SKKN Kinh nghiệm dạy học môn toán theo mô hình trường học mới VNEN cho lớp 5
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Kinh nghiệm dạy học môn toán theo mô hình trường học mới VNEN cho lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_kinh_nghiem_day_hoc_mon_toan_theo_mo_hinh_truong_hoc_mo.doc
Nội dung tóm tắt: SKKN Kinh nghiệm dạy học môn toán theo mô hình trường học mới VNEN cho lớp 5
- A . PHẦN MỞ ĐẦU I.1. Lí do chọn đề tài: Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học công nghệ ngày càng phát triển kéo rất nhiều thứ thay đổi trong đó có giáo dục.Giáo dục là bước then chốt tác động đến mọi mặt xã hội. việc thay đổi hình thức giáo dục để tạo ra một lớp người mới năng động, tự tin, làm chủ chính mình, biết hợp tác là một xu thế tất yếu. Trên thế giới việc thay đổi phương thức giáo dục đã diễn ra từ lâu đã mang lại nhiều thành công. Hình thức giáo dục mới này chuyển từ cách dạy học truyền thống thầy dạy trò nghe, ghi chép thụ động sang hình thức giáo dục hiện đại trò làm việc trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức, thầy quan sát giúp đỡ. Nổi bật ở hình thức dạy học này còn là cách tồ chức chỗ ngồi, học sinh được ngồi theo nhóm, được tự do thảo luận đưa ra ý kiến của mình. Về tới Việt Nam mô hình dạy học mới này có tên gọi VNEN hay mô hình trường tiểu học mới Việt Nam. Mô hình này coi quá trình tự học của học sinh là trung tâm hoạt động giáo dục, giáo viên là người hướng dẫn, đồng hành với học sinh, giúp học sinh tự tìm hiểu và lĩnh hội kiến thức.Trải qua gần 2 năm dạy thực nghiệm tôi nhận thấy không những phụ huynh mà còn nhiều giáo viên vẫn bỡ ngỡ chưa hiểu rõ bản chất của việc dạy học này.Và đặc biệt rất khó khăn trong quá trình tổ chức dạy học môn toán. Môn toán là môn học đặc trưng chiếm thời lượng nhiều trong tất cả các giờ học. Môn toán đòi hỏi tư duy logic và sự tập trung cao độ.Học sinh gặp nhiều khó khăn trong quá trình trải nghiệm, thực hành, chiếm lĩnh kiến thức. Xuất phát từ thực tế này và với mong muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán cho học sinh tiểu học tôi chọn sáng kiến: “Kinh nghiệm dạy học môn toán theo mô hình trường học mới VNEN cho lớp 5” I.2. Điểm mới của đề tài. Dạy học theo mô hình VNEN thực ra bản chất chính là cách thức dạy học theo nhóm. Đây là mô hình giáo dục tiên tiến, hiện đại đã được áp dụng thành công ở nhiều quốc gia trên thế giới và phù hợp với mục tiêu phát triển giáo dục nước ta.Các phòng học được trang trí sinh động.Có các góc cho môn học với đồ dùng sẵn có hoặc tự làm để học sinh hoạt động. Dạy học môn toán theo mô hình VNEN là việc dạy lấy học sinh làm trung tâm, trong quá trình hoạt động học sinh được tương tác, được đề xuất phương án, được phỏng vấn, được hỗ trợ từ các thành viên, từ giáo viên. Chuyển từ việc truyền thụ giảng giải của giáo viên thành hoạt động tổ chức học sinh tự học của học sinh. Mọi hoạt động trong giờ học do hội đồng tự quản điều hành các hoạt động được tổ chức theo các hình thức: làm việc cá nhân, làm việc theo cặp, làm việc nhóm, làm việc cả lớp trong đó ở hoạt động cơ bản hoạt động nhóm là chủ yếu, còn ở hoạt động thực hành học sinh thực hiện cá nhân để phát huy tính độc lập. Học sinh được học trong môi trường học tập thân thiện, thoải mái, không bị gò bó, luôn được gần gũi với bạn bè, với thầy cô, được sự giúp đỡ của bạn học trong lớp, trong nhóm và thầy cô, phù hợp với tâm sinh lý lứa tuổi các em. học sinh khá giỏi được phát huy, học sinh còn hạn chế, yếu kém được học sinh của nhóm và giáo viên giúp đỡ kịp thời ngay tại lớp. 1
