SKKN Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh Lớp 8 trong việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS

pdf 14 trang binhlieuqn2 07/03/2022 3532
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh Lớp 8 trong việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfmot_so_bien_phap_chua_loi_cau_tieng_viet_cho_hoc_sinh_lop_8.pdf

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh Lớp 8 trong việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS

  1. tiếp vào việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Vì thế để nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng Việt, mà phải kết hợp chữa lỗi câu thông qua quá trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn, tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu. - Khả năng áp dụng, nhân rộng: có thể áp dụng được thường xuyên không chỉ cho các tiết dạy tiếng Việt mà còn dùng cho cả dạy văn bản và Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9 hoặc tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu. - Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp: Ưu thế của hướng giảng dạy này là với phân môn tiếng Việt : giờ học không chỉ là truyền thụ kiến thức mà là giờ khơi gợi, khuyến khích học sinh tìm ra con đường đi tới kiến thức, tìm ra cái hay, cái đẹp của hình tượng nghệ thuật thông qua ngôn từ. Trong bài giảng thầy giảng một nửa phần còn lại để học sinh tự làm lấy. Hướng giáo dục tự phát huy tính chủ động của học sinh đã lập được quan hệ đối chiếu đa chiều giữa thầy với trò, trò với trò. Là bạn nghiên cứu nhiều kinh nghiệm, là cố vấn, người thầy không can thiệp vào cách tiếp nhận tri thức của học sinh và cũng không áp đặt cách đánh giá của học sinh Bên cạnh đó, phương pháp học tập này còn phát huy được tối đa các năng lực của học sinh như: tự học, giải quyết tình huống có vấn đề, giao tiếp, hợp tác, phát triển ngôn ngữ nói; học sinh học tập tích cực, hứng thú, nắm chắc kiến thức; giáo viên nói ít, chỉ là trọng tài hướng dẫn, tổ chức các hoạt động và chốt kiến thức; từ đó làm cho bộ môn Ngữ văn ngày càng được các em yêu thích. CƠ QUAN ĐƠN VỊ Thủy Nguyên, ngày 28 tháng 03 năm 2017 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Người viết đơn 3
  2. THÔNG TIN CHUNG VỀ SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Một số biện pháp chữa lỗi câu Tiếng Việt cho học sinh lớp 8 trong việc dạy học Ngữ văn ở bậc THCS. 2. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: trong việc dạy học môn Ngữ văn ở THCS. 3. Tác giả: - Họ và tên: - Ngày/tháng/năm sinh: - Chức vụ, đơn vị công tác: - Điện thoại: 4. Đơn vị áp dụng sáng kiến: - Tên đơn vị: - Địa chỉ: - Điện thoại: I.Mô tả giải pháp đã biết: 1.