Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn Sinh học Lớp 8

pdf 16 trang thulinhhd34 19502
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn Sinh học Lớp 8", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_su_dung_phieu_hoc_tap_de_phat_huy_tinh.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn Sinh học Lớp 8

  1. cho dạy và học môn sinh học nói chung và sinh học lớp 8 nói riêng, tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8” nhằm phát huy năng lực độc lập tự nghiên cứu bài học của học sinh trong dạy học sinh học. 2. Tên sáng kiến: “Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8” 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Nguyễn Văn Trường - Địa chỉ tác giả sáng kiên: Trường THCS Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. - Số điện thoại: 0979 866 762 E_mail: nguyenvantruong.c2hoanglau@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Văn Trường 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: Tháng 2/2018 đến tháng 2/2019. 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1.Về nội dung của sáng kiến Phó Giáo Sư-Tiến Sỹ Nguyễn Đức Thành đã khái niệm về phiếu học tập như sau: "Để tổ chức các hoạt động của học sinh, người ta phải dùng các phiếu hoạt động học tập gọi tắt là phiếu học tập. Còn gọi cách khác là phiếu hoạt động hay phiếu làm việc. Phiếu học tập là những tờ giấy rời, in sẵn những công tác độc lập hay làm theo nhóm nhỏ, được phát cho học sinh để học sinh hoàn thành trong một thời gian ngắn của tiết học. Trong mỗi phiếu học tập có ghi rõ một vài nhiệm vụ nhận thức nhằm hướng tới hình thành kiến thức, kĩ năng hay rèn luyện thao tác tư duy để giao cho học sinh ". Nội dung hoạt động được ghi trong phiếu có thể là tìm ý điền tiếp hoặc tìm thông tin phù hợp với yêu cầu của hàng và cột, hoặc trả lời câu hỏi. Nguồn thông tin để học sinh hoàn thành phiếu học tập có thể từ tài liệu giáo khoa, từ hình vẽ, từ các thí nghiệm, từ mô hình, mẫu vật hoặc sơ đồ hoặc từ những mẩu tư liệu được giáo viên giao cho mỗi học sinh sưu tầm trước khi học. Vậy theo tôi, phiếu học tập về mục tiêu nó là một trong những công cụ cụ thể hoá hoạt động học tập của học sinh , là công cụ hữu hiệu trong việc xử lý thông tin ngược. Theo tác giả PGS. TS. Nguyễn Đức Thành : "Phiếu học tập có ưu thế hơn câu hỏi, bài tập ở chỗ muốn xác định một nội dung kiến thức nào đó thoả mãn nhiều tiêu chí hoặc xác định nhiều nội dung từ các tiêu chí khác nhau, nếu diễn
  2. đạt bằng câu hỏi thì dài dòng. Ta có thể thay bằng một bảng có các tiêu chí thuộc các cột, các hàng khác nhau. Học sinh căn cứ vào tiêu chí ở cột và hàng để tìm ý điền vào ô trống cho phù hợp. Như vậy giá trị lớn nhất của phiếu học tập là với nhiệm vụ học tập phức tạp được định hướng rõ ràng, diễn đạt ngắn gọn bằng một bảng gồm có các hàng, cột ghi rõ các tiêu chí cụ thể". Phiếu học tập là một phương tiện DH do GV tự thiết kế bao gồm những nhiệm vụ học tập được trình bày một cách logic, khoa học, trong đó GV đã tính toán kĩ từng bước nhỏ, vừa sức với HS để các em có thể tự làm được, qua đó có thể tự mình chiếm lĩnh kiến