SKKN Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học

doc 14 trang binhlieuqn2 07/03/2022 6893
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_giai_phap_phat_trien_ngon_ngu_mach_lac_cho_tre_4_5_tuoi.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Giải pháp phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ 4-5 tuổi qua hoạt động dạy trẻ làm quen với văn học

  1. - Lựa chọn từ giúp trẻ diễn tả chính xác nội dung mình cần thông báo. Chọn từ giúp cho lời nói của trẻ rõ rang, chính xác và mang sắc thái biểu cảm. - Sắp xếp cấu trúc lời nói có sự liên kết các câu nói lại với nhau tạo thành chuỗi lời nói nhằm diễn tả trọn vẹn một ý, một nội dung nào đó để giúp người nghe hiểu được.Đây là sự sản xuất toàn bộ nội dung thong báo có logic. - Diễn đạt nội dung nói phải ngừng nghỉ ngắt giọng đúng, để giọng nói của trẻ không ê, a, ậm ừ. Luyện cho trẻ tác phong khi nói phải thoai mái, tự nhiên, khi nói nhìn vào mặt người nói. Nhiệm vụ phát triển ngôn ngữ mạch lạc được thực hiện ở mọi lúc mọi nơi trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ. Tiếp tục dạy trẻ biết nghe – hiểu – trả lời câu hỏi của người lớn. Biết trò chuyện với những người xung quanh. Dạy trẻ kể chuyện về đồ chơi, đồ vật theo tranh, kể lại tác phẩm văn học, kể có trình tự, diễn cảm. 2. Phần nội dung 2.1. Thực trạng của nội dung cần nghiên cứu Năm học 2017-2018 bản thân tôi được nhà trường phân công dạy lớp mẫu giáo 4-5 tuổi tại điểm trường Trung tâm với số lượng 30 cháu. Thực hiện nhiệm vụ năm học 2017-2018 tiếp tục phát huy kết quả của phong trào thi đua "Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực" phù hợp với GDMN theo định hướng “Xây dựng trường Mầm non lấy trẻ làm trung tâm” Xây dựng mối quan hệ ứng xử thân thiện, tăng cường đổi mới phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, chủ động của trẻ, hình thành ở trẻ các phẩm chất mạnh dạn, tự tin trong mọi hoạt động, thân thiện với mọi người xung quanh; lễ phép trong giao tiếp, ứng xử. Trong quá trình giảng dạy tôi về khả năng diễn đạt ngôn ngữ mạch lạc của trẻ còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tôi thường xuyên chú trọng tổ chức hoạt động cho trẻ kể chuyện làm quen các tác phẩm văn học theo các chủ điểm. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện tôi đã gặp một số thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: - Trường có khuôn viên rộng rãi, đủ diện tích, có hàng rào bao quanh, có hệ thống cống rãnh thoát nước đảm bảo vệ sinh, vườn trường có đường đi lối lại, bồn hoa cây cảnh đảm bảo xanh - sạch - đẹp. - Lớp học thoáng mát, đủ diện tích cho trẻ hoạt động, có công trình vệ sinh khép kín, có đầy đủ đồ dùng vệ sinh chung, vệ sinh cá nhân đảm bảo an toàn cho trẻ. - Được sự quan tâm tạo điều kiện của ban giám hiệu nhà trường, đầu tư về cơ sở vật chất tương đối đầy đủ. - Đa số trẻ nói rõ lời, trọn câu. - Bản thân là một giáo viên trẻ, có trình độ chuẩn về chuyên môn, nhiệt tình yêu nghề mến trẻ. Có khả năng đọc kể diễn cảm cho trẻ nghe và biết định hướng cho trẻ kể chuyện sáng tạo có hiệu quả. 5
