SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1

doc 16 trang vanhoa 5410
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_chat_luong_giai_toan_cho.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1

  1. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 A. Phần mở đầu 1.Lí do chọn đề tài. Trong các môn học ở tiểu học môn toán là công cụ để học tốt các môn học khác. Các kiến thức, kỹ năng của môn toán ở tiểu học có nhiều ứng dụng trong đời sống. Nó góp phần rất quan trọng trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, suy luận, giải quyết vấn đề, phát triển trí thông minh, cách suy nghĩ độc lập, linh hoạt, sáng tạo; nó đóng góp vào việc hình thành các phẩm chất cần thiết và quan trọng cho con người như :cần cù, cẩn thận, có ý chí vượt khó , làm việc có kế hoạch, có nền nếp và tác phong khoa học. Vì vậy môn toán là một môn học không thể thiếu trong tất cả các cấp học Nói về vị trí vai trò của bộ môn Toán Cố thủ tướng Phạm Văn Đồng có nói :“Trong các môn khoa học và kỹ thuật, toán học giữ một vị trí nổi bật. Nó có tác dụng lớn đối với kỹ thuật, với sản xuất và chiến đấu. Nó là một môn thể thao của trí tuệ, giúp chúng ta nhiều trong việc rèn luyện phương pháp suy nghĩ, phương pháp suy luận, phương pháp học tập, phương pháp giải quyết các vấn đề, giúp chúng ta rèn luyện trí thông minh sáng tạo. Nó còn giúp chúng ta rèn luyện nhiều đức tính quý báu khác như: Cần cù và nhẫn nại, tự lực cánh sinh, ý chí vượt khó, yêu thích chính xác, ham chuộng chân lý.” Đối với môn Toán lớp 1,nó là môn học có vị trí nền tảng, là cái gốc, là điểm xuất phát của cả một bộ môn khoa học. Môn Toán mở đường cho các em đi vào thế giới kỳ diệu của toán học. Rồi mai đây, các em lớn lên , nhiều em trở thành nhà giáo, nhà khoa học, nhà thơ trở thành những ngời lao động sáng tạo trên mọi lĩnh vực sản xuất và đời sống ; trên tay có máy tính xách tay, trong túi có máy tính bỏ túi. Nhưng các em không bao giờ quên được những ngày đầu tiên cắp sách đến trường học đếm và học các phép tính cộng, trừ Các em không quên được vì đó là kỷ niệm đẹp đẽ nhất của đời người và hơn thế nữa, những con số, những phép tính ấy cần thiết cho suốt cả cuộc đời. Đối với mạch kiến thức : "Giải toán có lời văn", là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản xuyên suốt chương trình Toán cấp tiểu học. Thông qua giải toán có lời văn, các em được phát triển trí tuệ, được rèn luyện kỹ năng tổng hợp: đọc, viết, diễn đạt, trình bày, tính toán. Toán có lời văn là mạch kiến thức tổng hợp của các mạch kiến thức toán học.Giải toán có lời văn các em sẽ được giải các loại toán về số học, các yếu tố đại số, các yếu tố hình học và đo đại lượng. Toán có lời văn là chiếc cầu nối giữa toán học và thực tế đời sống, giữa toán học với các môn học khác. Từ vị trí và nhiệm và nhiệm vụ vô cùng quan trọng của môn toán, vấn đề đặt ra cho người dạy là làm thế nào để giờ dạy- học toán ở lớp 1 nói chung và giải toán nói riêng có hiệu quả cao, học sinh tích cực,chủ động sáng tạo trong việc chiếm lĩnh kiến thức rèn kỹ năng giải toán . Là một cán bộ quản lý nhiều năm chỉ đạo dạy Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 1