- Trong quá trình dạy học môn toán học sinh sẽ được tương tác nhiều với nhau, được hỏi bạn, được giúp bạn.trong quá trình đó học sinh rút ra được bài học, khắc sâu củng cố, ghi nhớ lâu hơn, không bị áp lực. Học sinh được mạnh dạn đưa ra ý kiến của mình và bảo vệ ý kiến của mình.Mỗi thành viên luôn có ý thức làm việc không ỷ lại vào bạn, bởi mỗi thành viên trong nhóm đều có nhiệm vụ riêng góp phần vào tiến độ làm việc của nhóm.Khác với hình thức hoạt động nhóm trong phương pháp truyền thống là học sinh được làm việc trong thời gian nhất định và công việc hầu như học sinh khá giỏi trong nhóm làm hết, còn học sinh trung bình, yếu không tham gia vào hoạt động hoặc tham gia ít. II. PHẦN NỘI DUNG 2. 1. Thực trạng. Về phía giáo viên: Trước khi chuẩn bị thay sách, giáo viên chúng tôi đều được nhà trường tổ chức tập huấn phương pháp dạy học theo mô hình trường học kiểu mới (mô hình VNEN) để vận dụng trong quá trình giảng dạy. Thời gian đầu, mặc dù đã có sách hướng dẫn học tập cụ thể tuy nhiên trong thời gian đầu, việc vận dụng còn rất bất cập, lúng túng đặc biệt là đối với những giáo viên đang dạy theo sách giáo khoa chương trình hiện hành lớp 5. Khi sử dụng mô hình này còn bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp học, bởi thời gian hạn định cho một tiết học, giáo viên phải mất nhiều thời gian chuẩn bị đồ dùng và thiết kế nhiệm vụ cho nhóm. Do vậy giáo viên ngại đổi mới, ngại dạy học theo mô hình. Đôi khi giáo viên còn tổ chức hoạt động nhóm mang tính hình thức, chưa quan tâm sâu sát đến từng đối tượng học sinh trong khi các em học nhóm, nhất là học sinh yếu. Chưa tổ chức các hoạt động phù hợp với từng nhóm, từng học sinh một cách cụ thể dẫn đến kết quả chưa cao. Bên cạnh đó một số giáo viên tổ chức các hoạt động dạy học còn mang tính rập khuôn chưa có tính chủ động sáng tạo. Về phía học sinh: Trong hai năm học này học sinh khối 5 được học theo mô hình trường tiểu học mới. Các em luôn thực hiện theo 10 bước học tập, học theo nhóm là chính nên học sinh tự giác, mạnh dạn, biết chia sẽ, phát huy được tính năng động sáng tạo. Nhờ đó mà trong những giờ ngoại khóa, tiết học thực hành chúng tôi hướng dẫn các em quan sát mô hình học tập ở các khối chọn làm thí điểm này nhiều học sinh đã có ý thức tự giác, mạnh dạn hơn trước, biết chia sẽ, biết cách tổ chức trong học nhóm và bước đầu thực hiện được các bước học tập theo mô hình mới. Thế nhưng trong quá trình giảng dạy tôi thấy nhiều học sinh từ trước không được làm quen với cách học 2
