Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy Luyện từ và câu “Khái niệm từ láy”
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy Luyện từ và câu “Khái niệm từ láy”", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_phuong_phap_day_luyen_tu_va_cau_khai_n.doc
Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Phương pháp dạy Luyện từ và câu “Khái niệm từ láy”
- Bài 4: Các tổ hợp: loắt choắt, xinh xinh, thoăn thoắt, nghêng nghênh, người người, ngành ngành tổ hợp nào là từ láy? Bài 5: -Tìm 5 từ láy chỉ giọng nói của trẻ em -Tìm 5 từ láy nói về tình cảm phẩm chất của con người. -Đặt câu với trong số từ đã tìm Bài 6: Chọn từ láy trong ngoặc đơn điền vào chỗ trống trong đoạn văn sau: (liếp nhiếp, từ từ, tấp lập, líu lo, là là, tíu tít, hối hả, ríu rít) Tiếng chim (1) (2) báo hiệu một ngày mới bắt đầu. Ông mặt trời (3) nhô lên từ sau luỹ tre xanh. Khói bếp nhà ai (4) bay trong gió. Đàn gà con (5) gọi nhau, (6) theo chân mẹ. Đường làng đã (7) mọi người (8) ra đồng làm việc. Bài 7: Xếp các từ sau đây thành 2 nhóm( từ ghép, từ láy): châm chọc, chậm chạp, mê mẩn, mong ngóng, nhỏ nhẹ, mong mỏi, tươi tốt, tươi tắn, phương hướng, vấn vương, tre pheo, bếp núc, xe cộ. Bài 8: Phân loại các từ sau thành các nhóm theo 2 cách: núi đồi, rực rỡ, chen chúc, đi đứng, dịu dàng, ngọt, thành phố, ăn, đánh đập, sáng sớm, sung sướng, sinh sôi, suy sụp, sơ sài, sóng sánh, sơ sinh, sinh sự. Bài 9: Hãy xếp các từ sau thành 2 nhóm và đặt tên cho mỗi nhóm: ngoằn ngoèo, khúc khích, đủng đỉnh, lêu nghêu, vi vu, líu lo, thiết tha, sừng sững, rì rầm, cheo leo. Bài 10: Tìm các từ láy âm đầu trong đó có a, Vần ấp ở tiếng đứng trước. M: khấp khểnh b,Vần ăn ở tiếng đứng sau: M: vừa vặn Theo em, nghĩa của từ láy tìm được ở mỗi nhóm giống nhau điểm nào? Bài 11: Tìm các từ láy trong đoạn văn trên rồi chia thành ba nhóm: từ láy âm đầu, từ láy vần, từ láy âm đầu và vần. Biển luôn thay đổi theo màu sắc mây trời. Trời âm u, mây mưa, biển xám xịt, nặng nề. Trời ầm ầm dông gió, biển đục ngầu, giận dữ. Như một con người biết buồn vui, biển lúc tẻ nhạt, lúc sôi nổi, hả hê, lúc đăm chiêu, gắt gỏng. III- HỆ THỐNG BÀI HỌC ĐỂ KIỂM TRA HỌC SINH QUA BÀI HỌC: Bài 1: Tìm những từ láy trong đoạn văn sau: Con trâu nhà em trông mập mạp. Mình nó đen bóng như gỗ mun. Cái sừng của nó nhọn hoắt, vênh vênh. Thân hình nó béo mẫm và lực lưỡng, trông thật đáng 15
- yêu. Nó bước đi lặc lè, chậm chạp. Nó gặm soàn soạt từng nắm cỏ non một cách ngon lành. Các từ láy: Bài 2: Điền từ thích hợp vào chỗ chấm để có từ láy Láy âm đầu Láy vần Rầm Lõm Nhấp Tràn Bài 3: Tìm hai từ láy mỗi loại có: hai tiếng, ba tiếng, bốn tiếng Thang điểm: Bài 1: 3 điểm Bài 2: 3 điểm Bài 3: 4 điểm Kết quả thực hiện Tổng số Điểm 10 Điểm 9 Điểm 8 Điểm 7 Điểm 6 Điểm 5 Điểm dưới 5 HS TS % TS % TS % TS % TS % TS % TS % 35 15 42,9 10 28,6 5 12,3 3 8,9 2 5,7 Trong một lớp học bao giờ cũng có nhiều đối tượng như học sinh khá, giỏi, học sinh trung bình và cũng có thể có cả học sinh yếu. Các bài tập trong sách giáo khoa theo yêu cầu của Chuẩn kiến thức, kĩ năng thì mọi đối tượng học sinh đều phải đạt được. Ngoài ra, vì là lớp học 2 buổi/ ngày có thời gian rèn luyện thêm vào buổi chiều nên bản thân