thức mới. Phiếu học tập đồng thời cũng là công cụ để GV tổ chức các hoạt động học tập cho HS. HS sử dụng PHT như một tài liệu học tập để thực hiện các nhiệm vụ học tập được giao nhằm lĩnh hội kiến thức mới. Thông qua các hoạt động cá nhân hay hoạt động nhóm, HS rèn luyện được kỹ năng học tập độc lập hay học tập hợp tác, kỹ năng trình bày ý kiến, thảo luận, Khi sử dụng PHT, HS phải tự nghiên cứu SGK và các tài liệu tham khảo, mọi HS phải tự thực hiện nhiệm vụ được giao trong PHT, hạn chế được thói quen ỷ lại, dựa dẫm và tiện tay điền ngay thông tin vào sách giáo khoa, làm cho sách bị bẩn và không thể sử dụng cho học sinh thế hệ sau, tình trạng này đa số là HS kém và trung bình. Trong lúc HS tiến hành các hoạt động học tập bằng tay, các biến đổi sinh hóa được diễn ra một cách mạnh mẽ, sâu sắc trong não của các em, giúp các em hiểu sâu và nhớ lâu bài học. Trong quá trình thảo luận để hoàn thành phiếu, HS được tự do trình bày ý kiến của mình trước lớp, qua đó sẽ bộc lộ những quan niệm của HS, từ đó GV sẽ có hướng khắc phục các quan niệm của HS, đặc biệt là những quan niệm sai lầm, không chính xác. Đồng thời, khi tiếp nhận những ý kiến đóng góp, sửa đổi của các HS khác trong nhóm, lớp, của GV, các em sẽ phần nào tự đánh giá được kết quả làm việc của mình. Mặt khác, trong quá trình HS thực hiện nhiệm vụ trong PHT, qua quan sát, GV có thể thu nhận được thông tin về năng lực, thái độ học tập của HS để có biện pháp uốn nắn kịp thời. Đồng thời, qua các sản phẩm của quá trình làm việc bằng tay của HS, GV có được nguồn thông tin phản hồi trung thực hơn, từ đó điều chỉnh được PPDH của mình. Như vậy, việc sử dụng PHT đóng một vai trò quan trọng trong DH phát huy tính tích cực nhận thức của HS. Do đó, việc nghiên cứu thiết kế và đưa vào sử dụng PHT trong DH SH là rất quan trọng và cần thiết. Có rất nhiều kiểu loại và hình thức PHT khác nhau, nhưng nhìn chung chúng đều có những chức năng giáo dục tương đối chung và có thể nhận biết được. Theo nhiều tài liệu, các nhà nghiên cứu đều có sự thống nhất về 2 chức năng cơ bản của PHT như sau: PHT thực hiện chức năng cung cấp thông tin và sự kiện cho HS. Những thông tin, sự kiện này là những thông tin, sự kiện không có trong SGK nhưng có liên quan đến bài học. GV có thể cung cấp những thông tin này hoặc có thể giới
  3. thiệu cho HS cách tự tìm thông tin, từ đó, yêu cầu HS phân tích để rút ra những tri thức cho bài học, hoặc để minh họa, làm sáng tỏ thêm kiến thức cho bài học. Theo tác giả Đặng Thành Hưng thì “trong PHT có thể là văn bản, biểu số liệu, hình ảnh, sơ đồ , tóm tắt hoặc trình bày bằng những cấu trúc nhất định một lượng thông tin, dữ liệu hoặc sự kiện xuất phát cần thiết cho người học”. Như vậy những thông tin, sự kiện trong PHT có thể là văn bản, biểu số liệu, hình ảnh không có trong SGK nhưng cần thiết cho người học. Nguồn của các thông tin này có thể là các sách, báo, tạp chí, mạng internet Chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp. Đây là chức năng quan trọng và được lưu ý hơn chức năng cung cấp thông tin và sự kiện. Bởi trong thời đại này, nguồn tư liệu học