Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Sinh học

doc 20 trang binhlieuqn2 07/03/2022 5841
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Sinh học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_nang_cao_hieu_qua_su_dung_do_dung_day.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Nâng cao hiệu quả sử dụng đồ dùng dạy học môn Sinh học

  1. - Khuyến khích giáo viên tự làm đồ dùng dạy học và đề nghị BGH khen thưởng kịp thời những cá nhân có thành tích, đồng thời phê bình những cá nhân ít sử dụng đồ dùng dạy học. - Cần phải nắm bắt cách sử dụng một số bộ thí nghiệm thực hành khó để hướng dẫn cho một số giáo viên có kĩ năng thực hành còn hạn chế. 2.3.2.3. Đối với giáo viên - Phải xây dựng kế hoạch chi tiết cho việc sử dụng các loại đồ dùng dạy học cho cả năm học, từng tuần dạy và gửi kế hoạch này đến bộ phận phụ trách thiết bị. Để thuận lợi cho việc sắp xếp trong phòng thiết bị và thuận lợi cho việc mượn trả. - Hàng tháng các tổ phải cử giáo viên sắp xếp lại các đồ dùng dạy học: cất bớt những đồ dùng dạy học đã sử dụng và trưng bày những đồ dùng sắp sử dụng. - Phải có ý thức bảo quản các loại đồ dùng dạy học đồng thời phải tăng cường việc tự làm đồ dùng dạy học đơn giản như: vẽ tranh, tạo các mô hình, những thí nghiệm. 2.3.3. Phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học trong giảng dạy Đồ dùng dạy học là phương tiện chuyển tải thông tin, điều khiển mọi hoạt động nhận thức của học sinh từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng. Tạo điều kiện thuận lợi cho học sinh tiến hành các hoạt động dưới sự hướng dẫn của giáo viên để phát hiện nội dung kiến thức giúp hình thành và phát triển năng lực cho học sinh. Tùy theo nội dung kiến thức, loại đồ dùng và hình thức tổ chức dạy học mà ta sử dụng các phương pháp khác nhau. Tuy nhiên, trong quá trình dạy học, các đồ dùng có thể được sử dụng theo các phương pháp sau: - Có thể dùng phương pháp: quan sát + hoạt động nhóm; quan sát + vấn đáp; để phát hiện nội dung kiến thức từ các đồ dùng. 7
  2. - Hoạt động cá nhân hay nhóm, tiến hành các thí nghiệm để phát hiện ra nội dung kiến thức - Đối với mẫu vật quá nhỏ có kích thước hiển vi, ngoài việc tổ chức cho học sinh: tự làm tiêu bản để quan sát mẫu vật dưới kính hiển vi; quan sát mẫu vật dưới kính hiển vi (những tiêu bản có sẵn), nếu có điều kiện dùng máy chiếu hiển vi để tăng độ phóng đại, tạo điều kiện cho cả lớp có thể quan sát cùng một lúc. - Khi học sinh tự mình nghiên cứu, tìm hiểu, phát hiện nội dung kiến thức sẽ giúp các em hiểu bài tốt, ghi nhớ lâu, và vận dụng tốt các kiến thức đã học vào thực tế cuộc sống 2.3.4. Áp dụng cụ thể việc sử dụng đồ dùng dạy học vào bộ môn Sinh học Để phát huy tính năng động năng lực tự học của học sinh, người giáo viên đứng trên bục giảng phải có phương pháp và nghệ thuật giảng dạy phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí và lứa tuổi học sinh đặc biệt là phải thật sự hấp dẫn, lôi cuốn học sinh bằng nhiều hình thức