tôi thấy cần phải có các bài tập dành cho học sinh khá, giỏi từng bước nâng cao chất lượng học sinh trung bình và yếu. Sau giờ học buổi sáng, các em đã được làm các bài tập trong sách giáo khoa. Đến buổi chiều, tôi cho các em rèn luyện thêm các bài tập mở rộng thêm. Với bài tập này, học sinh khá, giỏi làm được. Tuy nhiên với học sinh trung bình và yếu còn lúng túng thì giáo viên nên hướng dẫn học sinh. Qua thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy việc quan tâm đến các đối tượng học sinh là một việc làm quan trọng, không thể thiếu trong quá trình giảng dạy nhất là lớp học 2 buổi / ngày. Với những bài tập rèn luyện thêm vào buổi chiều đã phát huy được khả năng học tập của các em học sinh khá, giỏi, nâng cao chất lượng học sinh đại trà. Bên cạnh đó còn rèn cho các em tính chăm chỉ, không chịu dừng lại ở những gì mình đã biết. Về việc ra bài tập để các em rèn luyện, giáo viên cần căn cứ theo tình hình thực tế của lớp mình, tham khảo thêm các sách như: Tiếng Việt nâng cao lớp 4. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4 của nhà xuất bản Giáo dục. -Kiến thực Tiếng Việt vốn bắt nguồn từ đời sống thức tế, nếu trong khi dạy, giáo viên liên hệ thực tế để học sinh tìm kiến thức thì các em làm bài tập tốt hơn, hứng thú hơn. Ngược lại sau mỗi hoạt động hoặc mỗi bài, giáo viên cần liên hệ thực tế để giáo dục các em vận dụng những điều đã học vào cuộc sống. Có như vậy, các em mới cảm thấy kiến thức bài học thật gần giũ, yêu thích môn học hơn. 16
- Trên đây là một số thực trạng, kết quả của học sinh lớp tôi. Do đó, tôi mạnh dạn đề ra một số biện pháp thực hiện để nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt, đặc biệt là phần “Từ láy” IV- NỘI DUNG, BIỆN PHÁP VÀ THỰC HIỆN: 1- Biện pháp: Qua thời gian giảng dạy khối 4+5 tại Trường Tiểu học Bình Dương II, tôi đã đưa ra một số biện pháp để nâng cao hiệu quả dạy khái niệm “Từ láy” ở Lớp 4. 1-Hướng dẫn học sinh hiểu rõ khái niệm “Từ láy”. Đây là bước quan trọng để đạt hiệu quả cho giờ dạy thì người giáo viên cần phải nắm vững kiến thức về từ ghép và từ láy để hướng dẫn học sinh tìm đúng từ láy. Giáo viên phải hướng dẫn làm sao để tránh tình trạng học sinh không tìm được thì giáo viên cung cấp (cách làm này sẽ dẫn đến học sinh thụ động, không tích cực trong giờ học. 2-Giáo viên hướng dẫn học sinh cần phân biệt từ láy với từ ghép. Ví dụ: -Từ ghép: mặt mũi, đi đứng, buôn bán -Từ láy: xinh xinh, xấu xí, bồn chồn Từ đó giúp học sinh thấy được sự giống và khác nhau giữa từ láy và từ ghép. 3- Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ nghĩa của từ láy. Với biện pháp này tuỳ theo trình độ học sinh trong lớp, nếu lớp có học sinh trung bình nhiều thì tôi có thể giúp các em bằng cách cho các em đặt câu. Ví dụ: Đặt câu với từ nhỏ nhẹ, nhỏ nhắn - Nhỏ nhẹ : Cô ấy ăn nói nhỏ nhẹ. -Nhỏ nhắn: Ngôi nhà nhỏ nhắn rất đẹp. Nếu học sinh yếu không đặt được câu thì giáo viên giúp các em tìm ra nghĩa của từ láy ( có thể dùng từ điển Tiếng Việt). Với biện pháp này vừa thu hút được sự chú ý vừa giúp học sinh nhớ bài tốt hơn. 2- Mô tả các bước tiến hành dạy 1 giờ Luyện từ và câu Lớp 4 Trong quá trình giảng dạy Luyện từ và câu về khái niệm “Tứ láy” cùng với sự tìm hiểu thực trạng giáo viên, học sinh nhà trường chúng tôi đã xây dựng cho mình phương pháp dạy học, nhằm tích cực hoá hoạt động của học sinh. Các em biết được 17