  2. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 học bản thân suy nghĩ phải tìm một số biện pháp nhằm chỉ đạo dạy giải toán có hiệu quả. Chính vì lẽ đó tôi chọn đề tài nghiên cứu "Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy giải toán cho học sinh lớp 1”. 2. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Tập trung nghiên cứu,chỉ đạo dạy học môn toán( nói chung) và mạch kiến thức dạy giải toán lớp 1( nói riêng) ở trường Tiểu học số 2 Thị trấn Kiến Giang B. Nội dung I. Cơ sở lý luận . Các phương pháp dạy học bao giờ cũng phải xuất phát từ vị trí mục đích và nhiệm vụ mục tiêu giáo dục của môn học. Nó không phải là cách thức truyền thụ kiến thức toán học, mà kỹ năng giải toán là phương tiện để tổ chức hoạt động nhận thức tích cực, độc lập và giáo dục phong cách làm việc khoa học, hiệu quả cho học sinh tức là dạy cách học. Vì vậy giáo viên phải đổi mới phương pháp và cách thức dạy học để nâng cao hiệu quả dạy-học Xuất phát từ cuộc sống hiện tại do đổi mới của nền kinh tế, xã hội, văn hoá, thông tin đòi hỏi con người phải có bản lĩnh dám nghĩ, dám làm năng động, sáng tạo có khả năng để giải quyết vấn đề. Để đáp ứng các yêu cầu giảng dạy nói chung, trong dạy học toán nói riêng đòi hỏi GVcần phải vận dụng linh hoạt sáng tạo các phương pháp và hình thức dạy học để năng cao hiệu quả giảng dạy. Hiện nay toàn ngành giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng đang thực hiện yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh làm cho hoạt động dạy trên lớp "nhẹ nhàng, tự nhiên, hiệu quả". Để đạt được yêu cầu đó giáo viên phải có phương pháp và hình thức dạy học để nâng cao hiệu quả cho học sinh, vừa phù hợp với đặc điểm tâm sinh lý của lứa tuổi tiểu học và trình độ nhận thức của học sinh để đáp ứng với công cuộc đổi mới của đất nước nói chung và của ngành giáo dục nói riêng. II. Cơ sở thực tiễn: Trong chương trình môn toán tiểu học, giải toán có lời văn giữ một vai trò quan trọng. Thông qua việc giải toán các em thấy được nhiều khái niệm toán học như: các số, các phép tính, các đại lượng, các yếu tố hình học đều có nguồn gốc trong cuộc sống hiện thực, trong thực tiễn hoạt động của con người, thấy được mối quan hệ biện chứng giữa các sự kiện, giữa cái đã cho và cái phải tìm. Qua việc giải toán đã rèn luyện cho học sinh năng lực tư duy và những đức tính của con người mới. Có ý thức vượt khó khăn, đức tính cẩn thận,làm việc có kế hoạch, thói quen xét đoán có căn cứ, thói quen tự kiểm tra kết quả công việc mình làm, óc độc lập suy nghĩ, sáng tạo, giúp học sinh vận dụng các kiến thức, rèn luyện kỹ năng tính toán, kỹ năng tính toán, Trong các mạch kiến thức toán ở chương trình toán Tiểu học thì mạch kiến thức “Giải toán có lời văn” là mạch kiến thức khó khăn nhất đối với học sinh, và càng khó khăn hơn đối với học sinh lớp Một. Bởi vì đối với lớp Một: Vốn từ, vốn hiểu biết, khả năng đọc hiểu, khả năng tư duy lôgic của các em còn rất hạn chế. Một nét nổi bật hiện nay là học sinh chưa biết cách tự học, chưa học tập một cách tích cực. Nhiều khi với một bài toán có lời văn các em có thể đặt và tính đúng kết quả của bài nhưng không thể trả lời hoặc lý giải là tại sao các em Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 2
  3. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 lại có được phép tính như vậy. Thực tế hiện nay cho thấy, các em thực sự lúng túng khi giải bài toán có lời văn. Chưa biết cách tóm tắt, phân tích đề toán để tìm ra hướng giải, tổng hợp để trình bày bài giải, diễn đạt vụng về, thiếu lôgic. Ngôn ngữ toán học còn rất hạn chế, kỹ năng tính toán, trình bày thiếu chính xác, thiếu khoa học, chưa có biện pháp, phương pháp học toán.Học toán và giải toán một cách máy móc nặng về dập khuôn, bắt chước. Chính vì vậy việc nắm vững nội dung và phương pháp dạy toán có lời văn ở cấp tiểu học chung và lớp 1 nói riêng là một việc rất cần thiết mà mỗi giáo viên tiểu học cần phải học để nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh. III. Thực trạng dạy học giải toán 4 ở