Ưu điểm. : Môn Ngữ văn là môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, điều đó nói lên tầm quan trọng của nó trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng tình cảm cho học sinh. Đại văn hào Nga Mác-XimGor-Ki đã nói: “Học văn là học làm người”. Học tốt môn ngữ văn giúp học sinh tự tin rất nhiều trong giao tiếp với đời sống xã hội, giao tiếp với đời sống gia đình và bạn bè. Muốn vậy thì trong cách diễn đạt câu không được phép mắc lỗi. Và dù sau này bước vào đời, học sinh có thể tham gia mọi ngành nghề phục vụ xã hội, môn Ngữ văn luôn luôn là phương tiện, là người bạn tốt trên đường đời của mỗi học sinh, giúp các em sống tốt hơn, đẹp hơn. Rõ ràng là môn Ngữ văn có một vị trí quan trọng trong nhà trường phổ thông. Song có một thực trạng đáng buồn là hiện nay không ít học sinh thực sự không mặn mà với việc học văn “không chịu” đọc sách, báo và các tài liệu tham khảo, lười suy nghĩ, sáng tạo. Chính vì thế mà trong khi nói cũng như khi viết, các em thường không diễn đạt được nội dung mình định nói do đó dẫn đến việc viết câu sai. Là giáo viên trực tiếp giảng dạy môn Ngữ văn, bản thân tôi thấy mình cần phải làm gì để giúp học sinh nhận ra lỗi viết câu sai là loại lỗi gì, nguyên nhân và cách sửa chữa. Từ đó, các em sẽ không chỉ biết viết câu sao cho đúng mà còn biết viết những câu hay, ý tứ. Chính vì lí do đó, tôi đã chọn đề tài “Một số biện pháp chữa lỗi câu tiếng việt cho học sinh lớp 8” 4
  3. - Hạn chế: Còn một bộ phận không nhỏ giáo viên chưa có nhận thức đầy đủ về đổi mới phương pháp, ứng dụng CNTT; tự bồi dưỡng về chuyên môn nghiệp vụ chưa thường xuyên; áp dụng các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới còn lúng túng, hình thức, gò ép; chưa phát triển được các năng lực của học sinh, chưa đạt mục tiêu của tiết dạy và bộ môn. II.Nội dung giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến: II.0. Nội dung giải pháp mà tác giả đề xuất: - XuÊt ph¸t tõ tÇm quan träng cña m«n häc : §©y lµ bé m«n khoa häc cã nhiÖm vô gi¸o dôc rÌn luyÖn häc sinh nãi vµ viÕt tiÕng mÑ ®Î mét c¸ch chuÈn x¸c ®óng yªu cÇu . §Ó råi tõ ®ã gióp c¸c em vËn dông nã lµm ph­¬ng tiÖn giao tiÕp trong cuéc sèng vµ c«ng viÖc hµng ngµy ®ång thêi , nã cßn lµ “c¸i ch×a khãa” gióp c¸c em tiÕp cËn tiÕp thu kiÕn thøc cña c¸c m«n khoa häc kh¸c trong nhµ tr­êng . - XuÊt ph¸t tõ t×nh h×nh thùc tÕ qua nhiÒu n¨m gi¶ng d¹y t«i thÊy viÖc viÕt c©u cña häc sinh hiÖn nay vÉn cßn nhiÒu mÆt h¹n chÕ. Cô thÓ häc sinh viÕt sai chÝnh t¶ , vèn tõ nghÌo nµn , c©u sai có ph¸p , dÊu c©u ®¸nh tïy tiÖn , diÔn ®¹t r­êm rµ , tèi nghÜa , l¹i cßn ®äc sai , viÕt Èu . - Qua kinh nghiÖm theo dâi t×nh h×nh thùc tÕ trong nhiÒu n¨m t«i thÊy cã nhiÒu nguyªn nh©n chñ qua xen lÉn kh¸ch quan dÉn ®Ôn t×nh tr¹ng häc sinh viÕt c©u sai ch­a n¾m v÷ng quy t¾c viÕt c©u . Trong ®ã ®¸ng l­u ý lµ vai trß cña häc sinh- ®èi t­îng häc tËp qu¸ thô ®éng , ch­a chÞu khã t×m tßi suy nghÜ, kh«ng “®éng n·o” tr­íc nh÷ng vÊn ®Ò c¬ b¶n mµ m×nh ch­a lÜnh héi . - Së dÜ häc sinh häc cßn thô ®éng tiªu cùc nh­ vËy theo t«i nghÜ nguyªn nh©n s©u xa lµ do ph­¬ng ph¸p d¹y vµ c¸ch truyÒn thô cña gi¸o viªn ®«i khi thÇy còng ch­a thùc sù chó ý söa sai nh÷ng kiÕn thøc cèt yÕu cña tõng ®èi t­îng häc sinh . Tõ thùc tr¹ng trªn t«i ®· tiÕn hµnh kh¶o s¸t c¸c lçi vÒ c©u. KÕt qu¶ thu ®­îc nh­ sau: 5