- cách học, không tiếp thu bài một cách thụ động mà nhằm để các em nắm bắt đúng bản chất của vấn đề thông qua bài dạy Ngày soạn 13/9/2013 Ngày giảng Thứ ba ngày 17 tháng 9 năm 2014 Luyện từ và câu TỪ GHÉP VÀ TỪ LÁY I/MỤC TIÊU: -Nắm được 2 cách chính cấu tạo từ phức của Tiếng Việt: ghép những tiếng có nghĩa lại với nhau ( từ ghép); phối hợp những tiếng có âm hay vần ( hoặc cả âm đầu và vần) giống nhau ( từ láy) -Bước đầu biết vận dụng kiến thức đã học để phân biệt từ ghép với từ láy, tìm được các từ ghép và từ láy đơn giản, tập đặt câu với các từ đó. -Giáo dục các em có ý thức sử dụng đúng nghĩa của từ ghép, từ láy trong giao tiếp Tiếng Việt. II/ĐỒ DÙNG: - Từ điển tiếng Việt hoặc từ điển học sinh. - Bảng phụ viết 2 từ làm mẫu để so sánh - Bút dạ, giấy tô ky kẻ bảng III/HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC: GIÁO VIÊN HỌC SINH 1.Tổ chức Hát 2.Bài cũ -Gọi 1 HS lên làm lại bài tập 4 1. Thế nào là từ phức ? Thế nào tiết học : Nhân hậu - đoàn kết là từ đơn ? -GV nhận xét 2. Từ phức khác từ đơn ở điểm nào? Nêu ví dụ 3.Bài mới Phần nhận -HS đọc nội dung bài tập và gợi ý -Cả lớp đọc thầm xét -Tìm từ phức trong đoạn văn -1Hs đọc câu thứ nhất => HS và GV kết luận. -Từ phức “thì thầm” do các tiếng -1 em đọc khổ thơ tiếp theo có âm đầu th) lặp lại tạo thành. -Hỏi: từ phức “lặng im” do 2 tiếng nào có nghĩa tạo thành? + Những từ phức nào do những thì thầm, chầm chậm, cheo leo, tiếng có âm đầu hoặc vần lặp lại se sẽ nhau tạo thành ? +Những từ thì thầm, chầm chậm, cheo leo, se sẽ gọi là từ láy +Những từ phức như thế nào gọi -HS trao đổi phát biểu ý kiến là từ láy -GV kết luận: *Ghi nhớ: -Giải thích nội dung ghi nhớ 18
- . Các tiếng tình, thương, mến -HS đọc các từ vừa in nghiêng vừa đứng độc lập đều có nghĩa. Chúng im đậm. ghép lại với nhau bổ sung ý nghĩa cho nhau. +Từ láy săn sóc có 2 tiếng lặp lại âm đầu. +Từ láy : khéo léo có 2 tiếng lặp lại âm đầu. +Từ láy luôn luôn có 2 tiếng lặp lại âm đầu và vần -Nhiều tiếng ( từ phức) từ nào - Từ phức lặng im do 2 tiếng “lặng cũng có nghĩa và dùng để đặt câu. + im” tạo thành. Bài tập 1: GV nêu yêu cầu - Trong từ cheo leo, 2 tiếng cheo và b. Phần -HS đọc toàn văn yêu cầu của bài leo có vần eo lặp lại. Các từ chầm luyện tập tập. chậm, se sẽ lặp lại cả âm đầu và vần. -Muốn làm đúng bài tập, cần xác định các tiếng trong các từ phức - Gọi 2 HS đọc ghi nhớ (in nghiêng) có nghĩa hay không. - Gọi 1 HS lên bảng làm Nếu cả 2 từ đều có nghĩa là từ - Cả lớp làm vở ghép, mặc dù chúng có thể giống nhau ở âm đầu hay vần VD: dẻo + dai = dẻo dai -Những từ in đậm trong SGK là tiếng có nghĩa giúp học sinh dễ dàng nhận ra từ ghép. - Giáo viên chốt lời giải đúng Từ ghép Từ láy Câu a ghi nhớ, đền thờ, bờ bãi, nô nức tưởng nhớ Câu b dẻo dai, vững chắc, thanh cao mộc mạc, nhũn nhặn, cứng cáp Trong trường hợp có học sinh nói rằng “Cứng cáp “ là từ ghép, GV cần giải thích cho HS nghĩa của từng tiếng trong từ ghép phải hợp với nghĩa của cả từ. Trong từ “cứng cáp”: tiếng “cứng” có nghĩa- nghĩa này hợp với nghĩa của từ; tiếng “cáp”, nếu coi là có nghĩa (chỉ loại dây điện to, dây điện cao thế) thì nghĩa này không hợp với nghĩa của từ “cứng cáp” chỉ trạng thái đã khoẻ, không còn yếu ớt. Vì vậy trong từ “Cứng cáp” chỉ tiếng 19