trường tiểu học số 2 Kiến Giang. Ưu điểm:Trong những năm qua cùng với toàn ngành đội ngũ GV đã có nhiều cố gắng trong việc nắn vững nội dung, chương trình và phương pháp dạy học môn toán nói chung và mạch kiến thức giải toán lớp 1 nói riêng. GV đã biết lựa chọn các hình thức và phương pháp dạy học theo hướng tích cực tạo cơ hội cho HS hoạt động tích cực để tự chiếm lĩnh kiến thức, hứng thú say mê học toán. Nhiều học sinh đã nắm và vận dụng kiến thức vào thực hành khá tốt chất lượng học Toán (nói chung) và chất lượng giải toán (nói riêng) của học sinh được nâng lên rõ rệt. Hạn chế: * Giáo Viên: Vẫn còn một số giáo viên nắm chưa chưa thật chắc cấu trúc nội dung chương trình ,sách giáo khoa toán lớp 1 chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa, chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh. Một số giáo viên dạy theo cách thông báo kiến thức sẵn có, dạy theo phương pháp thuyết trình có kết hợp với đàm thoại, thực chất vẫn là “thầy truyền thụ, trò tiếp nhận ghi nhớ”. Một số giáo viên ngại sử dụng đồ dùng minh hoạ, ngại tóm tắt bằng sơ đồ hình vẽ hoặc đoạn thẳng, Trong một số tiết thao giảng giáo viên chỉ tập trung vào một bộ phận HS giỏi lên bảng làm để chữa bài hoặc hướng dẫn bài cho HS làm trước bài tập định giải. Chưa giúp HS phân tích để hiểu các thuật ngữ về toán học cho nên một số HS trung bình và yếu kết quả chất lượng bài giải đạt thấp. * Học sinh - Trình bày bài làm còn chưa sạch đẹp. - Một số học sinh chưa biết cách đặt câu lời giải phù hợp. - Một số ít học sinh không hiểu nội dung bài toán có lời văn dẫn đến không làm được bài. Nguyên nhân Về mặt nhận thức giáo viên còn coi việc dạy cho học sinh “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp 1 là đơn giản, dễ dàng nên chưa chú tâm vào nghiên cứu, vẫn còn một số giáo viên nắm chưa thật chắc cấu trúc nội dung chương trình ,sách giáo khoa toán lớp 1 chưa hiểu hết ý đồ của sách giáo khoa, chuyển đổi phương pháp giảng dạy còn lúng túng, chưa phát huy được tích cực chủ động của học sinh,chưa tìm tòi nghiên cứu để có phương pháp giảng dạy có hiệu quả. Vốn từ, vốn kiến thức, kinh nghiệm thực tế của học sinh lớp 1 còn rất hạn chế nên khi giảng dạy cho học sinh lớp 1 giáo viên đã diễn đạt như với các lớp trên làm Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 3
  4. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 học sinh lớp 1 khó hiểu và không thể tiếp thu được kiến thức và không đạt kết quả Tốt trong việc giải các bài toán có lời văn. Khả năng phối hợp, kết hợp với nhiều phương pháp để dạy mạch kiến thức: “Giải toán có lời văn” ở lớp 1 còn thiếu linh hoạt. Giáo viên còn lúng túng khi tạo các tình huống sư phạm để nêu vấn đề.Chưa khuyến khích động viên và giúp đỡ một cách hợp lý các nhóm cũng như các đối tượng học sinh trong quá trình học. Khả năng kiên trì của học sinh lớp 1 trong quá trình học nói chung cũng như học “Giải toán có lời văn” nói riêng còn chưa cao. IV. Một số biện pháp chỉ đạo 1. Thông qua dự giờ thăm lớp để nắm bắt tình hình. Đầu năm tổ chức dự giờ thăm lớp để nắm bắt tình hình, kết hợp với những tiết thao giảng dự giờ trong năm học trước nắm bắt những điểm còn yếu trong dạy giải toán của GV và kết quả bài là của HS để xác định nội dung bồi dưỡng. 2. Xây dựng nội dung chuyên đề bồi dưỡng. I/ Những nội dung cần bồi dưỡng 1) Nắm bắt cấu trúc nội dung chương trình toán1nói chung và mạch kiến thức giải toán có lời văn nói riêng 2) Sử dụng đồ dùng thiết bị trong dạy " Giải toán có lời văn". 