tập rất phong phú nên việc tìm kiếm thông tin, sự kiện không khó đối với HS. Theo tác giả Đặng Thành Hưng, “PHT còn nêu lên những nhiệm vụ học tập, những yêu cầu hoạt động, những hướng dẫn học tập, những công việc và vấn đề để người học thực hiện hoặc giải quyết. Thông qua nội dung và tính chất này nó thực hiện chức năng công cụ hoạt động và giao tiếp trong quá trình học tập của người học”. Tác giả Nguyễn Đức Vũ khi bàn về chức năng này cũng cho rằng đây là chức năng cơ bản của PHT: “PHT chứa đựng các câu hỏi, bài tập, yêu cầu hoạt động, những vấn đề và công việc để HS giải quyết hoặc thực hiện, kèm theo hướng dẫn, gợi ý cách làm. Thông qua các nội dung này, PHT thực hiện chức năng là công cụ hoạt động và giao tiếp trong quá trình học tập của HS”. Như vậy, ngoài chức năng cung cấp thông tin và sự kiện, PHT còn thực hiện một chức năng quan trọng hơn đó là công cụ hoạt động và giao tiếp. PHT là công cụ để HS hoạt động theo hình thức cá nhân hay hoạt động theo nhóm. PHT hỗ trợ các hoạt động và quan hệ của người học, tương tác chia sẻ giữa người học với nhau và với GV. 7. 2. Thực trạng 7.2.1.Thuận lợi - Được sự quan tâm, chỉ đạo sâu sát của Ban Giám Hiệu nhà trường, sự ủng hộ nhiệt tình của các đồng nghiệp, các bậc phụ huynh đối với việc sử dụng phiếu học tập, phát huy tính tích cực trong học tập của học sinh. - Phương tiện, thiết bị, đồ dùng học tập được trang bị đầy đủ cho việc thực hiện và áp dụng đề tài. - Phần lớn học sinh đều là con em trong xã nên việc đi lại thuận tiện, có đầy đủ đồ dùng học tập. 7.2.2.Khó khăn - Việc thiết kế phiếu học tập của một số giáo viên chưa khoa học, nhiều nội dung bài học rất khó thuyết trình hoặc giải thích bằng lời để học sinh hiểu dẫn đến hiệu quả chưa cao.
  4. - Một số học sinh chưa quen với việc thực hiện trên phiếu học tập, có thói quen ỷ lại, dựa dẫm, tiện tay điền ngay thông tin vào sách giáo khoa nên còn lúng túng trong quá trình thảo luận, do vậy kết quả hoạt động, tìm hiểu kiến thức còn hạn chế. Kết quả khảo sát chất lượng học sinh đầu năm Trước khi áp dụng sáng kiến Lớp 8A 8B SLHS Tỉ lệ% Điểm giỏi 5 3 8 9,8% Điểm khá 16 11 27 32,9% Điểm TB 18 24 42 51,2% Điểm yếu 1 4 5 6,1% Cộng 40 42 82 100% Qua kết quả khảo sát chất lượng môn sinh của học sinh khối 8, tôi thấy vẫn còn tình trạng học sinh yếu kém. Vì vậy nâng cao chất lượng, phát huy tính tích cực học tập của học sinh là hết sức cần thiết. Vì vậy tôi đã chọn đề tài này để áp dụng thực tiễn vào giảng dạy. 7.3. Một số phương pháp sử dụng phiếu học tập Trong dạy học truyền thống giáo viên là trung tâm hoạt động, trong một giờ học hoạt động của giáo viên chiếm phần lớn, giáo viên trình bày giảng giải biểu diễn thí nghiệm, phân tích tổng hợp minh hoạ .v.v. còn học sinh thì ngồi nghe ghi chép, nhìn quan sát một cách thụ động, khi giáo viên nêu những câu hỏi thì học sinh trả lời, nhưng chỉ có một vài học sinh được hoạt động vì thời gian có hạn còn hầu hết học sinh ngồi nghe câu trả lời của các bạn của giáo viên. Vì vậy không được hoạt động, không được rèn luyện kĩ năng và bộc lộ kĩ năng hoạt động, ảnh hưởng đến tính tích cực hoạt động của học sinh. Giáo viên chỉ đánh giá thông qua gọi kiểm tra và ở một số học sinh hay trả lời câu hỏi. Bằng việc sử dụng các phiếu học tập, chuyển hoạt động của giáo viên từ trình bày, giảng giải, thuyết minh sang hoạt động hướng dẫn, chỉ đạo. Mọi học sinh được tham gia hoạt động tích cực,tự nghiên cứu thông tin kiến thức, không còn hiện tượng thụ động nghe giảng. 