  2. - Ban giám hiệu đã thường xuyên tổ chức bồi dưỡng chuyên môn và các đợt lên chuyên đề văn học, hội thi đồ dùng đồ chơi cho chị em đồng nghiệp học tập và rút kinh nghiệm. - Đa số phụ huynh của lớp nhiệt tình, quan tâm chu đáo tới con em và thường xuyên trao đổi với giáo viên về tình hình học tập của con em mình * Khó khăn: - Khả năng khả năng chú ý của trẻ còn yếu, không đều, không ổn định vì vậy nên trẻ chưa chú ý đến thành phần trong câu, trong từ. Vì vậy những âm điệu đọc lướt, những từ không nhấn mạnh trong câu trẻ dễ bỏ qua không chú ý. - Trí nhớ của trẻ còn hạn chế, trẻ chưa biết khối lượng các âm tiếp thu ,cung như trật tự các từ trong câu.Vì thế trẻ bỏ bớt từ, bớt âm khi nói. - Kinh nghiệm sống của trẻ còn nghèo nàn, nhận thức hạn chế dẫn đến tình trạng dùng từ không chính xác, câu lủng củng. - Trẻ nói, phát âm sai do ảnh hưởng ngôn ngữ của người lớn xung quanh trẻ (nói tiếng địa phương) Từ những thuận lợi và khó khăn đó, tôi thấy rằng phải cần phải khắc phục, sửa đổi và hướng dẫn trẻ phát triển ngôn ngữ một cách đúng đắn nhất qua giao tiếp và tập cho trẻ làm quen văn học. Vì vậy tôi đã tiến hành khảo sát một số kĩ năng của trẻ để có định hướng dạy trẻ, kết quả khảo sát như sau: Nội dung khảo Số trẻ Tỉ lệ Tỉ lệ Đạt Không đạt sát khảo sát (%) (%) Kĩ năng nghe kể 30 9 30,0 21 70,0 chuyện diễn cảm Kĩ năng đàm 30 10 33,3 20 66,7% thoại Kĩ năng kể lại chuyện và đóng 30 16 53,7 14 46,7% kịch * Từ kết quả khảo sát trên tôi xác định một số nguyên nhân sau: - Giáo viên chưa biết dạy trẻ cách sử dụng nhân vật phù hợp với ngôn ngữ lời kể - Giáo viên chưa lồng ghép các môn học khác khi dạy trẻ - Chưa tuyên truyền và kết hợp về phương pháp giáo dục giữa giáo viên và gia đình. Qua phần khảo sát trên, tôi phải phân loại đối tượng trong lớp để nắm được tình hình thực tế tìm hiểu và giáo dục một số trẻ cá biệt. Do đó chỉ tiêu cần đạt cuối năm học là từ 80 – 90% trẻ lớp tôi có kĩ năng sử dụng ngôn ngữ mạch lạc 6
  3. 2.2. Các giải pháp. Giải pháp 1. Tự bồi dưỡng nâng cao nhận thức. Hiện nay chương trình Giáo dục Mầm non được cải cách, thay đổi nhiều ở tất cả các lĩnh vực đặc biệt lĩnh vực phát triển ngôn ngữ, trước sự thay đổi nhiều về phương pháp giảng dạy và nhu cầu lĩnh hội kiến thức của trẻ được nâng cao. Với bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học tập, trau rồi nâng cao trình độ, để tìm gia những phương pháp dạy học tích cực nhất, thu hút trẻ tập chung vào bài học, và mang lại kết quả nhận thức cao nhất cho trẻ. Công nghệ thông tin ngày càng được ứng dụng nhiều trong các lĩnh vực. Bậc học Mầm non đã đưa Công nghệ thông tin vào trong các hoạt động để giúp trẻ nhận thức và gây hứng thú cho trẻ. Vì vậy tôi nghĩ bản thân phải có phương pháp sử dụng ứng dụng công nghệ thông tin vào bài dạy của mình sao cho hợp lý để giúp trẻ tiếp thu bài nhanh nhất, hiệu quả nhất trong mục tiêu giúp trẻ phát triển ngôn ngữ mạch lạc. do đó yêu cầu đặt ra với bản thân tôi nói riêng và các giáo viên mầm non nói chung phải không ngừng học tập, trau dồi nâng cao trình độ cả về lý thuyết lẫn thực hành vi tính sao cho sử dụng thành thạo. Bên cạnh đó tôi vẫn tìm tòi học hỏi thêm cách soạn giáo án powerpoint trên máy vi