- này nên có phần bỡ ngỡ. Một số học sinh năng lực chỉ đạo nhóm còn hạn chế thường e dè, chưa mạnh dạn, thiếu tự tin năng lực chỉ đạo chưa quen, chưa thành thạo 10 bước học tập. Bên cạnh đó tài liệu Hướng dẫn học tập không có còn phụ thuộc vào cuốn sách hiện hành bởi vậy còn gặp nhiều khó khăn nhất định. Một số học sinh còn hiếu động chưa có lòng kiên trì và quyết tâm cao, thấy khó là các em lùi bước vì khả năng phân tích, tổng hợp đề toán kém. Hạn chế trong việc tìm ra mối quan hệ giữa các dữ kiện của bài toán, tóm tắt bài toán thiếu chính xác. Học sinh khá giỏi thì chưa có thói quen tìm nhiều cách giải khác cho một bài toán. Một số em do kĩ năng tính toán hoặc giải toán còn hạn chế nên rất sợ học vì vậy việc dạy toán bên cạnh những thành công vẫn còn nhiều hạn chế. 2.2. Các giải pháp. Xuất phát từ những thực trạng trên, tôi nhận thấy việc dạy học theo mô hình dạy học truyền thống đâu tiên là việc sắp xếp chỗ ngồi. Học sinh được ngồi theo dãy theo hàng, theo bàn, 2 học sinh ngồi 1 bàn, tất cả cùng nhìn lên bảng, nghe giáo viên truyền thụ kiến thức. Với cách học này thì thời gian truyền tải kiến thức sẽ được chủ động, kiến thức sẽ được truyền thụ đầy đủ trong 1 thời gian nhất định tuy nhiên học sinh ít được hoạt động hơn đặc biệt là làm việc theo nhóm lớn. Với môn toán luôn cần có sự trao đổi, so sánh, khẳng định chân lý .Quá trình làm việc như vậy sẽ giúp học sinh nhận biết chân lý nhanh hơn, ghi nhớ lâu hơn, đưa ra phương án, cách làm tối ưu nhất. Ở chương trình cũ người học không biết bài hôm nay cần học những gì, đích đến ở đâu. Chỉ sau khi tiết học kết thúc hoặc sau phần lý thuyết học sinh mới biết mình đang tìm hiểu nội dung gì. Vì vậy đã làm giảm, hạn chế tư duy của học sinh. Ở hình thức dạy học mới đã khắc phục được nhược điểm của hình thức dạy học cũ. Thứ nhất là học sinh được làm việc theo nhóm, hoạt động theo nhóm có thể trao đổi bài với bạn ngay trong giờ học. với cách viết sách mới thì học sinh được biết mục tiêu của bài học, biết mình cần đạt được điều gì sau bài học như vậy sẽ kích thích học sinh học tập mạnh dạn hơn, tư duy chủ động, sáng tạo hơn. Cách viết sách mới giúp học sinh tự học dễ dàng hơn, hiểu bài đơn giản hơn so với sách cũ trừu tượng.Có thể nói sách giáo khoa cũ là sách dành cho giáo viên giảng dạy còn để tự học sinh làm việc là rất khó. Với hình thức dạy học mới giáo viên không phải nặng về giáo án nhưng nếu không tìm hiểu bài trước khi lên lớp thì có thể gặp nhiều tình huống khó xử nếu kiến thức không vững bởi môn toán lớp 5 không dễ, có rất nhiều bài toán trừu tượng. Trong quá trình dạy học môn toán theo chương trình VNEN nếu giáo viên không quan sát rộng, không chú ý đến những học sinh yếu, không chuẩn bị đồ dùng chu đáo thì hiệu quả tiết học rất thấp, học sinh yếu sẽ rất yếu do bị lệ thuộc vào học sinh khá giỏi dẫn đến hiệu quả tiết học thấp. 2.2.1. Hình thức tổ chức dạy môn toán 3
- Cũng giống hình thức tổ chức dạy học các môn khác đặc trưng dễ nhận biết đầu tiên là việc sắp xếp chỗ ngồi. Học sinh được bố trí ngồi theo nhóm tùy vào điều kiện lớp học rộng hẹp, số lượng học sinh nhiều hay ít mà sắp xếp học sinh ngồi theo nhóm 4 người hoặc nhóm 6 người, không nên sắp xếp nhóm có 3 người hay 5 người. Một nhóm cũng không nên sắp sếp quá 6 người. Trong lớp nếu trình độ của học sinh tương đối đồng đều nhau thì ta nên sếp theo nhóm ngẫu nhiên khi đó các thành viên trong nhóm có điều kiện học tập giúp đỡ nhau hoàn thành bài học tốt hơn, tinh thần thi đua trong nhóm sẽ được