tổ chức khác nhau, chúng ta không thể giả thuyết ngay vào đầu học sinh mà phải đưa vấn đề vào tình huống, đi từ gần đến xa, từ dễ đến khó, từ trực quan sinh động đến từ tư duy trừu tượng. Đây chính là yếu tố quan trọng nhằm giúp học sinh phát hiện ra các tình huống có vấn đề và nảy sinh nhu cầu giải quyết các vấn đề mới phát hiện ra. Để thực hiện được điều này, đồ dùng dạy học không thể thiếu đối với người thầy trên lớp và đối với học sinh khi nghiên cứu vấn đề. Vì thế đồ dùng dạy học chính là điều kiện, phương tiện để dạy và học. Khi sử dụng các đồ dùng dạy học, nhất là các hiện tượng và mẫu vật sống thường có giá trị rất lớn trong công tác giảng dạy, nói chung là rất sinh động làm hứng thú việc học tập của học sinh, vì ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở nhất là đối với các em đầu cấp rất thích thú tìm tòi học hỏi, khi nhận biết vấn đề gì đó lúc nào cũng muốn rằng chính tận mắt mình chứng kiến sự vật, hiện tượng xảy ra. 8
  3. Đồ dùng dạy học môn Sinh học là những hình tượng, dụng cụ mà học sinh có thể nhìn thấy được, rất đa dạng với nhiều hình thức khác nhau, đồ dùng dạy học có thể được dùng ở nhiều giai đoạn khác nhau trong tiết học, chủ yếu phải trình bày hợp lí nội dung muốn truyền đạt cho học sinh và đòi hỏi sự thu hút được đối tượng cần truyền đạt. Vì vậy đồ dùng dạy học có rất nhiều loại được thể hiện qua từng loại đồ dùng dạy học như sau: 2.3.4.1. Mẫu vật tự nhiên Các mẫu vật tự nhiên dùng trong dạy học thường đảm bảo các yêu cầu sau: - Mẫu vật được mang đến lớp phải đảm bảo tính khoa học, sự phạm, phù hợp với nội dung kiến thức cần hình thành cho học sinh - Mẫu động vật sống có vận động di chuyển, còn hô hấp hoặc còn nguyên vẹn các bộ phận chi tiết. - Mẫu thực vật phải tươi, đủ rễ, thân, lá đủ các yếu tố phục vụ cho nội dung của bài học. Loại đồ dùng dạy học này có giá trị sư phạm cao nhất, nó đảm bảo hình dạng, kích thước, màu sắc tự nhiên. Trong thực tế không phải bao giờ cũng có mẫu vật sống, tươi. Có thể sử dụng các mẫu vật ngâm, ép tuy các mẫu vật này không có giá trị bằng các mẫu vật tươi sống, không giữ được các màu sắc tự nhiên, song đây vẫn là mẫu vật thật. Ví dụ 1: Bài 9 – Sinh học 6: Các loại rễ, các miền của rễ (các loại rễ) GV yêu cầu HS: - Gấp hết sách, vở lại, tập trung hết các rễ của các cây được mang đến lớp lại theo đơn vị nhóm, hoạt động nhóm quan sát các loại rễ trong nhóm và phân chia chúng theo ý tưởng của mình và giải thích tại sao mình phân chia như vậy? - Quan sát hình 9.1 trong SGK, kiểm tra và phân chia lại các loại các loại rễ theo hình vẽ, giải thích cách phân chia của mình - Hoàn thành bài tập điền từ trang 29SGK 9