tính, đây cũng là những gợi ý tốt để giáo viên có thêm những ý tưởng sáng tạo mới nhằm tổ chức các hoạt động cho trẻ một cách sinh động, cuốn hút và đạt hiệu quả cao hơn . Không chỉ bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho cô, mà cũng cần cho trẻ được làm quen ,tiếp cận với những đồ dùng đồ chơi cô đã chuẩn bị, điều đó cũng giúp cho giáo viên nắm bắt được sâu hơn tâm lý và sở thích của trẻ . Giải pháp 2. Tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ. Tôi tiến hành tìm hiểu đặc điểm tâm sinh lí của trẻ 4 tuổi để so sánh với trẻ 5 tuổi, từ đó có biện pháp bồi dưỡng giáo dục trẻ 4 tuổi. * Đặc điểm phát âm: - Nói chung trẻ đã phát âm tốt hơn, ít ê a, ậm ừ. Trẻ vẫn còn phát âm sai, những âm thanh khó có 2-3 âm tiết như: lựu – nịu, hươu – hiu, lá- ná, nói – lói, chiêm chiếp – chim chíp, Tuy nhiên lỗi sai đã ít hơn so với trẻ 3 tuổi. * Đặc điểm vốn từ: - Vốn từ của trẻ tăng nhanh khoảng 1300 – 2000 từ. Danh từ và động từ ở trẻ vẫn chiếm ưu thế. Tính từ và các loại từ khác trẻ đã sử dụng nhiều hơn. - Trẻ đã sử dụng chính xác các từ chỉ biểu tượng về kích thước như: Cao – thấp, dài – ngắn, rộng – hẹp, các từ chỉ tốc độ như: Nhanh – chậm, các từ chỉ màu sắc: đỏ, vàng, trắng, đen. Ngoài ra các từ khái niệm thời gian như: Hôm qua, hôm nay, ngày mai trẻ dùng còn chưa chính xác. Một số trẻ còn biết sử dụng các từ chỉ màu sắc như: Xám, xanh lá cây, tím, da cam. 7
  4. - 100% trẻ biết sử dụng các từ cao, thấp, dài , ngắn, rộng, hẹp. Có 55% số trẻ đếm được từ 1- 10. Tuy nhiên trẻ sử dụng một số từ còn chưa chính xác. Ví dụ: Mẹ có muốn ngồi hông? ( không) * Đặc điểm ngữ pháp: - Trẻ ít sử dụng câu cụt hơn. Tuy nhiên trong một số trường hợp trẻ sử dụng từ vẫn chưa thật chính xác. ví dụ: Mẹ ơi! Con muốn cái dép kia! Chủ yếu trẻ vẫn sử dụng câu đơn mở rộng. - Trẻ có khả năng kể lại chuyện và kể chuyện có trình tự logic. Thế nhưng qua tìm hiểu quá trình phát triển ngôn ngữ của trẻ 4 tuổi chuyện có trình tự logic. Giải pháp 3.Tạo môi trường cho trẻ làm quen với văn học. * Về phía lớp: Ngay từ đầu năm học tôi đã phối hợp với cha mẹ học sinh khuyến khích sưu tầm và đóng góp các loại băng đĩa ghi hình, ghi tiếng về các bài thơ câu chuyện, sách chuyện, tranh chuyện, họa báo, tạp chí, để xây dựng góc sách chuyện mang những nội dung giúp trẻ làm quen văn học, để các giờ hoạt động góc trẻ được xem tranh vẽ về các câu chuyện, bài thơ.Trong giờ hoạt động góc này cô giúp trẻ, hướng dẫn trẻ dần dần chi giác và đọc kể được những bài thơ câu chuyện đó. Trong giờ đón và trả trẻ tôi mở đĩa ghi hình và tiếng những bài thơ câu chuyện cho trẻ xem nhằm giúp trẻ tri giác dần dần nội dung những bài thơ câu chuyện đó. - Tôi luôn tận dụng diện tích phòng học, chú ý bố trí sắp xếp các học cụ, đội hình để tạo môi trường học và thoải mái cho trẻ. Trong lớp tôi trang trí những mảng tranh chuyện thể hiện nội dung những bài thơ, câu chuyện theo từng chủ điểm. VD: với chủ diểm thế giới thực vật tôi trang trí mảng tranh truyện “ Cây thìa là” hoặc thơ “Cây dây leo” hoặc tôi hướng dẫn các cháu cùng làm những quyển tranh về những câu chuyện, bài thơ trẻ đã được làm quen để tăng thêm phần