khơi dậy. Học sinh nhận thức nhanh hơn có thể giúp đỡ bạn nhận thức chậm hơn tiến trình tiết học diễn ra nhanh hơn.Khi đó giáo viên có thời gian để mở rộng, khắc sâu kiến thức cho cả lớp. Lớp học có trình độ học sinh không đồng đều tùy thuộc vào mục đích dạy học của mỗi giáo viên có thể sắp xếp nhóm theo trình độ. Tức là nhóm học sinh nhận thức nhanh ngồi với nhau, nhóm học sinh nhận thức chậm hơn ngồi với nhau.Nhóm học sinh nhận thức nhanh có thể tự trải nghiệm chiếm lĩnh kiến thức nhanh hơn có thời gian để nâng cao kiến thức, giải toán nâng cao. Nhóm học sinh nhận thức chậm hơn được làm việc với nhau sẽ không còn sự ỷ lại, học sinh tự giác học tập hơn thi đua nhau cùng tiến bộ và được giáo viên hỗ trợ nhiều hơn thì nhóm học sinh này sẽ nhận thức kịp với tiến độ chương trình, đạt được mục tiêu của bài học. Với cách tổ chức này tôi thường tổ chức vào buổi học thứ hai hoặc vào những buổi học nâng cao năng lực học sinh. Lớp học có từ hai thành phần dân tộc trở nên do ngôn ngữ Tiếng Việt của học sinh còn hạn chế, có học sinh chưa hiểu hết nghĩa của bài toán trong khi tiếng dân tộc của giáo viên còn hạn chế thì có thể sắp xếp nhóm theo thành phần dân tộc. Được ngồi cùng nhau những nhóm học sinh này dễ giải thích thảo luận với nhau, ít mặc cảm từ đó giúp quá trình học tập đạt hiệu quả hơn.Với cách chia nhóm này tôi cũng thường sử dụng vào buổi học thứ hai. Có nhiều cách tổ chức lớp học nhưng để hiệu quả thì có 3 cách tổ chức lớp học như trên. Trong quá trình tổ chức như vậy vai trò của giáo viên hết sức quan trọng tiết học có thành công hay không chính là khâu tổ chức của giáo viên. Giáo viên là người gợi động cơ, tạo hứng thú, cho học sinh trải nghiệm dựa vào vốn kiến thức sẵn có của học sinh trước tiết học mới.Giáo viên là người hướng dẫn giúp đỡ học sinh khi học sinh gặp khó khăn.Động viên khuyến khích các em làm các em tự tin vào bản thân, phát huy được hết năng lực, sở trường của mình. Người giáo viên đóng vai trò là người đánh giá chính quá trình chiếm lĩnh kiến thức hướng các em đến đáp án tối ưu nhất. Đồng thời cũng là người chốt lại kiến thức cơ bản của bài để các em không xa rời mục tiêu của bài. Để giúp đỡ được học sinh kịp thời trong tiết học thì vị trí đứng của giáo viên cũng rất quan trọng. Giáo viên cần chọn vị trí phù hợp sao cho vừa giúp đỡ được nhóm này đồng thời vẫn quan sát được nhóm khác hoạt động, tránh tình trạng trong khi giáo viên đi giúp đỡ nhóm này thì nhóm khác không hoạt động hoặc hoạt động xong rồi ngồi chơi, giáo viên cần phát hiện và kịp thời cho học sinh chuyển sang hoạt 4
- động khác. Theo tôi các nhóm cần được bố trí sao cho giáo viên có thể đi lại thuận tiện xung quanh và các học sinh nhận thức chậm sẽ được bố trí ngồi ngoài để giáo viên thuận tiện giúp đỡ và quan sát. Sơ đồ tổ chức lớp học 30 học sinh mỗi nhóm 6 học sinh B ả n g lớ p Vị trí giáo viên nên chọn trong quá trình quan sát giúp đỡ các nhóm 2.2. 