  4. - Qua đó, học sinh có thể vận dụng kiến thức vào thực tế tự xác định được rễ của các loại cây bất kì thuộc nhóm rễ nào. Ví dụ 2: Bài 17 – Sinh học 8: Tim và mạch máu (cấu tạo tim), giáo viên yêu cầu học sinh hoạt động nhóm: - Quan sát quả tim lợn nêu hình dạng cấu tạo ngoài của tim - Dùng dao bổ quả tim lợn làm 2, quan sát cấu tạo trong, xác định: tâm thất; tâm nhĩ, van tim, các ngăn tim thông với từng loại mạch nào? (chú ý độ dày thành cơ các ngăn tim), thảo luận nhóm giải thích sự khác nhau đó. - Từ đó HS có thể nêu được cấu tạo tim người và hoàn thành bài tập trang 54 SGK Ví dụ 3: Bài 5 – Sinh 8: Thực hành: Quan sát tế bào và mô, GV chia lớp thành 2 nhóm hoạt động như sau: - Nhóm thứ nhất gồm các tổ 1, 2 tiến hành làm tiêu bản tế bào mô cơ vân để quan sát dưới kính hiển vi - Nhóm thứ 2 gồm các tổ 3, 4 tiến hành quan sát dưới kính hiển vi các tế bào của mô biểu bì, mô sụn, mô xương, mô cơ trơn, mô cơ vân. - Sau đó đổi lại, nhóm thứ 2 làm tiêu bản, nhóm thứ nhất quan sát. Giúp học sinh quan sát được cấu tạo của tế bào, mô động vật đồng thời làm được các tiêu bản để quan sát dưới kính hiển vi 2.3.4.2. Mô hình Trong dạy học sinh học, mô hình thường có các tác dụng dùng để thay thế hay bổ sung các mẫu vật tự nhiên trong các trường hợp như: - Đôi khi không có sẵn hoặc không thể mang mẫu vật thật đến lớp được - Trong một số trường hợp kiến thức là các cơ chế sinh lí xảy ra bên trong cơ thể sinh vật (kiến thức trừu tượng), học sinh không thể quan sát mẫu vật được, giáo viên có thể sử dụng mô hình để giúp các em hình dung, phát hiện kiến thức. 10
  5. - Mô hình có tác dụng phản ảnh được cấu tạo, khái quát và hình dung được rõ ràng các cấu trúc không gian, so với kích thước của mẫu vật thật, sẽ khắc sâu được kiến thức cho các em. Ví dụ 4: Bài 7 – Sinh học 8: Bộ xương Khi dạy các phần chính của bộ xương người giáo viên dùng mô hình bộ xương người, hướng dẫn các em quan sát, thao tác với mô hình để tìm hiểu các phần chính của bộ xương người, các loại xương trong mỗi phần. Giáo viên yêu cầu một học sinh tổng kết lại nội dung kiến thức bằng cách xác định trên mô hình. HS khác nhận xét bổ sung, giáo viên nhận xét, tiểu kết. Lúc đó học sinh sẽ nắm và xác định được các thành phần chính của bộ xương trên cơ thể mình và cấu tạo của mỗi phần. 2.3.4.3. Tranh vẽ, hình ảnh, phim chiếu Trong những trường hợp mô hình không cho phép đi sâu cấu tạo chi tiết của sinh vật, thì tranh vẽ, hình vẽ, phim chiếu chiếm ưu thế hơn, cho phép đi sâu vào các chi tiết cần thiết, giúp cho học sinh có thể hiểu sâu sắc hơn về cấu tạo bên trong của đối tượng đang nghiên cứu, ngoài ra nó còn thay thế mẫu vật thật mà không thể tìm kiếm. Ví dụ 5: Đối với cấu tạo và kích thước của tế bào, sự lớn lên và phân chia của tế bào, cấu tạo miền hút của rễ, các dạng rễ, các dạng thân. Đối với các loại mô của động vật, các cơ quan, các hệ cơ quan Muốn học sinh hiểu bài được tốt thì giáo viên phải sử dụng hình ảnh, tranh vẽ hoặc phim chiếu cho học sinh quan sát, đồng thời rèn luyện cho học sinh kĩ năng về mẫu vật thật hoặc tranh vẽ giống thật thì rất tốt, đôi khi cũng có nhiều phức tạp, có những chi tiết không cần thiết hay bài giảng không đề cập đến, cần được lượt bỏ, chỉ tập trung vào cấu trúc và dấu hiệu cơ bản thì lúc này ta có thể sử dụng các dụng cụ khác để kết hợp, đó là sơ đồ. 2.3.4.4. Sơ đồ 11