phong phú cho góc sách chuyện và tận dụng khả năng tối đa nâng cao chất lượng làm quen văn học cho trẻ. - Tôi sử dụng các nguyên vật liệu mở như: Thanh tre. Ly nhựa, nắp thiếc, hộp sữa, lõi giấy vệ sinh để làm thành những con rối xinh xắn. Trẻ cũng có thể sử dụng được để kể chuyện theo ý thích. - Để làm trang phục cho trẻ khi đóng kịch tôi dùng: Vải vụn, giấy, lá cây, tạo nhiều kiểu dáng trang phục lạ mắt thu hút trẻ. - Chú ý đến khả năng phát triển ngôn ngữ của trẻ để có sự điều chỉnh và sửa sai, rèn luyện khả năng ngôn ngữ cho trẻ. - Bản thân tôi trước khi tổ chức hoạt động cũng phải tự luyện giọng kể, cách sử dụng tranh, sách tranh, rối, mô hình, giáo án powerpoint để giúp trẻ cảm thụ văn học một cách tốt nhất. *Về phía nhà trường: Từ những năm học trước thực hiện chuyên đề “Văn học” nhà trường đã có suy nghĩ cần phát huy hiệu quả phòng thư viện, đồ chơi,phòng máy tính với các 8
  5. trang thư viện điện tử ở đó lưu trữ những giáo án văn học có ứng dụng công nghệ thông tin hoặc những hình ảnh, giữ liệu liên quan để thiết kế giáo án ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ tiết dạy làm quen văn học. Đến nay trường đã có đủ sách, tranh chuyện, tranh thơ, thư viện đồ chơi, thư viện giáo án điện tử phục vụ tiết dạy văn học cho tất cả các lứa tuổi. - Về chuyện thì có truyện cổ tích, chuyện kể sang tạo theo từng chủ điểm, những bài thơ, ca dao, cùng với nguồn tài liệu được lựa chọn với khả năng nhận thức củ trẻ. - Trong thư viện đồ chơi có vòng quay kỳ diệu, tranh rời, để trẻ tự sắp thành câu chuyện, có sân khấu rối với đủ loại rối, trang phục để trẻ diễn tập tạo nhiều hứng thú để giới thiệu nhân vật trong chuyện và trong thơ, trẻ có thể đóng kịch thể hiện các nhân vật trong chuyện, trong thơ. Ngoài ra phòng thư viện còn trang bị đầy đủ phương tiện nghe nhìn như đài, băng hình, trang thư viện giáo án điện tử, máy chiếu, máy tính sách tay để phục vụ tốt cho việc dạy và học môn làm quen văn học cho trẻ. Giải pháp 4. Rèn kĩ năng cho trẻ thông quấcc hoạt động trên lớp. * Dạy trẻ kể lại chuyện: - Trẻ tái hiện lại một cách mạch lạc, diễn cảm tác phẩm văn học mà trẻ đã được nghe. Trẻ sử dụng nội dung, hình thức ngôn ngữ đã có sẵn của các tác giả và của giáo viên. Tuy nhiên yêu cầu trẻ không học thuộc lòng câu chuyện một cách tự do thoải mái nhưng phải đảm bảo nội dung cốt truyện. - Yêu cầu đối với trẻ: + Kể nội dung chính của câu chuyện, không yêu cầu trẻ kể chi tiết toàn bộ nội dung tác phẩm. Lời kể phải có các cấu trúc ngữ pháp. Khuyến khích trẻ dùng ngôn ngữ chính của mình kể lại. Giọng kể diễn cảm, to, rõ, không ê a, ấp úng, cố gắng thể hiện đúng ngôn ngữ đối thoại hay độc thoại. + Chuẩn bị: Tiến hành trước giờ học, kể chuyện cho trẻ nghe. Trước khi kể cô giao nhiệm vụ trẻ ghi nhớ và kể lại. + Tiến hành : Đàm thoại về nội dung câu chuyện. Đàm thoại nhằm mục đích giúp trẻ nhớ lại nội dung câu chuyện, giúp trẻ xây dựng dàn ý câu chuyện kể,lựa chon hình thức gôn ngữ (cách dùng từ đặt câu) Ví dụ: Truyện “Dê con nhanh trí” – Dê mẹ dặn dê con như thế nào? Câu hỏi phải phù hợp với trẻ cả về hình thức ngữ pháp và nhận thức. Khi đàm thoại cô cần lưu ý giới thiệu cho trẻ biết thêm các từ đồng nghĩa những cụm từ thay thế để tạo điều kiện cho trẻ lựa chọn từ để kể. Tôi dùng ngôn ngữ ngắn gọn, dễ hiểu, phù hợp với nhận thức của trẻ kể lại nộ dung tác phẩm: Cô kể diễn cảm, lời kể có các mẫu câu cần luyện cho trẻ (mới). Mẫu truyện của cô có tác dụng chỉ cho trẻ thấy trước kết quả trẻ cần đạt được về nội dung, độ dài, trình tự câu chuyện. 9