2Cách thức tiếp nhận thông tin Để quá trình tiếp nhận thông tin, chiếm lĩnh kiến thức đạt hiệu quả cần thực hiện theo quy trình sau : Gợi động cơ, tạo hứng thúHiểu được mục tiêu của bài học Tổ chức cho học sinh trải nghiệmPhân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới Thực hành Vận dụng. - Gợi động cơ, tạo hứng thú: Khới dạy hứng thú của học sinh về chủ đề của bài học; học sinh cảm thấy gần gũi với mình; tạo sự tò mò thích thú: có thể đặt câu hỏi; đặt một tình huống; đố vui - Hiểu được mục tiêu bài học: Cho học sinh biết được đích cần phải đến của bài học, tiết học. Không chỉ là việc đọc mục tiêu học sinh phải hiểu rõ từng chữ, từng từ của mục tiêu từ đó học sinh sẽ hoạt động hiệu quả đúng hướng. - Tổ chức cho học sinh trải nghiệm :Huy động vốn kiến thức của học sinh, học sinh trải qua tình huống có vấn đề trong đó chứa đựng những nội dung kiến thức mới. - Phân tích, khám phá, rút ra kiến thức mới : Dùng những câu hỏi gợi mở, câu hỏi phân tích, đánh giá để giúp học sinh rút ra bài học. Có thể dùng hình thức thảo luận cặp đôi, nhóm kích thích trí tò mò sự ham thích tìm tòi, khám phá phát hiện của học sinh. - Thực hành : Cho học sinh vận dụng những kiến thức vừa học để làm những bài tập cơ bản. Giáo viên quan sát giúp đỡ học sinh nhận ra khó khăn của mình, nhấn mạnh lại quy tắc, thao tác, cách thực hiện. Đồng thời giáo viên tiếp tục ra các bài tập khó hơn phù hợp với khả năng của học sinh, tiếp tục giúp các em giải quyết khó khăn 5
- bằng cách liên hệ với kiến thức cơ bản. Có thể giao bài cho cá nhân, hoặc theo nhóm - Vận dụng : Giáo viên cần giúp học sinh thấy được ý nghĩa thực tế của toán học từ đó khắc sâu kiến thức. Khuyến khích học sinh diễn đạt theo ngôn ngữ cách hiểu của chính các em. Khuyến khích học sinh tập phát biểu, diễn đạt có lí lẽ, có lập luận logic. Lưu ý: Trong quá trình giảng dạy để đạt hiệu quả cần vận dụng linh hoạt, mềm dẻo không phải hoàn cảnh nào cũng vận dụng dầy đủ các bước trên. Cơ bản trong mọi tình huống giáo viên cần chuẩn bị kiến thức, nhiệt tình với học sinh, nghiêm túc trong dạy học, luôn động viên khuyến khích kịp thời, cần chú ý quan tâm đến học sinh nhận thức chậm. 2.2.3. Cách ghi nhớ kiến thức Ghi nhớ kiến thức rất quan trọng bởi trong môn toán kiến thức của bài sau thường liên quan đến kiến thức bài trước.Không nhớ được kiến thức bài trước học sinh không thể vận dụng vào hoạt động bài sau.Đặc biệt mô hình VNEN chủ yếu là học sinh tự khám phá, chiếm lĩnh kiến thức. Để ghi nhớ hiệu quả cần làm như sau : Việc học toán phải chú trọng vào tư duy phân tích hơn là học thuộc lòng đơn thuần. Ví dụ :Ghi nhớ cách đổi 1m2 = 100 dm2 Cho hs hiểu 1m2 là diện tích hình vuông có cạnh 1m, mà 1m = 10dm. Diện tích hình vuông có cạnh 1m bằng diện tích hình vuông cạnh 10dm. Diện tích hình vuông cạnh 10dm là: 10 10 = 100dm2 Vậy 1m2 = 100 dm2 1dm 6
- Tạo ấn tượng sẽ làm cho học1m sinh nhớ lâu Ví dụ : Ghi nhớ được thứ tự của bảng đơn vị đo độ dài. Km hm dam m dm cm m Đây là 1 dãy kĩ tự mà học sinh không nhớ được thứ tự các đơn vị dẫn đến tình trạng không thể đổi được đơn vị đo. Vậy cần tạo cho học sinh 1 ấn tượng về bảng đơn vị đo. Có thể làm như sau: Từ Km hm dam m dm m Trở thành Không họcđể mà đi chăn mèo Km hm dam m dm cm m Không học để mà đi chăn mèo Tức là gắn chữ cái đầu của mỗi đơn vị với 1 từ và tạo thành một câu ấn tượng. Câu này đọc thì vô lý nhưng học sinh rất ấn tượng vì vậy chắc chắn học sinh sẽ không bao giờ quên bảng