  6. Sơ đồ được sử dụng khi trình bày các mối quan hệ giữa các hình tượng trong quá trình Sinh học. Ngoài ra sơ đồ còn giúp cho học sinh có cái nhìn khái quát, tư duy trừu tượng của học sinh phát triển hơn. Ví dụ 6: Khi dạy mục II “Các nhân tố sinh thái” của bài “Môi trường và các nhân tố sinh thái” (Bài 41) Để xác định các nhân tố sinh thái, GV dùng một ví dụ thực tế “Môi trường sống của cây hoa hồng ở trong chậu” để học sinh tìm hiểu và xác định các nhân tố sinh thái. • Cây hoa hồng sống trong chậu chịu tác dụng của những yếu tố nào? • Nhận xét đặc điểm và phân loại các nhân tố đó. • Vẽ sơ đồ thể hiện sự tác động của các nhân tố sinh thái lên cây hoa hồng Học sinh: Trao đổi, thảo luận, liên hệ thực tế xác định các nhân tố sinh thái tác động lên cây hoa hồng, nhận xét và phân loại các nhân tố, sau khi học sinh phân loại được các nhân tố sẽ dễ dàng vẽ được sơ đồ. Giáo viên là người hướng dẫn, cố vấn cho các em giúp các em hoàn thành nhiệm vụ. Đất trong ch ậu Nước và MK hòa tan Nhân tố vô sinh Lượng O2 trong đất Các nhân tố sinh thái Ánh sáng, lượng CO2 (tác động lên hoa hồng) Giun trong đất Nhân tố hữu sinh Vi sinh vật phân giải Sâu hoa hồng Sơ đồ 2.3.4 . Các nhân tố sinh 12 thái tác động lên cây hoa hồng
  7. 2.3.4.5. Hình vẽ của giáo viên trên bảng Hình vẽ của giáo viên trên bảng có giá trị rất lớn, nhất là hình ảnh vẽ đẹp và nhanh, nó giúp cho học sinh theo dõi một cách dễ dàng nội dung của bài giảng khi giáo viên vừa nói vừa vẽ dần một cấu trúc, một sơ đồ nào đó. Ví dụ 7: Khi dạy mục I “Tuần hoàn máu”, bài 16 sinh học 8 “Tuần hoàn máu và lưu thông bạch huyết” Sau khi cho học sinh trao đổi nhóm, tìm hiểu đường đi của máu trong hệ tuần hoàn. Giáo viên yêu cầu học sinh trình bày đường đi của máu trong hệ tuần hoàn. Giáo viên nhận xét bằng cách vừa hướng dẫn vừa vẽ lại đường đi của máu trong hệ tuần hoàn, hướng dẫn đến đâu, giáo viên vẽ đến đó, giúp học sinh theo dõi và so sánh với kết quả các em và sữa chữa sai sót nếu có. Từ đó giáo viên yêu cầu học sinh nhận xét, tiểu kết theo hình vẽ của giáo viên 2.3.4.6. Các đồ dùng tự làm của giáo viên Trong thực tế dạy học, không phải tiết học nào cũng được cung cấp đầy đủ các đồ dùng dạy học như mang muốn của giáo viên. Trong những trường hợp này giáo viên cần phải tự làm các đồ dùng dạy học để phục vụ các tiết dạy của mình sao cho đạt hiệu quả dạy học là cao nhất. Ví dụ 8: Khi dạy phần II, mục 1 “Hình thành phản xạ có điều kiện” trong bài 52 “Phản xạ không điều kiện và phản xạ có điều kiện”. Giáo viên sử dụng đồ dùng dạy học tự làm “mô hình thí nghiệm thành lập phản xạ có điều kiện tiết nước bọt ở chó khi có ánh đèn” Giáo viên nêu tình huống giúp học sinh tư duy, trong thực tế ở các trang trại nuôi cá hoặc nuôi gà khi cho ăn người chủ chỉ cần gõ kẻng để cá (gà) đến ăn. Người chủ làm như vậy là dựa trên cơ sở nào? Qua thí nghệm này chúng ta giải thích được hiện tượng đó. Bất kì động vật nào chúng cũng tạo được 1 thói quen như vậy, phần này chúng ta nghiên cứu ở chó. - Giáo viên biểu diễn thí nghiệm cho học sinh quan sát 13