3) Dạy "Giải toán có lời văn" ở lớp Một. 4) Một số phơng pháp thờng sử dụng trong giảng dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1. II/ Biện pháp thực hiện 1)Nắm và hiểu sâu cấu trúc nội dung chương trình sách giáo khoa toán 1 1.1Cấu trúc chương trình toán 1: Môn toán1 gồm 140 tiết,gồm 4 mạch kiến thức cơ bản;giải toán là một trong bốn mạch kiến thức cơ bản đó. *Có 3 tiết dạy bài mới đó là: -Tiết 84 : Giới thiệu bài toán có lời văn . -Tiết 85: Giải toán có lời văn ( Thực hiện bằng một phép tính cộng) -Tiết109: Giải toán có lời văn ( Thực hiện bằng một phép tính trừ). * Có 6 tiết luyện tập về giải toán có lời văn đó là : Tiết 87,88,90,110,111,112 Ngoài ra còn có nhiều tiết ôn tập ở học kì 2 và cuối năm đều có các bài toán giải ( chưa kể các bài toán giải được trình bày ngầm dưới dạng nhìn hình vẽ điền số phép tính và kết quả vào ô trống bắt đầu từ tuần 7 ) . 1.2. nội dung chương trình và phương pháp dạy Để dạy tốt môn Toán lớp 1 nói chung, "Giải bài toán có lời văn" nói riêng, điều đầu tiên mỗi giáo viên phải nắm thật chắc nội dung chương trình, sách Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 4
  5. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 giáo khoa. Nhiều người nghĩ rằng Toán tiểu học, và đặc biệt là toán lớp 1 thì ai mà chẳng dạy được. Đôi khi chính giáo viên đang trực tiếp dạy cũng rất chủ quan và cũng có những suy nghĩ tương tự như vậy. Qua dự giờ một số đồng chí giáo viên tôi nhận thấy giáo viên dạy bài nào chỉ cốt khai thác kiến thức của bài ấy, còn các kiến thức cũ có liên quan giáo viên nắm không thật chắc. Người ta thường nói " Biết 10 dạy 1" chứ không thể " Biết 1 dạy 1" vì kết quả thu được sẽ không còn là 1 nữa. a) Trong chương trình toán lớp Một, giai đoạn đầu học sinh còn đang học chữ nên chưa thể đưa ngay "Bài toán có lời văn". Mặc dù đến tận tuần 23, học sinh mới được chính thức học cách giải "Bài toán có lời văn" song chúng ta phải ngầm hiểu rằng cấu trúc nội dung chuẩn bị từ xa cho việc làm này ngay từ bài "Phép cộng trong phạm vi 3 (Luyện tập) " ở tuần 7. * Bắt đầu từ tuần 7 cho đến các tuần 16 trong hầu hết các tiết dạy về phép cộng trừ trong phạm vi (không quá) 10 đều có các bài tập thuộc dạng "Nhìn tranh nêu phép tính" ở đây học sinh đư làm quen với việc: - Xem tranh vẽ. - Nêu bài toán bằng lời. - Nêu câu trả lời. - Điền phép tính thích hợp (với tình huống trong tranh). Ví dụ: Sau khi xem tranh vẽ ở trang 46 (SGK), học sinh tập nêu bằng lời : "Có 1 quả bóng trắng và 2 quả bóng xanh. Hỏi có tất cả mấy quả bóng?" rồi tập nêu miệng câu trả lời : "có tất cả 3 quả bóng", sau đó viết vào dãy năm ô trống để có phép tính : 1 + 2 = 3 * Tiếp theo đó, kể từ tuần 17, học sinh được làm quen với việc đọc tóm tắt rồi nêu đề toán bằng lời, sau đó nêu cách giải và tự điền số và phép tính thích hợp vào dãy năm ô trống. ở đây không còn tranh vẽ nữa (xem bài 3b - trang 87, bài 5 - trang 89). * Việc ngầm chuẩn bị cho học sinh các tiền đề để giải toán có lời văn là chuẩn bị cho học sinh cả về viết câu lời giải và viết phép tính. Chính vì vậy ngay sau các bài tập "nhìn tranh điền phép tính thích hợp vào dãy 5 ô trống" chúng ta chịu khó đặt thêm cho các em những câu hỏi để các em trả lời miệng. Ví dụ: Từ bức tranh "3 con chim trên cành, 1 con chim bay tới" ở trang 47 - SGK, sau khi học sinh điền phép tính vào dãy ô trống: 3 + 1 = 4 Giáo viên nên hỏi tiếp: "Vậy có tất cả mấy con chim?" để học sinh trả lời miệng: "Có tất cả 4 con chim" ; hoặc "Số chim có tất cả là bao nhiêu? (Số chim có tất cả là 4) Cứ làm như vậy nhiều lần, học sinh sẽ quen dần với cách nêu lời giải bằng miệng. Do đó các em sẽ dễ dàng viết được các câu lời giải sau này. Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 5