  6. Trẻ kể xong, cô nhận xét, đánh giá truyện kể của trẻ, không nên để đến cuối buổi trẻ sẽ quên mất những ưu, nhược điểm của mình hay của bạn. Cô cần nhận xét đúng, chính xác để có tác dụng khuyến khích, động viên trẻ,nhận xét cả về nội dung, ngôn ngữ tác phong. * Chơi đóng vai theo chủ đề: - Khi chơi đóng vai theo chủ đề, trẻ phải tham gia vào các cuộc nói chuyện với bạn để phân vai, trao đổi với nhau trong khi chơi, trẻ bắt chước các nhân vật mà trẻ đóng vai, làm cho ngôn ngữ đàm thoại của trẻ thêm phong phú và đa dạng. Ví dụ: Chủ đề gia đình- chơi nấu ăn: Trẻ tự phân vai chơi của mình: Mẹ đi chợ, nấu ăn, chăm sóc các con, ba đi làm. * Chơi đóng kịch: - Tổ chức cho trẻ chơi đóng kịch là một phương pháp tốt để phát triển ngôn ngữ đối thoại cho trẻ. Trẻ làm quen với các mẫu câu văn học đã được gọt giửa, chọn lọc. Khi đó trẻ cố gắng thể hiện đúng ngữ điệu, tính cách nhân vật mà trẻ đóng, giúp cho ngôn ngữ của trẻ mang sắc thái biểu cảm rõ rệt. Ví dụ: Chủ đề gia đình, câu chuyện Tích Chu. Cháu Thịnh đóng vai Tích Chu: Lúc đầu ham chơi, thái độ không vâng lời, sau biết lỗi tỏ thái độ nhận lỗi, giọng chầm (Bà ơi, bà đi đâu! Bà ở lại với cháu, cháu sẽ mang nước cho bà, bà ơi!) Cháu Ánh Nguyệt đóng vai bà (giọng run run, rứt khoát) Bà đi đây! Bà không về nữa đâu! Cháu Thùy đóng vai bà tiên (tính cách hay giúp đỡ mọi người, giọng dịu dàng,nhỏ nhẹ) Nếu cháu muốn bà cháu trở lại thành người thì cháu phải đi lấy nước suối tiên cho bà cháu uống. Đường lên suối tiên xa lắm cháu có đi được không? Giải pháp 5. Tổ chức ôn luyện mọi lúc, mọi nơi, ôn luyện thông qua lễ hội * Hoạt động ngoài trời: Dạy trẻ kể về những hiện tượng, sự kiện trong cuộc sống hàng ngày, những điều trẻ đã biết, tưởng tượng Trẻ phải tự chọn nội dung, hình thức ngôn ngữ sắp xếp chúng theo một chật tự nhất định. Tôi chủ yếu tập cho trẻ kể theo hai dạng: kể chuyện miêu tả, kể chuyện theo chủ đề. * Kể chuyện miêu tả: Tôi dạy trẻ nêu tên, đặc điểm theo thứ tự khảo sát, tính liên hệ, kết thúc nêu ý nghĩa hoặc hành động. Ví dụ: Miêu tả thời tiết – Trời âm u, mây đen ,gió thổi mạnh, trời sắp mưa. * Kể chuyện theo chủ đề: Tôi chủ yếu rèn cho trẻ truyền đạt lại những sự kiện sảy ra trong một thời gian nhất định của nhân vật nào đó. Ví dụ: Truyện: Dê con nhanh trí – Con chó sói giả làm dê mẹ lúc dê mẹ đi vắng, nó giả giọng dê mẹ, nó nhúng chân vào thùng bột cho chân trắng giống dê mẹ. Nhưng chó sói vẫn bị dê con phát hiện ra và đuổi sói đi. 10