  8. + Bật đèn chó quay về phía ánh sáng, cho chó ăn chó tiết nước bọt + Kết hợp bật đèn và cho chó ăn nhiều lần, sau đó chỉ cần bạt đèn chó cũng tiết nước bọt. - GV yêu cầu HS nêu hiện tượng quan sát được. Thảo luận nhóm giải thích hiện tượng? Giải thích tại sao chỉ cần bật đèn mà không cho chó ăn chó cũng tiết nước bọt? - GV dùng mô hình thí nghiệm để giải thích cho học sinh + Khi bật đèn tế bào thụ cảm thị giác nhận kích thích phát xung thần kinh hướng tâm (giáo viên bật luồng thần kinh) theo dây thần kinh thị giác về vùng thị giác ở vỏ đại não làm vùng thị giác hưng phấn, tại vùng thị giác sẽ phát xung thần kinh đến tiểu não (giáo viên bật luồng thần kinh), tại tiểu não sẽ phát xung thần kinh đến bắp cơ ở cổ làm chó quây về phía có ánh sáng. + Khi cho chó ăn tế bào thụ cảm vị giác ở lưỡi tiếp nhận kích thích sẽ phát xung thần kinh từ lưỡi về trung khu tiết nước bọt ở trụ não (giáo viên bật luồng thần kinh). Tại trụ não sẽ phát sinh luồng thần kinh (giáo viên bật luồng thần kinh) đến tuyến nước bọt tiết ra nước bọt (giáo viên cho chó tiết nước bọt), đồng thời tại tiểu não sẽ phát sinh luồng thần kinh đến vùng ăn uống ở đại não làm vùng ăn uống hưng phấn (giáo viên bật luồng thần kinh). + Khi bật đèn và cho chó ăn thì vùng ăn uống và vùng thị giác cùng hưng phấn và có sự khuếch tán hưng phấn đó trong não (giáo viên bật luồng thần kinh) +Tiến hành liên tục nhiều lần như vậy sẽ hình thành đường liên hệ tạm thời (giáo viên bật luồng thần kinh) + Khi đường thần kinh liên hệ tạm thời đã được hình thành chỉ cần bật đèn mà không cho chó ăn chó vẫn tiết nước bọt. (Giáo viên làm lại thí nghiệm bật đèn chó tiết nước bọt và giải thích trên mô hình) - Giáo viên yêu cầu học sinh rút ra kết luận. - Giáo viên kết luận kết hợp bấm đèn 14
  9. Khi bật đèn mà không cho chó ăn chó vẫn tiết nước bọt là do: khi mắt tiếp nhận kích thích sẽ truyền theo dây thần kinh thị giác đến vùng thị giác và luồng thần kinh này sẽ theo đường liên hệ tạm thời đến vùng ăn uống ở đại não đến trung khu tiết nước bọt ở trụ não làm xuất hiện luồng thần kinh đến tuyến nước bọt làm tuyến nước bọt tiết nước bọt. Qua phần kiến thức đã hình thành giáo viên yêu cầu học sinh giải thích của hiện tượng ban đầu nêu ra và yêu cầu học sinh thử thành lập 1 phản xạ có điều kiện khác trên giấy 2.3.4.7. Ứng dụng công nghệ thông tin làm đồ dùng dạy học Trong thời đại ngày nay, công nghệ thông tin có vai trò quan trọng trong quá trình dạy học nếu như chúng ta biết cách sử dụng hợp lí. Một trong những vai trò đó là sử dụng công nghệ thông tin làm đồ dùng đồ dùng dạy học. Đôi khi trong một tiết dạy có nhiều đồ dùng cùng loại hay khác loại, mà thiết bị dạy học được cấp phát không đáp ứng được, để tiện trong quá trình dạy học: tiết kiệm thời gian, chi phí làm đồ dùng; dễ vận chuyển, di chuyển trong quá trình dạy học. Đặc biệt khi sử dụng công nghệ thông tin có thể tạo ra các thí nghiệm