- “cứng” có nghĩa, tiếng “cáp” không có nghĩa. Hai tiếng này lặp lại âm đầu C nên là từ láy. Trong trường hợp có học sinh nói rằng “Cứng cáp “ là từ ghép, GV cần giải thích cho HS nghĩa của từng tiếng trong từ ghép phải hợp với nghĩa của cả từ. Trong từ “cứng cáp”: tiếng “cứng” có nghĩa- nghĩa này hợp với nghĩa của từ; tiếng “cáp”, nếu coi là có nghĩa (chỉ loại dây điện to, dây điện cao thế) thì nghĩa này không hợp với nghĩa của từ “cứng cáp” chỉ trạng thái đã khoẻ, không còn yếu ớt. Vì vậy trong từ “Cứng cáp” chỉ tiếng “cứng” có nghĩa, tiếng “cáp” không có nghĩa. Hai tiếng này lặp lại âm đầu C nên là từ láy. Bài tập 2: Nêu yêu cầu -Gọi 1 HS đọc yêu cầu của bài tập -HS hoạt động nhóm - Yêu cầu HS hoạt động nhóm - Phát phiếu cho các nhóm làm bài - Đại diện mỗi nhóm lên trình bày - HS và GV nhận xét lời giải đúng -HS hoạt động nhóm - GV chốt lại lời giải đúng Từ ghép Từ láy ngay thẳng, ngay thật, ngay lưng ngay ngắn a. Ngay b. Thẳng thẳng băng, thẳng cánh, thẳng cẳng thẳng thắn, thẳng thớm c. Thật chân thật, thành thật, thật lòng thật thà Chú ý: trong trường hợp HS nêu các ví dụ “ngay lập tức, ngay ngáy” GV giúp các em hiểu: nghĩa của “ngay” trong “ngay lập tức” không giống nghĩa “ngay” trong “ngay thẳng”, còn “ngay” trong “ngay ngáy” không có nghĩa 4.Củng cố GV nhận xét tiết học Yêu cầu mỗi HS về nhà tìm 5 từ láy và 5 từ ghép chỉ màu sắc 20
- Rút kinh nghiệm giờ dạy: IV- KẾT QUẢ Khi áp dụng những biện pháp trên vào việc giảng dạy phân môn Luyện từ và câu, tôi thu nhận được một số kết quả sau: -Các em yêu thích học phần từ láy. -Tự tin, mạnh dạn hơn trong học tập và giao tiếp. -Tỉ lệ học sinh dùng từ chính xác, tìm đúng từ và biết phân biệt được từ láy , từ ghép Lớp tôi trực tiếp giảng dạy có 100% học sinh là con em nông dân. Do vậy cũng ảnh hưởng nhiều đến chất lượng dạy và học của nhà trường. Song trong những năm gần đây, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân xã đã có sự thay đổi nhận thức, tập trung chăm lo cho giáo dục nhất là giáo dục Tiểu học. Được sự hỗ trợ của Nhà nước, nhà trường đã có một ngôi trường mới khang trang sạch đẹp. Đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên và học sinh của trường đã có nhiều cố gắng. Nhà trường đã đạt trường Tiểu học chuẩn quốc gia “Mức độ một”. Song song với sự đổi thay về cơ sở vật chất, Ban giám hiệu nhà trường đã tập trung chỉ đạo đổi mới phương pháp dạy học, áp dụng phương pháp mới lấy học sinh làm trung tâm, phát huy vai trò tích cực của người học. Ngay từ những năm đầu thực hiện chương trình thay sách giáo khoa mới, nhà trường đã triển khai chuyên đề đổi mới phương pháp dạy học. Với sự cố gắng nỗ lực của đội ngũ giáo viên, chất lượng giáo dục của nhà trường đã có nhiều thay đổi. Từ thực tiễn trên làm cơ sở để xây dựng nên một số đề xuất nâng cao hiệu quả dạy “Khái niệm từ láy” ở bậc Tiểu học. Giáo viên cần nắm vững kiến thức về từ đơn, từ ghép, từ láy bởi nội dung kiến thức liên quan đến nhau, khi dạy giáo viên cần phân biệt về từ loại để