nét nguệch ngoạc, nét hất chưa chuẩn nhưng càng về sau chữ viết của các em càng tiến bộ. Cụ thể: chữ viết của các em tương đối đều, thẳng hàng, đúng mẫu chứ quy định và đạt được tốc độ yêu cầu đối với học sinh lớp 2 theo từng giai đoạn. - Vở viết của học sinh sạch và đẹp, không nhàu nát, bài viết cẩn thận. - Lớp đạt lớp “Vở sạch chữ đẹp” – Đứng đầu khối 2 và đứng đầu toàn trường. Qua thử nghiệm dạy tập viết cho học sinh lớp 2 ở các năm học trước (Chương trình cải cách giáo dục) với cách dạy tập viết ở chương trình mới trong năm học này, tôi áp dụng dạy tập viết ở lớp mình, bước đầu thu được kết quả khả quan. Cụ thể trong quá trình giảng dạy ở lớp 2B năm học 2018 - 2019 Trường tiểu học Hoàng Hoa như sau: 18
  13. TSHS Các lần khảo sát A B C TS % TS % TS % Lần 1 (Tháng 9/2019) 20 57,1 10 28,6 5 14,3 Học kì I Lần 2 (Tháng 12/2019) 25 71,4 10 28,6 0 0 35 Lần 3 (Tháng 2/2019) 30 85,7 5 14,3 0 0 Học kì II Lần 4 (Tháng 2/2019) 35 100 0 0 0 0 Đó là những kết quả bước đầu khi tôi áp dụng sáng kiến này. Với kết quả khả quan như trên tôi thiết nghĩ sáng kiến kinh nghiệm này có thể vận dụng ở các trường Tiểu học; đặc biệt là ở khối lớp 2. 11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu Số Tên tổ chức/cá nhân Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực TT áp dụng sáng kiến 1 Trường Tiểu học Xã Hoàng Hoa- Một vài giải pháp dạy tập viết Hoàng Hoa Tam Dương- cho học sinh lớp 2 tại Trường Vĩnh Phúc Tiểu học Hoàng Hoa Hoàng Hoa, ngày 26 tháng 2 năm 2019 Hoàng Hoa, ngày 18 tháng 2 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Trần Trung Kiên Nguyễn Văn Đăng 19