đơn vị đo độ dài và sẽ không bị nhầm lẫn khi đổi. Và một cách ghi nhớ nữa là dựa vào sơ đồ tư duy của bộ não: sơ đồ này giống như một cái cây có 1 gốc và nhiều cành nhánh, mỗi cành nhánh là một mảng kiến thức, công thức giúp học sinh hệ thống lại kiến thức theo cách lôgic Ví dụ: S = a x a Hình vuông p = a x 4 S = a x b Hình chữ nhật p = (a +b)x2 Hình học Hình tam giác S = a x h : 2 p = a + b + c Hình thang S = (a + b) x h : 2 p = a + b + c + d Trên đây là ví dụ về sơ đồ tư duy tùy vào bài cụ thể mà có các sơ đồ khác nhau.Cũng có thể dùng sơ đồ tư duy để chốt lại kiến thức bài học. VI. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM Bài minh họa cho sáng kiến * 1 Ví dụ 1 Bài 37: NHÂN MỘT SỐ THẬP PHÂN VỚI MỘT SỐ THẬP PHÂN Mục tiêu Cho học sinh đọc mục tiêu bài học, nhắc lại với bạn về những việc mình cần đạt được sau bài học. A. Hoạt động cơ bản 1. Học sinh làm việc theo nhóm khám phá cách nhân hai số thập phân. Học sinh cùng bạn cùng đọc kĩ bài toán 7
- a) Một mảnh vườn hình chữ nhật có chiều dài là 9,8m, chiều rộng là 5,3m. Tính diện tích mảnh vườn đó. b) Em hỏi để bạn trả lời Để tính diện tích mảnh vườn đó ta làm thế nào? Thực hiện phép tính gì? c) Em và bạn cùng đọc rồi giải thích cho nhau nghe dung sau: Để tính 9,8 5,3 = ?, thông thường ta đặt tính rồi làm như sau : 9,8 Thực hiện phép nhân như nhân các số tự nhiên. Hai thừa số có tất cả hai chữ số ở phần thập 5,3 phân, ta dùng dấu phẩy tách ở tích ra hai chữ số kể từ 2 9 4 4 9 0 phải sang trái. 5 1,9 4 d) Đặt tính rồi tính : 25,8 1,4. Giáo viên quan sát, giúp đỡ học sinh làm, chốt kiến thức trong nhóm cần lưu ý lại cách nhân hai số thập phân. Đó là nhân giống như nhân các số tự nhiên, đếm xem có tất cả bao nhiêu chữ số ở đằng sau dấu phẩy của hai thừa số thì tích sẽ có bấy nhiêu chứ số đằng sau dấu phẩy. Bởi nhiều học sinh sẽ không hiểu hết nghĩa của phần đọc thông tin. HĐ 2 Làm việc cả lớp a) Làm việc cá nhân nêu cách đặt tính và thực hiện phép tính 8,74 6,9. Đổi vở trao đổi với bạn. b) Em và bạn đọc rồi giải thích cho nhau nghe nội dung cách nhân hai số thập phân. Giáo viên thực hiện giảng trên lớp vì đây là phần kiến thức trọng tâm học sinh cần hiểu rõ cách làm thế nào, đặt dấu phẩy ở đâu. “ Thực hiện nhân như nhân hai số tự nhiên, hai thừa số có tất cả ba chữ số ở hàng thập phân thì tích cũng có ba chữ số ở hàng thập phân. Dùng dấu phẩy tách tích ra ba chữ số kể từ phải sang trái. Vừa nói giáo viên vừa chỉ trên bảng để tạo hình ảnh trực quan. c) Học sinh thực hiện đặt tính rồi tính : 16,25 6,7 Thống nhất kết quả đúng, hướng dẫn bạn còn gặp khó khăn. HĐ 3. Khắc sâu kiến thức Làm việc cặp đôi cùng bạn đọc nội dung quy tắc cách nhân một số thập phân với một số thập phân, nói với bạn cách nhân một số thập phân với một số thập phân, lấy ví dụ minh họa. B. Hoạt động thực hành Cặp đôi HĐ 1. Đặt tính rồi tính Học sinh làm việc cá nhân, sau đó từng cặp đổi vở chữa bài cho nhau a) 25,8 1,5 b) 16,25 6,7 c) 0,24 4,7 d) 7,826 4,5 HĐ 2 Hình thức tổ chức như HĐ 1, giáo viên quan, kiểm tra các nhóm làm việc, hoặc trợ giúp nhóm, học sinh còn lúng túng. a) Tính rồi so sánh giá trị của a b và b a a b a b b a 8