học sinh dễ hiểu, dễ phân biệt. Trong đó, bài dạy từ láy mới giáo viên cần nắm chắc kiến thức để truyền đạt cho học sinh một cách tốt nhất có hiệu quả. *GIẢI PHÁP MỚI Quán triệt nguyên tắc xác lập quan hệ giữa hình thức và nội dung, đây là nguyên tắc có tính chất ngôn ngữ học được coi là đặc trưng của việc dạy học Luyện từ và câu ở Tiểu học, nghĩa là phải kết hợp việc dạy nội dung các khái niệm “Ngữ pháp” với sự hiểu biết của chúng trong kết hợp việc dạy nội dung của các khái niệm ngữ pháp với sự biểu hiện của chúng trong kết hợp ở góc độ cụm từ, câu nguyên tắc này giúp học sinh nhận ra ý nghĩa và các dấu hiệu hình thức của ngữ pháp được nghiên cứu và chức năng của nó trong việc với nội dung đều có một hình thức tương ứng, nghĩa là nội dung được cố định lại trong hình thức nhất định và hình thức này có thể nắm bắt được khái niệm được lĩnh hội trong sự thống nhất của nội dung và hình thức mới chắc chắn. 21
- Giáo viên khi dạy khái niệm ngữ pháp những dấu hiệu bản chất của các hiện tượng ngôn ngữ đã được khái quát hoá, giáo viên chỉ cần ra dấu hiệu bản chất và không bản chất. Quá trình hình thành khái niệm ngữ pháp có thể đi qua các bước sau: + Phân tích ngữ liệu mục đích là làm rõ những dấu hiệu bản chất của khái niệm. Giai đoạn này thực hiện trừu tượng hoá khỏi ý nghĩa từ vững và cần cụ thể làm rõ những gì là điển hình của hiện tượng được xem xét. + Học sinh nắm thao tác phân tích và trừu tượng hoá - khái quát hoá các dấu hiệu thiết lập quan hệ giữa các dấu hiệu của khái niệm, đưa thuật ngữ, học sinh nắm thao tác so sánh tổng hợp. + Trình bày khái niệm chính xác hoá bản chất của dấu hiệu và các mối quan hệ giữa chúng. + Cụ thể hoá khái niệm ngữ pháp được xem xét trên tài liệu ngôn ngữ mới, ứng dụng kiến thức vào hoạt động lời nói thông qua các bài tập, những bước trên là các giai đoan hình thành khái niệm ngữ pháp tương ứng với bài tập Luyện từ và câu lớp 4. + Khi dạy Luyện từ và câu người giáo viên cần có thái độ mềm dẻo, không tuyệt đối hoá, phiến diện, cứng nhắc, phải biết chọn những ngữ liệu điển hình, tránh các trường hợp mơ hồ, có vấn đề còn nhiều tranh cãi. + Khi trình bày phải theo quan điểm sách giáo khoa Tiểu học. Việc lựa chọn ngữ liệu, chọn thủ thuật trình bày khác với sách giáo khoa và hướng dẫn giảng dạy, không có nghĩa là đưa ra một quan niệm ngược với quan điểm của sách giáo khoa. Bên cạnh đó phải có một cái nhìn hệ thống nhất quán, thống nhất trong cấp học. + Cần có chương trình bồi dưỡng thường xuyên để giáo viên nâng cao về trình độ và kiến thức Luyện từ và câu vì có thể nói giáo viên Tiểu học đang thiếu hụt về kiến thức Tiếng Việt và từ loại. * BÀI HỌC KINH NGHIỆM Một là: Giáo viên trực tiếp giảng dạy phải có kế hoạch cụ thể, chi tiết, phù hợp với điều kiện thực tế của lớp mình giảng dạy. Hai là: Người giáo viên phải có tâm huyết với nghề, đặc biệt có năng lực chuyên môn tốt, say sưa với công việc giảng dạy. Ba là: Nhà trường phải thường xuyên mở những chuyên đề về môn Tiếng việt, tổ chức tuyển chọn đội ngũ giáo viên có năng lực, có tinh thần trách nhiệm cao với công việc giảng dạy Tiếng việt. Bốn là: Có kế hoạch khảo sát thường xuyên để kịp thời động viên những em học sinh đạt kết quả tốt. Đồng thời bổ sung thiếu sót của các em về kiến thức và rèn kĩ năng trình bày bài của các em. Năm là: Chú ý công tác động viên, khen thưởng cho học sinh có thành tích học tốt nhất là môn Tiếng việt. 22
- PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1/Kết luận: Trên đây tôi đã đề cập đến Phương pháp dạy Luyện từ và câu “Khái niệm từ láy” lấy học sinh làm trung tâm trong việc hình thành khái niệm, căn cứ vào cơ sở lý luận và quá trình thực nghiệm để thực hiện dạy một tiết Luyện từ và câu cho học sinh lớp 4 + 5 mà nội dung trọng tâm là rèn luyện kỹ năng phân biệt từ loại thông qua cải tiến phương pháp dạy học. Đây là một hình thức nhằm tích cực hoá hoạt động học tập của học sinh, các em hoàn toàn chủ động trong quá trình nhận thức. Điều này là một yếu tố cần thiết, phù hợp với đặc điểm phát triển tâm lý ở các em, đặc biệt khí các em nắm vững về cấu trúc. Phân môn Luyện từ và câu là một phân môn quan trọng giúp các em học tốt các môn khác trong chương trình. Qua quá trình dạy phải kích thích được sự hứng thú của học sinh, nội dung bài dạy phải phù hợp với đối tượng học sinh. Vì vậy người giáo viên phải có trình độ nhất định về kiến thức, phải tận tuỵ với học sinh, phải linh hoạt sáng tạo trong việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực, ngoài ra còn phải đầu tư nhiều thời gian cho việc nghiên cứu từng loại bài cụ thể. Để nâng cao chất lượng bộ môn Tiếng Việt, trước hết mỗi giáo viên không được xem nhẹ một phân môn nào trong môn Tiếng Việt, cũng như một mảng kiến thức nào, lập kế hoạch bài học chú ý phương pháp. Kĩ thuật dạy học tích cực để thu hút học sinh chủ động, nắm kiến thức. Phải luôn tôn trọng nghiêm túc thực hiện giáo dục, giảng dạy theo nguyên tắc từ đơn giản đến nâng cao, khăc sâu, quan tâm đến tất cả đối tượng học sinh. Bên cạnh đó, giáo viên không ngừng học tập nâng cao trình độ, tích luỹ kinh nghiệm, học hỏi đồng nghiệp phải luôn tích cực tìm tòi cái mới áp dụng vào công việc dạy học nhằm đạt kết quả cao nhất. Vì thời gian và phạm vi của đề tài có hạn nên tôi chưa có thể trình bày hết quá trình thực hiện. Chỉ có điều cần khẳng định là việc đặt ra vấn đề cải tiến phương pháp dạy học, tìm tòi để dùng các phương pháp vận dụng vào dạy hình thành các khái niệm “Từ láy” là rất cần thiết. Vì vậy yêu cầu giáo viên phải đầu tư nhiều về mặt thời gian để nghiên cứu về nội dung bài dạy, nghiên cứu thêm các loại tài liệu để tìm ra các phương pháp phù hợp với bài dạy. Như vậy thì quá trình giảng dạy sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Bên cạnh những kết quả mà bản thân đã đạt được thì cũng không tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy, cô giáo và các bạn đồng nghiệp. *MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 23