ảo, các quá trình sinh lí diễn ra trong cơ thể sinh vật giúp học sinh hiểu bài tốt hơn. Ví dụ 9: Khi dạy phần I “Tạo thành nước tiểu” – Bài 39, sinh học 8: “Bài tiết nước tiểu” - GV yêu cầu học sinh nghiên cứu thông tin mục I tạo thành nước tiểu + quan sát hình vẽ 39.1 trang 126 SGK tìm hiểu sự tạo thành nước tiểu, trả lời câu hỏi phần bài tập I - GV sử dụng giáo án powerpoint cho học sinh quan sát tranh Hình 39.1 SGK yêu cầu học sinh trình bày sự tạo thành nước tiểu trong cơ thể người - GV sử dụng giáo án powerpoint cho học sinh quan sát tranh động 3 quá trình tạo thành nước tiểu ở các đơn vị chức năng thận giúp học sinh đối chiếu 15
  10. với kết quả tìm hiểu của mình (sửa sai nếu có) giúp học sinh hiểu rõ và khắc sâu kiến thức. 2.4. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Bản thân đã áp dụng SKKN này trong quá trình giảng dạy cho học sinh trong những năm học 2014 – 2015. Trong quá trình giảng dạy tôi nhận thấy: khi sử dụng đồ dùng dạy học vào giảng dạy đã lôi cuốn được nhiều đối tượng học sinh tham gia, các em dễ hiểu bài, nắm được nội dung kiến thức Đồ dùng dạy học giúp cụ thể hóa những cái quá trừu tượng, giúp trừu tượng hóa và đơn giản hóa những vấn đề cần nghiên cứu, từ đó giúp học sinh thu nhận thông tin về các sự vật, hiện tượng một cách sinh động, đầy đủ, chính xác. Trong tiết học có sử dụng đầy đủ đồ dùng dạy học thì tiết học đó rất sinh động, nhất là các hoạt động của học sinh, dẫn đến nội dung học tập phong phú, nâng cao hứng thú học tập môn học, nâng cao lòng tin của học sinh vào khoa học, giúp học sinh yêu quý thiên nhiên và bảo vệ thiên nhiên, đặc biệt là đối với giới thực vật. Sau khi áp dụng đề tài này tôi đã thu được những kết quả khả quan: - Khi chưa áp dụng: số học sinh nắm bắt kiến thức một cách hời hợt, thụ động, không hiểu bản chất về vấn đề, không giải thích được hiện tượng xảy ra. - Khi áp dụng: hầu hết các em được kích thích hứng thú học tập, chủ động tham gia thảo luận và giải thích một cách sâu sắc các kiến thức * Kết quả đạt được cuối năm học 2014 – 2015 Giỏi Khá T.Bình Yếu Kém Lớp Sỉ số SL % SL % SL % SL % SL % 8B 29 9 31,0 17 58,6 3 10,4 / / 8C 27 6 22,2 16 59,3 5 18,5 / / 16
  11. PHẦN 3 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. KẾT LUẬN Phương pháp này tôi đã áp dụng trong giảng dạy, qua quá trình giảng dạy nhận thấy học sinh lĩnh hội kiến thức tốt hơn, giúp học sinh hiểu và giải bài tập một cách thành thạo, rèn cho học sinh tính chủ động, tính tích cực, phát huy được tính tư duy và óc sáng tạo của học sinh, đặc biệt là kĩ năng quan sát, kĩ năng tư duy ( phân tích, tổng hợp các hiện tượng, rút ra những kết luận có độ tin cậy ), giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian trong mỗi tiết dạy, đồng thời giáo viên chủ động điều khiển hoạt động nhận thức của học sinh một cách tích cực, kiểm tra đánh giá kết quả học tập của học sinh một cách thuận lợi và có hiệu quả. Với sáng kiến kinh nghiệm này, tôi hy vọng sẽ góp một phần nhỏ vào việc