  4. Khèi Sè Kh«ng Tû lÖ N¨m häc Lçi C¸c lo¹i lỗi chñ yÕu líp l­îng lçi (%) 2016-2017 8 197 55 142 - Thiếu các thành phần nòng cốt 27,1 câu . - Viết câu thiếu vế. 22,3 - Không ý thức rõ về thành phần 21,2 phụ trạng ngữ với chủ ngữ . - Sai quan hệ logic chủ đề - liên 14,1 kết hình thức. - Sai quan hệ ngữ nghĩa giữa 15,3 các thành phần trong câu. *Các giải pháp thực hiện: - Khi viết câu nội dung phải hợp lí về mặt logic và ngữ nghĩa: + Câu phải có nghĩa, vì có nghĩa chúng ta mới hiểu được nội dung, mục đích thông báo. Muốn vậy dùng từ trong câu và viết chính tả phải đúng. + Mặt khác, đứng về mặt ý nghĩa giữa các từ, các bộ phận trong câu không được mâu thuẫn nhau, mà phải thống nhất với nhau, ý của câu cũng phải thống nhất với ý của đoạn văn, của văn bản, đảm bảo sự phát triển liền mạch, liền ý của đoạn văn và văn bản. - Câu trúc cú pháp của câu phải phù hợp với qui tắc tạo câu của Tiếng Việt. * Câu là một chỉnh thể ngữ pháp độc lập, chứa đựng một nội dung thông báo hoàn chỉnh và gắn với một hoàn cảnh giao tiếp nhất định. Câu có hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ. * Chủ ngữ nêu tên sự vật, hiện tượng có hành động, đặc điểm, trạng thái được miêu tả ở vị ngữ. Chủ ngữ thường đứng trước vị ngữ. Ví dụ: Con bò đang gặm cỏ CN VN Chủ ngữ thường do danh từ đảm nhiệm, nhưng cũng có thể do động từ, tính từ đảm nhiệm. Chủ ngữ có thể được cấu tạo từ một từ hoặc một cụm từ. * Vị ngữ chỉ ra hành động, trạng thái, tính chất, quan hệ của sự vật, hiện tượng nêu ở chủ ngữ. 6
  5. Vị ngữ thường đứng sau chủ ngữ, do động từ, tính từ (cụm động từ, tính từ) hoặc do các từ, cụm từ khác đảm nhiệm. * Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải đảm bảo quan hệ hợp lí, chặt chẽ. Thường thì trong câu chủ ngữ đứng trước, vị ngữ đứng sau. Chỉ trong những trường hợp hạn hữu, trong câu mới có hiện tượng đảo trật tự giữa chủ ngữ và vị ngữ. Khi muốn nhấn mạnh ý, làm cho câu có tính gợi hình, gợi cảm người ta đảo vị trí của vị ngữ lên đầu câu. Ví dụ: Lom khom dưới núi, tiều vài chú VN CN Lác đác ben sông, chợ mấy nhà VN CN * Ngoài hai thành phần chính là chủ ngữ và vị ngữ thì câu cần có ngữ điệu thông báo. Đặc biệt khi hai thành phần chính của câu vắng mặt thì ngữ điệu càng trở nên quan trọng hơn. Vì thế, câu còn có các thành phần phụ. - Câu phải có quan hệ ngữ nghĩa hợp lí : Khi viết câu, nội dung câu phải hợp lí,có tính chất khách quan phù hợp với quy luật nhận thức. Ví dụ : - Chim hót Chứ không thể đặt câu là - Bò đang gặm cỏ. - Bò đang hót - Chim gặm cỏ Giữa chủ ngữ và vị ngữ phải hợp lí. Chủ ngữ thường nêu sự vật, hiện tượng, sự việc; vị ngữ nêu hành động, trạng thái, tính chất, đặc điểm về sự vật, sự việc, hiện tượng chứ không thể ngược lại. Quan hệ giữa trạng ngữ với nòng cốt câu cũng phải đảm bảo sự logic, hợp lý. Ví dụ: Trên cánh đồng, mấy chú bò đang gặm cỏ Tr.N CN VN Chứ không thể có trạng ngữ: “Trên cành cây” mà nòng cốt câu lại là “mấy chú bò đang gặm cỏ”. Giữa các vế trong câu ghép phải có sự hợp lý đảm bảo tính logic. Nếu vế thứ nhất là nguyên nhân thì vế thứ hai phải là kết quả (hoặc điều kiện - kết quả; giả thiết - kết quả ). Nếu câu không có kết cấu như thế là câu sai. 7