- 2,36 4,2 3,05 2,7 b) Em và bạn đọc rồi giải thích cho nhau nghe nội dung : Nhận xét Phép nhân các số thập phân có tính chất giao hoán : Khi đổi hai thừa số của một tích thì tích không thay đổi. a b = b a c) Em vận dụng viết ngay kêt quả tính: 4,34 3,6 = 15,624 9,04 16 = 144,64 3,6 4,34 = 16 9,04 = HĐ 3 Thực hiện lần lượt các hoạt động sau. a) Đặt tính rồi tính : Các em hoạt động cá nhân, so sánh kết quả 142,57 0,1 531,75 0,01 b) Học sinh đọc theo cặp rồi giải thích cho nhau nghe nội dung : Giải thích cho bạn tại sao khi nhân một số thập phân với 0,1 ; 0,01 ; 0,001 ta không cần đặt tính mà chỉ việc dịch chuyển dấu phẩy sang bên trái một, hai, ba, chữ số. Giáo viên quan sát, giúp đỡ. Khắc sâu lại kiến thức trong nhóm, có thể giải thích thêm nếu học sinh chưa hiểu. c) Tính nhẩm. Học sinh làm việc cá nhân đổi vở kiểm tra nhau. HĐ 4 Viết các số đo dưới dạng số đo có đơn vị là ki-lô-mét vuông Học sinh thực hiện cá nhân, làm xong báo cáo nhóm trưởng, nhóm trưởng kiểm tra. HĐ 5, HĐ6 Giải các bài toán sau : Học sinh làm bài, đổi vở chữa bài cho nhau. Đây là 2 bài toán có lời văn nếu trong lớp có nhiều học sinh gặp khó khăn chưa làm được. Ta sẽ chuyển sang hoạt động lớp để đảm bảo học sinh kịp tiến độ chương trình. Nhưng vẫn đảm bảo tính tích cực lấy học sinh làm trung tâm. Học sinh báo kết quả những việc em đã làm. Giáo viên có thể dùng sơ đồ tư duy như sau để củng cố lại kiến thức cho học sinh. 9
- Nhân như nhân số Đếm số chữ số ở Đánh dấu phẩy ở tự nhiên phần thập phân của tích hai thừa số Nhân số thập phân Nhân số thập Đếm số chữ số ở phân với 0,1 ; phần thập phân các Dịch dấu phẩy ở 0,01 ; 0,001 số 0,1 ; 0,01 ; tích 0,001 C. Hoạt động ứng dụng Các em đọc yêu cầu hoạt động ứng dụng, yêu cầu các em về nhà đo thực tế rồi tính diện tích của nền căn phòng. Giáo viên nhận xét và ghi nhận kết quả học tập của học sinh Với bài học trên học sinh đã được làm việc theo đúng quy trình, trong bất cứ hoạt động nào học đều được làm việc cá nhân trước khi hoạt động cặp đôi, hoạt động nhóm, hoạt động cả lớp. Học sinh được được khắc sâu kiến thức qua sơ đồ tư duy hoặc cũng có thể giáo viên gợi ý để học sinh tự vẽ sơ đồ kiến thức, như vậy học sinh càng nhớ lâu hơn. 3. Phần kết luận: 3.1. Kết quả đạt được: Với phương pháp dạy học theo mô hình VNEN tất cả học sinh trong lớp đều được cùng nhau bàn bạc, hợp tác để giải quyết vấn đề. Đây là phương pháp dạy học dễ tổ chức và áp dụng được cho tất cả các môn học trong chương trình tiểu học. Qua hoạt động học tập học sinh biết cách trình bày ý kiến của mình với người khác, với tập thể, làm cho các em trở nên tự giác, linh động, sáng tạo, mạnh dạn, tự tin hơn. Học sinh biết nghe và lựa chọn để tiếp nhận hiểu biết của người khác để bổ sung vào vốn hiểu biết của mình, đồng thời tập dượt cho các em vai trò chỉ đạo. Qua việc tổ chức hoạt động học tập tôi thấy các em hứng thú, say sưa sôi nổi hơn trong học tập. Những học sinh giỏi thực sự có điều kiện phát huy năng lực của mình. Còn những em trước đây kĩ năng tính toán hạn chế, tiếp thu bài chậm, ít trao đổi, ít giơ tay phát biểu ý kiến thì nay đã mạnh dạn hơn, tự tin hơn, sôi nổi hơn nhiều. Các em biết hợp tác, giúp đỡ, giao tiếp học hỏi lẫn nhau, tự tìm tòi, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến thức. Các em 10