  7. Thời gian đầu trẻ kể theo mẫu của cô, sau đó có thể trẻ nhận thức chậm kể theo mẫu của cô. Để tập cho trẻ kể cô có thể cầm con rối để kể từng câu một, sau đó đặt câu hỏi để trẻ kể về con rối của trẻ Khi trẻ kể tôi thường nhắc trẻ: Trẻ phải đứng quay mặt về phía các bạn. Giọng kể rõ ràng, tốc độ hợp lí, tư thế tự nhiên thoải mái. Khi trẻ kể tác phong không đúng kể sai, phát âm ngọng cô nên để trẻ kể song rồi mới sửa, nhận xét nhưng không nên dừng lại quá lâu. Nếu trẻ quên hoặc không nói, cô đặt câu hỏi gợi ý giúp trẻ. Sau khi trẻ kể, cô nhận xét đánh giá chuyện kể của từng trẻ ngay, không nên để cuối giờ học. * Dạy trẻ kể chuyện theo trí nhớ: -Mục đích: Phát triển ngôn ngữ mạch lạc, ghi rõ mẫu câu cần luyện. - Chọn đề tài phù hợp với nhận thức và kinh nghiệm của trẻ. Để trẻ ghi nhớ một cách có chủ đích chuẩn bị kể được tốt, tôi thường giao nhiệm vụ trước cho trẻ. Ví dụ: Ngày mai là ngày cuối tuần, các con ở nhà làm gì? Các con chú ý nhớ những việc đã làm, hoặc được đi chơi thế nào kể lại cho cô và bạn nghe nhé. Trước tiên tôi chọn những đề tài chung (hoạt động mà cả lớp cùng được tham gia) Khi trẻ đã quen với cách kể, cô cho trẻ kể theo kinh nghiệm của trẻ. * Dạy trẻ kể chuyện sáng tạo; - Yêu cầu: Truyện kể mạch lạc, logic, các câu nói đúng ngữ pháp, thể hiện rõ ngôn ngữ đàm thoại hay độc thoại trong khi kể. Các dạng kể chuyện sáng tạo: kể nốt chuyện, kể theo đề tài và dàn ý cho trước, kể theo chủ đề tự cho, kể theo mô hình. - Chuẩn bị: Cô kể một đoạn chuyện rồi yêu cầu trẻ suy nghĩ kết thúc câu chuyện ( giao nhiệm vụ). Cô cho trẻ xem mô hình trước một ngày, đàm thoại gợi ý trước đề tài để trẻ suy nghĩ. - Tổ chức sinh động để phát huy trí tưởng tượng của trẻ, giúp trẻ xây dựng câu chuyện một cách hoàn chỉnh theo ý của từng cá nhân. - Một số cháu đã kể được khi sử dụng mô hình, sách tranh, con rối, tranh ảnh sưu tầm sau mỗi lần kể tôi chú ý nhận xét kĩ lời kể của trẻ và tao mọi cơ hội cho trẻ được kể chuyện sáng tạo. Ôn luyện mọi lúc, mọi nơi cũng là một biện pháp giúp ổn định trẻ. Tôi thường xuyên tổ chức ôn tập cho trẻ vào các hoạt động trong ngày, trong giờ hoạt động chính cô tích hợp cho trẻ đọc thơ hoặc vè trong phần gây hứng thú đầu giờ, trong giờ hoạt động ngoài trời cô tích hợp đồng dao vào các trò chơi vận động. Ví dụ: Trò chơi “Mèo đuổi chuột” lồng ghép bài đồng dao “Mèo đuổi chuột”, Vào các buổi chiều trong tuần trước khi tổ chức các hoạt động chiều tôi thường cho trẻ đọc ôn lại các bài thơ, vè, đồng giao, câu chuyện trước, tổ chức hoạt động chiều sau. 11
  8. Thông qua các hoạt động tổ chức lễ hội tổ chức hoạt động kể chuyện đóng kịch, đọc thơ theo một chương trình biểu diễn văn nghệ mà 100% trẻ được tham gia nhằm giúp trẻ hứng thú với bộ môn làm quen văn học. Ví dụ: lễ hội 20/11chào mừng ngày nhà giáo Việt Nam. cho trẻ kể chuyện sáng tạo về cô giáo của mình. Giải pháp 7. Liên kết giữa giáo viên và gia đình - Tôi đã làm bảng tin tuyên truyền về chương trình dạy theo chủ đề và thay tin hàng tuần để phụ huynh biết, trong bảng tuyên truyền này tôi đã ghi rõ nội dung của từng câu chuyện, bài thơ, vè, đồng dao, để phu huynh nắm được nội dung và phối hợp với giáo viên rèn luyện thêm cho trẻ ở nhà. - Vận động phụ huynh hỗ trợ vật phế phẩm: thùng giấy, sách báo cũ, chuyện đọc, chuyện tranh, hoặc những đồ dùng đồ chơi do phụ huynh tự làm, dụng cụ hóa trang - Tôi thường trao đổi, động viên phụ huynh cố gắng dành thời gian để tâm