  6. - Đặt câu phải đảm bảo yêu cầu về mặt phong cách. Câu trong phong cách hành chính khác với câu viết theo phong cách nghệ thuật, chính luận. - Ở văn bản hành chính - công cụ thường sử dụng những câu có cấu trúc chặt chẽ. Quan hệ giữa các thành phần, các vế câu được xác định rõ ràng, rành mạch, bố cục hợp lý, chặt chẽ không dài dòng. - Trong văn bản nghị luận thường sử dụng từ ngữ toàn dân, những từ ngữ chính trị - xã hội. sử dụng biến hoá các loại câu trong lập luận, chứng minh giải thích, bình luận để thấu lý, đạt tình - Trong văn bản thuyết minh, có thể sử dụng rộng rãi các kiểu câu đơn câu phức theo một hệ thống cú pháp chuẩn. - Đối với văn bản nghệ thuật việc sử dụng câu hết sức đa dạng, có đủ các loại câu theo mục đích phát ngôn, có đủ các kiểu câu chia theo cấu trúc nhằm đảm bảo tính thẩm mỹ, tính hình tượng và tính riêng về phong cách cá nhân. Qua trên ta thấy khi đặt câu phải chú ý xem câu phù hợp với phong cách ngôn ngữ nào để viết câu cho đúng, phù hợp với đặc điểm phong cách ngôn ngữ đó. - Các câu trong văn bản phải đảm bảo sự liên kết. Văn bản là một thể thống nhất có tính trọn vẹn về nội dung và hoàn chỉnh về hình thức. Văn bản dù viết dưới hình thức nào, đều là một tập hợp gồm nhiều câu, nhiều đoạn nối với nhau. Việc sắp xếp, nối kết các câu trong đoạn, các đoạn trong văn bản không phải là hiện tượng ngẫu nhiên mà nó thể hiện ý đồ của người viết, hướng tới một nội dung chủ đề nhất định. Và như vậy, mối quan hệ ý nghĩa giữa câu với câu được gọi là liên kết câu. Muốn liên kết câu phải đảm bảo nguyên tắc liên kết cả về nội dung và hình thức. - Liên kết nội dung: Các câu trong đoạn văn về mặt nội dung có mối quan hệ qua lại lẫn nhau. Liên kết nội dung thể hiện ở hai bình diện: liên kết chủ đề và liên kết logic. Hai mặt này gắn bó chặt chẽ với nhau. - Liên kết hình thức: Chính là việc sử dụng các phương tiện liên kết của ngôn ngữ để nối các câu làm cho chúng gắn bó chặt chẽ với nhau nhằm biểu hiện nội dung văn bản. Phương tiện liên kết có thể thuộc bình diện ngữ âm như vần, nhịp; có thể thuộc bình diện từ vựng như từ và thuộc bình diện ngữ pháp như kết cấu ngữ pháp. Các phương tiện đó 8
  7. rất đa dạng nhưng có thể quy về một số phương thức nhất định: Phương thức lặp; phương thức thế; phương thức liên tưởng; phương thức nối; phương thức trật tự tuyến tính Trên đây là toàn bộ những yêu cầu cơ bản của việc viết câu. Dựa vào những yêu cầu cơ bản ấy mà chúng ta biết được câu viết đúng hay viết sai. Để từ đó nhận ra được lỗi câu mà có phương hướng chữa lỗi. *CÁC BIỆN PHÁP TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHỮA LỖI CÂU: Để nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng Việt, mà phải kết hợp chữa lỗi câu thông qua quá trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn, tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu. 1.Chữa lỗi câu trong giờ Tiếng Việt. VD: Khi dạy bài: “Câu ghép” (Ngữ văn 8 - Tập I) tiết 43. - Mục đích ở bài này là làm cho học sinh nắm được đặc điểm của câu ghép và cách nối các vế câu trong câu ghép. Rèn kỹ năng nhận diện và sử dụng câu ghép trong nói và viết. - Trong quá trình giảng dạy bài này, ngoài việc học lý thuyết giáo viên cần phải chú trọng đến việc sử dung câu của các em trong qua trình đưa ví dụ minh hoạ, làm bài tập. Có như vậy, thì mới phát hiện ra những câu có lỗi khi các em sử dụng. Mặt khác có thể giáo viên đưa ra một số bài tập để kết hợp chữa lỗi câu sai cho các em. Bài tập 1: Thêm vào chỗ trống ở câu sau đây một kết cấu chủ - vị để tạo thành câu ghép: Trăng đã lên cao. GV: Gọi học sinh làm bài tập Trăng/đã lên cao, đêm/càng yên tĩnh C V C V Bài tập 2: Cho hai câu sau: C1: Trời nổi gió C2: Xa xa, một đàn bò. GV : Cho một học sinh nhận xét, hai câu trên có phải là câu ghép không ? Phân tích kết cấu của câu. 9
  8. C1 : Tuy thành một câu : CN: Trời; VN: nổi gió nhưng không phải là câu ghép mà đây chỉ là câu đơn. C2 : Chưa hoàn chỉnh câu vì câu ghép là câu do hai hoặc nhiều cụm C - V không bao chứa nhau tạo thành. Mỗi cụm C - V trong câu ghép được gọi là một vế câu. GV : Gọi học sinh chữa lại hai câu trên C1: Trời/nổi gió (rồi) một cơn mưa/ập đến C V C V C2: Xa xa, một đàn bò/đang gặm cỏ, những đứa trẻ/nô đùa vui vẻ TrN C V C V - Như vậy, trong quá trình làm bài tập giáo viên đã giúp các em sửa lỗi câu luôn. 2. Chữa lỗi câu trong giờ học HĐNGLL (lớp 8) ở chủ điểm: “Hội vui học tập”. Giáo viên chuẩn bị một số câu hỏi gắn vào hoa, yêu cầu các em hái hoa (tức là giải đáp câu hỏi). Ví dụ câu: Tập hợp từ sau đây đã thành câu chưa? Vì sao? Nếu chưa bổ sung cho thành câu. - Tập hợp từ 1: Nhìn thấy cô giáo bước vào lớp. - Tập hợp từ 2: Nghĩ đến cảnh mẹ con phải xa nhau. Như vậy, ở tập hợp từ 1: Học sinh phải thêm vị ngữ Ở tập hợp từ 2: Học sinh phải thêm cả chủ ngữ - vị ngữ. Hay là ra câu hỏi: Trong số những câu dưới đây, câu nào sai ngữ pháp? Nếu sai thì sai như thế nào? A. Trong lớp các bạn ngồi rất ngay ngắn. B. Những câu chuyên dân gian mà chúng tôi thích nghe kể. C. Bà tôi hay kể chuyện dân gian. D. Với kết quả học tập ấy đã động viên tôi rất nhiều 3. Chữa lỗi câu thông qua giờ trả bài Tập làm văn. Thông qua giờ trả bài giáo viên giúp các em phát hiện, nhận diện một số lỗi câu sai ở một số bài Tập làm văn của các bạn mà cô cho đọc trước lớp. Để từ đó các em cùng cô giáo sửa lỗi câu sai. Ví dụ: Trong 1 tiết trả bài Tập làm văn lớp 8.Tôi đã phát hiện ra ở hai lớp 8A3 và 8A5 các em đều mắc lỗi dùng câu thiếu thành phần nòng cốt. 10
  9. Cụ thể câu văn sau: C1 : “Đọc bài thơ lên mà em tưởng tượng trước mắt mình.” C2: “Bài thơ thích nhất là bài Quê hương.” Sau khi ghi những câu văn mắc lỗi lên bảng giáo viên cho học sinh phát hiện ra lỗi câu và cho sửa lại thành câu đúng. C1: Thiếu bộ phận vị ngữ. C2: Thiếu bộ phận chủ ngữ. Sửa lại: C1: Đọc bài thơ lên mà em tưởng tượng trước mắt mình bức tranh sinh động về làng chài ven biển. C3: Bài thơ em thích nhất là bài Quê hương của Tế