- học tập một cách hứng thú, tập trung với tinh thần thi đua, vui vẻ, tích cực. Tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động và hiệu quả. Lớp học trở nên thân thiện, gần gũi tạo cho các em có được cảm giác mỗi ngày đến trường là một ngày vui. Kết quả học tập cuối năm của học sinh ở môn Toán do tôi giảng dạy được nâng lên rõ rệt so với kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến. Bảng 1: Kết quả khảo sát trước khi áp dụng sáng kiến: Toán Giỏi Khá TBình Yếu SL % SL % SL % SL % 7 24,1 10 34,5 10 34,5 2 6,9 Bảng 2: Kết quả khảo sát sau khi áp dụng sáng kiến: Toán Giỏi Khá TBình Yếu SL % SL % SL % SL % 20 69 8 27,6 1 3,4 0 0 3.2. Bài học kinh nghiệm: Để giúp học sinh học tốt Toán 5 theo mô hình VNEN thì bản thân tôi đã thực hiện các giải pháp trên trong quá trình dạy và học. Trong lớp một số học sinh yếu từ chỗ lười học nay đã có sự tiến bộ nhiều: siêng năng hơn, không còn lo lắng sợ sệt khi gặp bài toán khó để cho rằng khả năng mình làm không được. Bên cạnh đó người giáo viên phải thường xuyên làm giàu vốn kiến thức của bản thân để trong quá trình dạy học có thể ứng xử kịp thời với những tình huống, với những bài khõ mà học sinh nêu ra. Giáo viên vừa là người thầy truyền đạt những kiến thức vừa là người cha, người mẹ chăm sóc thương yêu và động viên, an ủi, để giúp học sinh ngày càng tiến bộ. Đồng thời luôn luôn làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục đó là một yếu tố để nâng cao chất lượng giáo dục. Qua thực tế vận dụng trong quá trình dạy học, bản thân tôi đã đúc rút ra những bài học cụ thể như sau: - Cần xác định rõ mục tiêu bài dạy và thiết kế bài giảng chu đáo. - Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện và nội dung cho hoạt động . 11
- - Lựa chọn phương pháp và tổ chức hình thức dạy họcmột cách linh hoạt. - Tổ chức các hoạt động dạy học phù hợp với mục tiêu, nội dung bài học, môn học, thời gian học theo từng đặc điểm và trình độ nhận thức của từng học sinh trong lớp. - Trong quá trình tổ chức, giáo viên cần quan tâm giúp đỡ nhóm, cá nhân hoạt động còn yếu, chưa sôi nổi. - Đánh giá, nhận xét phải hết sức công bằng, vô tư, khách quan, có tính chất động viên, khích lệ học sinh. Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của bản thân tôi đã áp dụng và đúc rút qua thực tế giảng dạy Toán ở lớp 5. Tôi xin mạnh dạn trình bày lên đây mong các bạn đồng nghiệp cùng tham khảo và đóng góp ý kiến để bản thân tôi giảng dạy tốt hơn trong những năm tiếp theo. 3.3. Kiến nghị, đề xuất: Quảng Bình, ngày 30 tháng 10 năm 2016 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Trần Ái - Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Quý Thao - Bùi Quang Tuấn -Nguyễn Hồng Vy - Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội. 12
- 2. Ngô Trần Ái - Nguyễn Thị Bình - Nguyễn Quý Thao - Bùi Quang Tuấn -Nguyễn Hồng Vy - Vũ Quang Vinh ( Năm 2007) SGK Toán 5 - Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội. 3 . Ngô Trần Ái - Nguyễn Quý Thao - Phạm Ngọc Định - Ngô Ánh Tuyết - Vũ Bà Khánh ( Năm 2013) -Tài liệu tập huấn dạy học theo mô hình trường tiểu học mới Việt Nam lớp 4 - Tập 1,2. 13