giúp giáo viên và học sinh trường chúng tôi nói riêng, các đồng nghiệp và học sinh các trường bạn nói chung khắc phục dần khó khăn, thực hiện việc giảng dạy đạt hiệu quả tốt hơn, góp phần nâng cao hiệu suất lao động của thầy và trò trong sự nghiệp phát triển giáo dục như hiện nay. Về phía bản thân, tôi xin hứa sẽ tiếp tục thừa kế và phát huy những kết quả đã đạt được của việc thực hiện đề tài, đồng thời không ngừng học hỏi rút kinh nghiệm, khắc phục những khó khăn trong giảng dạy để đáp ứng yêu cầu đổi mới ngành. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn đề tài, tất nhiên tôi không thể tránh khỏi những thiếu sót nhất định, rất mong sự góp ý chân thành của quí thầy cô, đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. 3.2. KIẾN NGHỊ GV giảng dạy đóng vai trò rất lớn trong việc hình thành tri thức và phát triển năng lực cho học sinh để quá trình dạy học đạt kết quả cao kính mong 17
  12. các cấp quản lí có thẩm quyền: - Tăng cường tổ chức các buổi sinh hoạt, hội thảo chuyên đề tạo điều kiện cho giáo viên trao đổi và học hỏi kinh nghiệm để thực hiện nhiệm vụ tốt hơn. - Để có được kết quả cao trong việc dạy và học, địa phương, nhà trường cần có sự quan tâm hơn nữa về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy để thuận tiện trong việc dạy - học của giáo viên và học sinh. Các loại đồ dùng dạy học kể trên có tác dụng khác nhau, mong rằng giáo viên bố trí thời gian và lựa chọn sao cho phù hợp với nội dung của bài để bài giảng hợp logic và khoa học hơn. Trên đây là những ý kiến và kinh nghiệm của tôi trong quá trình giảng dạy bộ môn Sinh học. Tôi rất mong nhận được sự góp ý quý báu của Hội đồng xét duyệt SKKN cùng các đồng nghiệp. Tuy nhiên, vẫn sẽ còn nhiều thiếu sót tôi chưa nhận thấy, tôi chân thành mong nhận đựơc nhiều chia sẻ từ đồng nghiệp để tôi có thể trau dồi thêm vốn kinh nghiệm và tầm hiểu biết của mình. Xin trân trọng cám ơn Hội đồng và các bạn đồng nghiệp đã dành thời gian để đọc bài viết này của tôi! Người viết Nguyễn Thị Nhị 18
  13. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nhà xuất bản giáo dục (2003), Sách giáo khoa sinh học 6 2. Nhà xuất bản giáo dục (2003), Sách giáo khoa sinh học 8 3. Nhà xuất bản giáo dục (2003), Sách giáo khoa sinh học 9 4. Nhà xuất bản giáo dục (2007), Sách giáo viên sinh học 6 5. Nhà xuất bản giáo dục (2007), Sách giáo viên sinh học 8 6. Nhà xuất bản giáo dục (2009), Sách giáo viên sinh học 9 7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bồi dưỡng giáo dục thường xuyên THCS chu kì III 8. GS.Nguyễn Văn Lê (1997), Phương pháp luận Nghiên Cứu Khoa Học, Nhà xuất bản trẻ 9. Trần Quý Thắng – Phan Thanh Hiền(2008), Một số vấn đề đổi mới phương pháp dạy học môn sinh học, nhà xuất bản giáo dục 10. Nguyễn Quang Vinh, Trần Doãn Bách, Trần Bá Hoành(1980), Sách lí luận dạy học Sinh học (Tập I,II), Nhà xuất bản giáo dục 11. Nguyễn Quang Vinh (1984), Phương pháp dạy học Sinh học ở trường phổ thông cơ sở ( tập II), Nhà xuất bản giáo dục 12. 19