Hanh”. Thông qua việc khảo sát lỗi câu sai của các em, tôi đã đưa ra phương hướng chữa lỗi câu. Đồng thời bằng các biện pháp chữa lỗi như đã trình bày ở trên, tôi đã giúp các em củng cố, rèn luyện kỹ năng đặt câu theo những yêu cầu cơ bản; làm cho các em hiểu rõ được vai trò quan trọng của việc sử dụng câu đúng để các em viết văn cũng như ứng dụng trong quá trình giao tiếp nhằm đảm bảo thông tin một cách chính xác nội dung cần thông báo. II.1. Tính mới, tính sáng tạo: Chương trình ngữ văn Trung học cơ sở được chia làm 3 phân môn, mỗi phân môn lại có những đặc trưng phương pháp riêng. Trong đó phân môn tiếng Việt góp phần trực tiếp vào việc hình thành và rèn luyện kĩ năng sử dụng ngôn ngữ trong giao tiếp. Vì thế để nâng cao chất lượng chữa lỗi câu sai cho học sinh THCS thì bản thân giáo viên trực tiếp giảng dạy môn ngữ văn trong nhà trường không thể chỉ chữa lỗi trong giờ Tiếng Việt, mà phải kết hợp chữa lỗi câu thông qua quá trình giao tiếp, giờ trả bài Tập làm văn, tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu. II.2. Khả năng áp dụng, nhân rộng: Có thể áp dụng được thường xuyên không chỉ cho các tiết dạy tiếng Việt mà còn dùng cho cả dạy văn bản và Tập làm văn từ lớp 6 đến lớp 9 hoặc tổ chức cho các em hái hoa kiến thức ở một số chủ điểm trong giờ Hoạt động ngoài giờ lên lớp để giúp các em sửa lỗi câu. II.3. Hiệu quả, lợi ích thu được khi áp dụng giải pháp: 11
  10. - Nhân dân ta thường nói: Ăn cho nên đọi, nói cho nên lời, rõ ràng nói phải thành lời, rõ ý thì người khác mới hiểu. Mà muốn nối thành lời , rõ ý thì phải nói cho thành câu. Nhưng hiện nay, việc dạy học Ngữ văn nói chung phân môn Tiếng Việt nói riêng trong các trường phổ thông đang đối diện với thực trạng rất báo động là có nhiều học sinh khi nói cũng như khi viết thường mắc các lỗi về câu dẫn đến việc viết, nói câu sai cho nên không đạt được mục đích giao tiếp. Trong khi toàn ngành đang thực hiện chương trình đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp với giai đoạn phát triển mới và đặc biệt hưởng ứng cuộc vận động 2 không của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Thiết nghĩ để thế hệ học sinh ngày nay có niềm hứng thú khi học môn Ngữ văn thì ngay từ khi cắp sách đến trường người giáo viên phải giúp các em yêu quí tiếng mẹ đẻ, tự hào với tiếng nói của dân tộc. Mặt khác, trong nhà trường, ngoài việc học sinh được học Ngữ văn thì các em còn được học các môn khác trong đó có môn ngoại ngữ. Việc học tốt phân môn Tiếng Việt sẽ giúp cho các em thuận lợi hơn khi học ngoại ngữ để có điều kiện tiếp xúc với nhiều nền văn minh trên Thế giới. - Cái bí quyết thú vị nhất của việc dạy học văn cho phép biến các giờ văn học thành những giờ “sáng mắt sáng lòng ”, đặc biệt giờ học tiếng Việt sẽ là những giờ học hấp dẫn, sinh động. Chính vì vậy mà người thầy Ngữ văn trong hoạt động của nhà trường là sự hiện hữu nghệ thuật của nghệ thuật, phương pháp của phương pháp. Không có một nghệ thuật, một phương pháp nào có thể thay cho người thầy thiếu tài năng , thiếu nhiệt tình và tri thức trong công việc dạy và học văn. CƠ QUAN ĐƠN VỊ Thủy Nguyên, ngày 28 tháng 03 năm 2017 ÁP DỤNG SÁNG KIẾN Người viết đơn 12