sự với trẻ và lắng nghe trẻ nói. Khi trò chuyện với trẻ phải nói rõ ràng mạch lạc, tốc độ vừa phải để trẻ nghe cho rõ. - Cha mẹ, người thân cố gắng phát âm đúng để trẻ bắt chước. - Khuyến khích hặc tuyên truyền với phụ huynh cung cấp kinh nghiệm sống cho trẻ. Tránh không nói tiếng địa phương, cần tránh cho trẻ nghe những hình thái ngôn ngữ không chính xác. 3. Phần kết luận 3.1. Ý nghĩa của đề tài * Phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ qua làm quen văn học có tác dụng và ảnh rất lớn đến trẻ, bước đầu được áp dụng trong phạm vi, một lớp đã mang lai hiệu quả rất cao trong việc phát triển ngôn ngữ mạch lạc cho trẻ, nếu được áp dụng rộng rãi trong toàn đơn vị và toàn nghành thì sẽ mang lại nhiều hiệu quả thiết thực cụ thể: - Góp phần phát triển nhân cách cho trẻ. - Hình thành và rèn cho trẻ một số đức tính tốt như: Ham hiểu biết, luôn yêu thích khám phá tìm tòi những điều mới lạ. - Rèn các kỹ năng: Ghi nhớ, chú ý, quan sát, lắng nghe và phát triển tư duy lô gíc, phát triển ngôn ngữ, óc quan sát phán đoán cho trẻ. - Qua bài học trẻ biết học tập những điều tốt, điều xấu . * Bên cạnh việc có tác dụng và ảnh hưởng đến trẻ thì phát triển ngôn ngữ cho trẻ qua làm quen văn học cũng có tác dụng và ảnh hưởng đến giáo viên. - Mở rộng tầm hiểu biết và nâng cao kiến thức cho các cô. - Cô học được cách làm việc cùng trẻ có hiệu quả - Cô được làm quen với công nghệ thông tin hiện đại và đã, đang từng bước có những sáng tạo trong làm đồ dùng đồ chơi phục vụ giảng dạy. 12
  9. - Qua công nghệ thông tin cô truyền thụ được đến trẻ tất cả những nội dung giáo dục không chỉ bằng lời nói mà còn bằng hình ảnh minh hoạ, âm thanh, tiếng động một cách sống động và trung thực. Qua đây tôi thấy việc gây hứng thú cho trẻ khi kể chuyện, đọc thơ là rất cần thiết, vì thế người giáo viên cần làm tốt những việc sau: - Nâng cao trình độ, năng lực chuyên môn của chính bản thân mình,coi ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo. - Giáo viên cần sưu tầm tranh ảnh có nội dung phù hợp, trao đổi kiến thức tự học qua sách báo, internet, qua đồng nghiệp. - Phối hợp với phụ huynh để động viên giáo dục trẻ thực hiện tốt yêu cầu cần đạt phù hợp lứa tuổi trẻ. Qua khảo sát cuối năm trẻ lớp tôi đã đạt được kết quả như sau. Nội dung khảo Số trẻ Tỉ lệ Tỉ lệ Đạt Không đạt sát khảo sát (%) (%) Kĩ năng nghe kể 30 25 83,4 5 22,6 chuyện diễn cảm Kĩ năng đàm 30 27 90,0 3 10,0 thoại Kĩ năng kể lại chuyện và đóng 30 25 83,4 5 22,6 kịch 3.2. Kiến nghị, đề xuất: - Tạo mọi điều kiện tốt nhất để giáo viên thực hiện tốt nhiệm vụ CS-GD trẻ. - Tiếp tục quan tâm đầu tư kinh phí, xây dựng, mua sắm cơ sở vật chất phục vụ công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân đã đúc rút ra từ quá trình dạy dạy trẻ 4-5 tuổi phát triển ngôn ngữ mạch lạc qua hoạt động làm quen với văn học. Những gì tôi đã làm tuy chưa cao nhưng cũng là sự cố gắng của bản thân. Vì vậy tôi rất mong được sự góp ý chân thành của hội đồng khoa học nhà trường, hội đồng khoa học cấp trên để tôi tiếp tục rèn luyện điều chỉnh góp phần vào việc chăm sóc giáo dục các cháu đạt kết quả tốt nhất. Xin chân thành cảm ơn! 13