7.3.1. Sử dụng PHT để hình thành kiến thức mới Trong dạy học truyền thống, giáo viên là trung tâm hoạt động, vai trò trung tâm của học sinh bị xem nhẹ. Vì vậy không được hoạt động, rèn luyện và bộc lộ kĩ năng hoạt động, ảnh hưởng đến tính tích cực trong hoạt động của học
  5. sinh. Giáo viên chỉ đánh giá thông qua gọi kiểm tra và ở một số học sinh hay trả lời câu hỏi. Bằng việc sử dụng các phiếu học tập đã phá vở những khuyết điểm đó của giáo viên trong quá trình truyền thụ kiến thức cho học sinh. 7.3.2. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng quan sát Khi quan sát hình vẽ có nhiều chi tiết hoặc quan sát thiên nhiên có nhiều hiện tượng đồng thời xảy ra, nhưng cần nghiên cứu một hiện tượng trong đó, giáo viên phải rèn luyện cho học sinh có kĩ năng quan sát và nhận biết, ta thường dùng PHT để học sinh tìm tòi kiến thức qua quan sát. VD: Khi dạy bài 11"Tiến hóa của hệ vận động vệ sinh hệ vận động" Sinh học 8. Giáo viên cho học sinh quan sát hình 11.5 SGK. Nếu để tự học sinh quan sát, khó có thể xác định được mình cần quan sát cái gì và rút ra kết luận gì qua quan sát. Trong trường hợp này giáo viên yêu cầu học sinh quan sát đồng thời phát PHT vừa là gợi ý, vừa là định hướng phát hiện vấn đề bản chất mà hình 11.5 biểu hiện. Giáo viên có thể sử dụng PHT như sau: Bảng: Sự vận động của cơ thể Hệ cơ quan thực Đặc điểm cấu tạo Vai trò Chức năng hiện vận đặc trưng chung động Bộ xương Hệ cơ 7.3.3. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng phân tích Khi đi sâu nghiên cứu một nội dung nào đó cần phân tích, nếu giáo viên không yêu cầu học sinh cần phân tích nội dung gì thì học sinh khó mà rút ra kết luận. Trong trường hợp này giáo viên yêu cầu đọc thông tin, trong SGK rồi từ đó phân tích nội dung nghiên cứu. VD: Khi dạy bài 42 “Vệ sinh da" ta có thể sử dụng dạng phiếu học tập sau: Dựa vào thông tin trong SGK, nghiên cứu mục II- Rèn luyện da; hãy cho biết những nguyên tắc nào dưới đây phù hợp với rèn luyện da bằng cách đánh dấu V: Các nguyên tắc rèn luyện da - Phải luôn cố gắng rèn luyện da tới mức tối da - Phải rèn luyện từ từ, nâng dần sức chịu đựng - Rèn luyện thích hợp với tình trạng sức khỏe của từng người
  6. - Rèn luyện trong nhà tránh tiếp xúc với ánh sáng mặt trời 7.3.4. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng so sánh Nhiều khi nghiên cứu 1 vấn đề mà chứa đựng nhiều nội dung, muốn phân biệt chúng người học không dễ gì xác định được điểm giống nhau và khác nhau đó. Do vậy giáo viên cần định hướng cho người học bằng 1 yêu cầu thông qua PHT. VD: Khi dạy bài 24: Tiêu Hóa Và Các Cơ quan Tiêu Hóa Bảng: Tiêu hoá Hệ cơ quan – Các chất Khoang Thực Dạ Ruột non Ruột già miệng quản dày Gluxit x Lipit x x Prôtêin x x Đường Hấp thụ Axit béo và glixêrin Axit amin - Khi củng cố Bài 11- “Tiến hóa của hệ vận độngvệ sinh hệ vận động” ta có thể cho học sinh làm việc bằng phiếu học tập sau: Qua bài 11 hãy xác định những điểm khác nhau giữa xương người và xương thú theo bảng sau: Bảng 11- Sự khác nhau giữa bộ xương người và xương thú Các phần so sánh Bộ xương người Bộ xương thú - Tỉ lệ sọ/mặt - Lồi cằm xương mặt - Cột sống - Lồng ngực - Xương chậu - Xương đùi - Xương bàn chân - Xương gót 7.3.5. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng suy luận đề xuất giả thuyết
  7. Trong những nội dung cần nghiên cứu, để giúp học sinh tìm ra kiến thức mới bằng kĩ năng suy luận, đề xuất giả thuyết thì giáo viên phải gợi ý định hướng cho học sinh bằng PHT sau: Ví dụ : Bài 16- Tuần Hoàn Máu Và Lưu Thông Bạch Huyết Bảng: Tuần hoàn máu Đặc điểm cấu tạo Cơ quan Chức năng Vai trò chung đặc trưng - Có van nhĩ thất và Tim van động mạch. Hệ mạch - Ngoài những dạng phiếu học tập đã nêu ở trên, để nghiên cứu tài liệu mới, củng cố, ôn tập ta cũng có thể dùng phiếu học tập nhưng ở dạng tổng hợp hơn. Nghĩa là trong một tờ giấy rời được xây dựng một số hoạt động nhằm tổng hợp, hệ thống hoá, khái quát hoá, mở rộng một số kiến thức. 7.3.6. Sử dụng PHT để phát triển kĩ năng quy nạp, khái quát hoá Hoàn thiện hệ thống hoá kiến thức thường thực hiện vào cuối chương hay cuối một chủ đề lớn. Do vậy học sinh phải được chuẩn bị trước, mà chuẩn bị trước tốt nhất là chuẩn bị theo PHT. Ta có thể cho từng học sinh đủ số phiếu để hệ thống hoá được toàn bộ kiến thức khi ôn tập, học sinh tự hoàn thành ở nhà, đến lớp cho học sinh báo cáo bổ sung, cuối cùng giáo viên tổng kết hệ thống làm nội dung học tập chính thức. Sau khi học xong một chương hay một học kỳ, giáo viên hệ thống lại toàn bộ kiến thức 1 cách khái quát nhằm cho học sinh thấy được bức tranh toàn diện những nội dung đã học. Sử dụng PHT để hoàn thiện, hệ thống hoá kiến thức của các yêu cầu sau: - Yêu cầu học sinh lập bảng so sánh, phân tích, tổng hợp lập sơ đồ hệ thống hoá kiến thức. VD: Khi dạy bài 35 "Ôn tập"Giáo viên yêu cầu học sinh hoàn thành PHT sau: Bảng: Các loại nơron Các loại nơron Vị trí Chức năng Nơron hướng tâm - Thân nằm bên ngoài TƯ - Truyền xung thần kinh thần kinh từ cơ quan đến TƯ thần (nơron cảm giác) kinh (thụ cảm). Nơron trung gian
  8. (nơron liên lạc) Nơron li tâm (nơron vận động) * Một số chú ý khi sử dụng phiếu học tập - Tuỳ theo nội dung từng bài có thể thay đổi số nhóm học tập cho phù hợp - Thời gian sử dụng có thể nhiều hay ít nhưng không nên quá ít (trên 10 phút) - Phải đưa ra đúng lúc, đúng thời điểm cần thiết tránh phân tán tư tưởng học sinh - Trong quá trình học sinh làm việc với phiếu, giáo viên phải giám sát chặt chẽ các nhóm đặc biệt là những học sinh lười hoạt động ,những học sinh hay phá rối trong các giờ học - Trước khi phát phiếu cho các nhóm làm việc, giáo viên nên có những qui định cụ thể về thời gian, về nội dung cần thảo luận, hình thức trình bày và 1số qui định khác. - Sau khi hoàn thành thảo luận nhóm, nên cho các nhóm tiến hành trao đổi chéo để kiểm tra lẫn nhau và có thể giúp các em