- Thông qua nội dung của bài dạy thực nghiệm về hình thành khái niệm “Từ láy” bản thân tôi có những kiến nghị như sau: Một là: Cần bồi dưỡng thêm về trình độ kiến thức môn Tiếng Việt nói chung về phân môn Luyện từ và câu nói riêng, tăng cường cho giáo viên học tập đổi mới phương pháp. Giáo viên cần thường xuyên trao đổi chuyên môn nghiệp vụ với những người công tác lâu năm, giàu kinh nghiệm để đúc rút kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy, soạn bài theo hướng đổi mới phương pháp. Hai là: Giáo viên cần lưu ý về nguyên tắc lập quan hệ hình thức và nội dung, từ hình thức và nội dung tính bằng ngữ liệu do đó không nên dập khuân theo một phương pháp nào cả mà phải căn cứ vào đối tượng học sinh để lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Ba là: Khi dạy Tiếng việt nói chung và phân môn Luyện từ và câu nói riêng việc dùng trật tự cú pháp và quan hệ từ làm phương tiện ngữ pháp là một đặc điểm nổi bật. Trật tự sắp xếp các từ trong câu là phương tiện chính để biểu thị mối quan hệ ngữ pháp giữa các từ. Bốn là: Cán bộ quản lý cần động viên, khuyến khích kịp thời những giáo viên có những sáng kiến mới trong việc lựa chọn phương pháp phù hợp với đối tượng học sinh mang lại hiệu quả cao. Đồng thời phải có thái độ dứt khoát với những trường hợp trì trệ, tiêu cực làm ảnh hưởng đến mục tiêu đào tạo. Năm là: Các cấp, các ngành cần tạo điều kiện cùng Ngành Giáo dục làm tốt công tác xã hội hoá giáo dục. Ngành Giáo dục cần có chính sách đãi ngộ với những giáo viên có sáng kiến kinh nghiệm tốt, có giá trị phù hợp áp dụng được vào thực tiễn thì sẽ tạo động lực thúc đẩy quá trình làm công tác giảng dạy của các thầy giáo, cô giáo mang lại hiệu quả cao. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Vĩnh Tường, ngày 15 tháng 4 năm 2014 ĐƠN VỊ Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết, không sao chép nội dung của người khác NGƯỜI VIẾT Trần Thị Thu 24
- TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Dạy học Tiếng việt ở Tiểu học (Nhà xuất bản Giáo dục) 2- Phương pháp dạy học Tiếng việt ở Tiểu học. (Phó GS-TS: Lê Phương Nga) 3- Giải đáp 88 câu hỏi về giảng dạy Tiếng việt ở Bậc Tiểu học (Nhà xuất bản giáo dụcTrí) 4- Bài giảng về phương pháp dạy học Tiếng việt ở Tiểu học (TS Phạm Thị Hoà - Trường ĐHSP Hà Nội II) 5- Sách hướng dẫn giảng dạy Tiếng việt Lớp 4 (Tập 1) (Nhà xuất bản Giáo dục) 6- Tiếng Việt nâng cao lớp 4 (Nhà xuất bản Giáo dục) 7- Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4 (Nhà xuất bản Giáo dục) 8- Bài soạn Tiếng Việt lớp 4 (Tập 1) (Nhà xuất bản Giáo dục) 9- Sách giáo khoa Tiếng việt lớp 4 (Tập 1) (Nhà xuất bản Giáo dục) 25
- MỤC LỤC Trang Phần I : PHẦN MỞ ĐẦU 1 I - Lý do chọn đề tài 1 II -Mục đích nghiên cứu của đề tài 2 III - Bản chất của đề tài 3 IV - Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3 V -Phương pháp nghiên cứu 3 VI -Giới hạn về không gian của đề tài nghiên cứu 3 VII - Phạm vi và kế hoạch nghiên cứu 3 Phần II: NỘI DUNG I - Cơ sở lý luận khoa học của vần đề nghiên cứu 4 II - Thực trạng vần đề nghiên cứu 6 III -Nội dung biện pháp và thực hiện 17 IV - Kết quả 21 Phần III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 23 * MỘT SỐ Ý KIẾN ĐỀ XUẤT 26
- PHÒNG GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO VĨNH TƯỜNG TRƯỜNG TIỂU HỌC BÌNH DƯƠNG II BÁO CÁO KẾT QUẢ SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM CẤP: CƠ SỞ : TỈNH TÊN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: PHƯƠNG PHÁP DẠY LUYỆN TỪ VÀ CÂU “KHÁI NIỆM TỪ LÁY” MÔN: TIẾNG VIỆT TỔ: 4 + 5 MÃ SỐ: 0 7 NGƯỜI THỰC HIỆN: Trần Thị Thu ĐIỆN THOẠI: 0982 936 692 27
- Bình Dương, năm 2014 28