  11. PHỤ LỤC Qua thực tế dạy học ở các lớp, bằng việc sửa lỗi câu cho HS ở những tiết học, nhìn chung các em đã nhận ra được những lỗi cơ bản về câu và đã có ý thức sửa những lỗi mà mình mắc phải trong quá trình giao tiếp. 1.Miêu tả lỗi: * Lỗi do thiếu các thành phần nòng cốt của câu - Câu 1: Hè về, nở đỏ rực cả sân trường Câu này thiếu bộ phận chủ ngữ - Câu 2: Những kỷ niệm tuổi học trò Câu này thiếu bộ phận vị ngữ - Câu 3: Bằng nỗ lực của bản thân đã trở thành một học sinh giỏi Trong câu này, người viết nhầm tưởng “Bản thân” đã có thể làm chủ ngữ cho bộ phận đứng sau đó * Lỗi do các em sử dụng câu thiếu vế. - “Tuy Hồng rất chăm học, vâng lời bố mẹ”. Ở câu trên các em đã dùng thiếu một vế theo cặp quan hệ từ: “Tuy nhưng”. - “Nếu ngày hôm qua bạn không chăm chỉ, chịu khó” Câu này cũng chỉ có vế phụ mà chưa có vế chính. * Lỗi do không ý thức rõ về thành phần trạng ngữ và chủ ngữ - “Qua nhân vật chị Dậu cho ta thấy rõ những đức tính cao đẹp đó”. Ở câu này người viết đã hoà nhập chủ ngữ với phần phụ trạng ngữ của câu. * Lỗi do không ý thức rõ về trạng ngữ - “Những năm về sau, khi đã là một người thành đạt, dày dặn kinh nghiệm” Ở câu này, người viết hiểu lầm chủ ngữ là “Những năm về sau” còn “Khi đã là kinh nghiệm” là vị ngữ trong khi nó chỉ là phụ * Lỗi do các em sử dụng câu thiếu phụ ngữ bắt buộc - “Mọi người đều lắng nghe”. Câu này thiếu phụ ngữ đứng sau của cụm động từ nên đọc lên ta thấy khó hiểu vì vậy ta phải thêm phụ ngữ cho động từ. VD: Mọi người đều lắng nghe câu chuyện cổ tích. * Lỗi do câu sai quan hệ logic Ở một số bài tập làm văn của mình, các em đã sử dụng câu mà quan hệ chủ - vị trong câu không hợp lý. 13
  12. VD: “Qua nhân vật Thuý Kiều, ta thấy được bản chất xấu xa, thối nát của chế độ phong kiến” Ngoài ra, tuy các em không mắc lỗi sai về ngữ pháp nhưng lại sai về cách suy nghĩ, thành thử làm cho câu không logic về mặt nội dung. VD: “Các bạn trong lớp hãy chia thành 2 toán: Một toán gồm tất cả các bạn học sinh gái và một toán gồm tất cả các bạn học sinh khoẻ” * Lỗi do thể hiện sai quan hệ ngữ nghĩa giữa các bộ phận trong câu. Hoặc do không ý thức rõ mối quan hệ giữa các vế câu hoặc giữa các câu. VD: Mắt đăm đăm nhìn ra cửa biển, ta thấy Kiều đã theo cánh buồn thấp thoáng mà nghĩ đến cảnh cô đơn của mình. Đọc lên người ta có thể hiểu kẻ đăm đăm nhìn ra cửa biển và nghĩ đến cảnh cô đơn của mình ở đây là “ta” chứ không phải là Kiều như ý người viết muốn nói. Viết câu như thế chứng tỏ người viết chưa thể hiện đúng ngữ nghĩa giữa các thành phần câu. * Các lỗi về liên kết câu. - Lỗi về liên kết chủ đề: Các câu trong đoạn không cùng chủ đề - Lỗi về liên kết logic: Các câu trong một đoạn hay trong một văn bản không được thể hiện bằng các phương tiện liên kết hay bị thể hiện sai lạc. Qua thực tế tôi thấy các em mắc lỗi về quan hệ hướng nội nhiều hơn so với lỗi về quan hệ hướng ngoại. 14