tự đánh giá được kiến thức của mình và của các bạn trong nhóm cũng như của nhóm khác - GV có thể thông qua phiếu học tập để đánh giá và cho điểm các nhóm bằng cách sau khi đưa đáp án kết luận, GVđưa ra thang điểm cụ thể cho các nhóm chấm lẫn nhau kích thích hứng thú cho các em vừa khắc sâu được kiến thức. Như vậy bằng việc hoàn thành phiếu học tập, học sinh tự đánh giá được hoạt động tích cực, tạo được hứng thú trong giờ học, kích thích tư duy của học sinh.Khi dùng phiếu học tập, giáo viên có thể kiểm soát đánh giá được trình độ của học sinh và từ đó có những điều chỉnh kịp thời cho phù hợp với đối tượng và tăng hiệu quả dạy học. Để việc sử dụng phiếu học tập đạt kết quả cao trong dạy học người giáo viên cần xác định được một số vấn đề sau: 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không có 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Cơ sở vật chất nhà trường, trang thiết bị, đồ dùng, - Con người: Giáo viên, học sinh trường THCS Hoàng Lâu. 10. Đánh giá lợi ích thu được Qua thời gian thử nghiệm 2 học kỳ ở các lớp 8 tôi đã có những kết quả thu được như sau: Về mặt tâm sinh lí, tôi nhận thấy các em thích được sử dụng PHIẾU để sinh hoạt nhóm và việc sử dụng phiếu tổng hợp được kiến thức trọng tâm, dễ
  9. nhớ, dễ hiểu và đem lại hiệu quả cao hơn, số học sinh hiểu bài nhiều hơn (đặc biệt là việc các em được tự do công khai kiểm tra đánh giá kiến thức của các bạn khác cũng như tự đánh giá kiến thức của mình qua những lần tự chấm điểm ngay tại lớp đã kích thích các em say mê hơn, tăng thêm hứng thú và tự giác trong học tập ,tạo không khí thi đua sôi nổi trong các nhóm. giúp học sinh phát huy khả năng tự nghiên cứu bài học. Kết quả số HS khá giỏi nhiều hơn những năm trước. Trước khi áp dụng sáng kiến Sau khi áp dụng sáng kiến Lớp 8A 8B SLHS Tỉ lệ% 8A 8B SLHS Tỉ lệ % Điểm giỏi 5 3 8 9,8% 13 8 21 25,6% Điểm khá 16 11 27 32,9% 18 17 35 42,7% Điểm TB 18 24 42 51,2% 9 17 26 31,7% Điểm yếu 1 4 5 6,1% 0 0 0 0 Cộng 40 42 82 100% 40 42 82 100% Qua bảng so sánh cho thấy sau khi áp dụng đề tài vào thực tế đã mang lại kết quả khả quan: + Học sinh có điểm giỏi: 21/82 đạt 25,6% tăng 13 học sinh so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài. + Học sinh có điểm khá: 35/82 đạt 42,7 % tăng 8 học sinh so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài. + Học sinh có điểm trung bình: 26/82 đạt 31,7% giảm 16 học sinh so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài. + Học sinh có điểm yếu: 0/82 giảm 5 học sinh so với đầu năm khi chưa áp dụng đề tài. 10.1. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tác giả - Tác giả đã rút ra được nhiều kinh nghiệm trong khâu tổ chức cho học sinh hoạt động cá nhân hay theo từng nhóm phù hợp với từng nội dung bài một cách chính xác khoa học. - Bản thân mỗi giáo viên có thể bao quát được lớp học và nhận ra khả năng phát huy trí tuệ của từng cá nhân học sinh. - khi sử dụng phiếu học tập, học sinh có nhiều đáp án khác nhau nên đã tạo điều kiện thuận lợi cho tác giả thu thập và củng cố được nhiều thông tin kiến thức mới, góp phần xây dựng kiến thức của bản thân.
  10. - Rèn luyện thao tác và kỹ năng sử dụng đồ dùng thiết bị một cách linh hoạt, chính xác khoa học phù hợp cho từng nội dung bài dạy - Tạo thuận lợi cho tác giả nhanh gọn trong khâu củng cố kiến thức và kiểm tra đánh giá chất lượng học sinh một cách chính xác. - Sử dụng phiếu học tập là hành trang giúp cho tác giả tự tin truyền thụ kiến thức và giữ được lập trường, tư tưởng vững vàng, là cơ sở để trao đổi kinh nghiệm chuyên môn nghiệp vụ với đồng nghiệp. - Đề tài đã góp phần vào công việc chống lãng phí sách giáo khoa và tình trạng thiếu sách giáo khoa như hiện nay mà Bộ Giáo dục đã chỉ thị giáo viên, học sinh hãy tận dụng nguồn sách giáo khoa cũ cho thế hệ học sinh kế tiếp năm sau. 10.2. Đánh giá lợi ích thu được theo ý kiến của tổ chức, cá nhân Sau khi áp dụng đề tài cho thấy, chất lượng học sinh khối 8 bước đầu đã dần được nâng cao, học sinh hứng thú học tập và tích cực nghiên cứu bài học, phát huy tính sáng tạo, độc lập suy nghĩ và tính tự chủ của học sinh. Đã góp phần hạn chế học sinh có thói quen điền thông tin kiến thức vào trong sách giáo khoa gây lên tình trạng thiếu sách giáo khoa như hiện nay. Góp phần nâng cao khả năng sáng tạo và sử dụng phiếu học tập của giáo viên. Kết quả được thể hiện qua khảo sát chất lượng, số học sinh khá giỏi tăng, không có học sinh yếu kém so với đầu năm học. Vì vậy sáng kiến đã được các đồng chí trong nhà trường đánh giá cao và cho rằng có thể áp dụng vào các năm học tiếp theo. Trên đây là một số kinh nghiệm mà bản thân tôi và đồng nghiệp đã áp dụng cho học sinh khối 8 tại nhà trường trong năm học 2018-2019. Tôi tin rằng đề tài sáng kiến này ít nhiều cũng đã mở cho bản thân tôi cùng các giáo viên trong trường và trường bạn một hành trang mới để tiếp tục thực hiện nhiệm vụ trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo con người hiện nay. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: Số Tên tổ Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực TT chức/cá nhân áp dụng sáng kiến 1 Lớp 8A Trường THCS Hoàng Sử dụng phiếu học tập để Lâu, huyện Tam Dương, phát huy tính tích cực trong tỉnh Vĩnh Phúc dạy học môn sinh học lớp 8 trường THCS Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. 2 Lớp 8B Trường THCS Hoàng Sử dụng phiếu học tập để
  11. Lâu, huyện Tam Dương, phát huy tính tích cực trong tỉnh Vĩnh Phúc dạy học môn sinh học lớp 8 trường THCS Hoàng Lâu, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc. Hoàng Lâu, ngày 6 thán 3 năm 2019 Hoàng Lâu, ngày 3 tháng 3 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến (Ký tên, đóng dấu) (Ký, ghi rõ họ tên) Nguyễn Văn Trường
  12. HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM THCS HOÀNG LÂU Độc lập - Tự do - Hạnh phúc GIẤY CHỨNG NHẬN SÁNG KIẾN CẤP TRƯỜNG Số: 01/CN-SKHL Căn cứ kết quả họp Hội đồng chấm sáng kiến, ngày 06/03/2019 HỘI ĐỒNG SÁNG KIẾN THCS HOÀNG LÂU CHỨNG NHẬN Ông (bà): Nguyễn Văn Trường Chức vụ (nếu có): Giáo viên -THCS Hoàng Lâu. Địa chỉ: THCS Hoàng lâu-Tam Dương-Vĩnh Phúc Là tác giả của sáng kiến: Sử dụng phiếu học tập để phát huy tính tích cực trong dạy học môn sinh học lớp 8. 1. Thời gian sáng kiến được áp dụng: Ngày 02 tháng 2 năm 2018 đến tháng 2 năm 2019 2. Tóm tắt nội dung sáng kiến: Đảm bảo tính mới, khoa học và mang lại hiệu quả trong công tác dạy và học. Đề tài đã nêu được các giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất lượng dạy và học trong trường THCS Hoàng Lâu. 3. Lợi ích kinh tế - xã hội có thể thu được do áp dụng sáng kiến: Kết quả là nâng cao chất lượng HSG qua các kỳ thi khảo sát và thi HSG: Cấp huyện, Tỉnh và tái sử dụng lại một số sách giáo khoa cũ. 4. Kết quả công nhận của Hội đồng, đạt (Trung bình, Khá, Xuất sắc): Xuất sắc Hoàng Lâu, ngày 6 tháng 3 năm 2019 P.CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG Nguyễn Việt Trung