  6. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 * Tiếp theo, trước khi chính thức học "Giải các bài toán có lời văn" học sinh được học bài nói về cấu tạo của một bài toán có lời văn (gồm hai thành phần đó là những cái đã cho (đã biết) và những cái phải tìm (chưa biết). Vì khó có thể giải thích cho học sinh "Bài toán là gì?" nên mục tiêu của tiết này là chỉ giới thiệu cho các em hai bộ phận của một bài toán: + Những cái đã cho là các số (dữ kiện) + Và cái phải tìm (câu hỏi). Để làm việc này sách Toán 1 đã vẽ bốn bức tranh, kèm theo là bốn đề toán: 2 đề còn thiếu dữ kiện, 1 đề còn thiếu câu hỏi, 1 đề thiếu cả dữ kiện lẫn câu hỏi (biểu thị bằng dấu ) Học sinh quan sát tranh rồi nêu miệng đề toán, sau đó điền số vào chỗ các dữ kiện rồi điền từ vào chỗ câu hỏi (còn để trống). Từ đó giáo viên giới thiệu cho các em " Bài toán thường có hai phần ": + Những số đã cho.(các thông tin đã biết) + Số phải tìm (câu hỏi).( chỉ thông tin cần tìm) Bài này giúp các em hiểu sâu hơn về cấu tạo của "Bài toán có lời văn". b) * Các loại toán có lời văn trong chương trình chủ yếu là hai loại toán "Thêm - Bớt" thỉnh thoảng có biến tấu một chút: - Bài toán "Thêm" thành bài toán gộp, chẳng hạn: "An có 4 quả bóng, Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?", dạng này khá phổ biến. - Bài toán "Bớt" thành bài toán tìm số hạng, chẳng hạn : " Lớp 1A có 35 bạn, trong đó có 20 bạn nữ. Hỏi lớp 1A có bao nhiêu bạn nam?", dạng này ít gặp vì dạng này hơi khó (trước đây dạy ở lớp 2) * Về hình thức trình bày bài giải, học sinh phải trình bày bài giải đầy đủ theo quy định thống nhất từ lớp 1 đến lớp 5: - Câu lời giải. - Phép tính giải. - Đáp số. Ví dụ: Xét bài toán "Nhà An có 5 con gà, mẹ mua thêm 4 con gà. Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" * Học sinh lớp 1 cũ chỉ cần giải bài toán trên như sau: Bài giải 5 + 4 = 9 ( con gà ) Học sinh lớp 1 hiện nay phải giải như sau: Bài giải Số gà nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số : 9 con gà Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 6
  7. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 * Về số lượng bài toán trong một tiết học được rút bớt để dành thời gian cho trẻ viết câu lời giải. Chẳng hạn trước đây trong 1 tiết " Bài toán nhiều hơn" học sinh phải giải 8 bài toán (4 bài mẫu, 4 bài luyện tập) , thì bây giờ trong tiết " Giải toán có lời văn (thêm) " học sinh phải giải 4 bài (1 bài mẫu, 3 bài luyện tập) * Để lường trước về vốn từ và khả năng đọc hiểu của học sinh khi "Giải bài toán có lời văn" chương trình toán 1 đã có những giải pháp: - Hạn chế dùng các vần khó và tiếng khó trong đề toán như: thuyền, quyển, Quỳnh, tăng cường dùng các vần và tiếng dễ đọc , dễ viết nh : cam, gà, bạn,quả trong các đề toán. - Lựa chọn câu hỏi trong đề toán sao cho học sinh chỉ cần chỉnh sửa một chút thôi là được ngay câu lời giải. - Cài sẵn "cốt câu" lời giải vào tóm tắt để học sinh có thể dựa vào tóm tắt mà viết câu lời giải. - Cho phép (thậm chí khuyến khích) học sinh tự nghĩ ra nhiều cách đặt lời giải khác nhau. Chẳng hạn, với bài toán : "An có 4 quả bóng. Bình có 3 quả bóng. Hỏi cả hai bạn có mấy quả bóng?"; Học sinh có thể đặt lời giải theo rất nhiều cách như: + Cả hai bạn có: + Hai bạn có: + An và bình có: + Tất cả có: + Số bóng tất cả là: 2) Sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học Như chúng ta đã biết, con đường nhận thức của học sinh tiểu học là: "Từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, rồi từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn". Đồ dùng thiết bị dạy học là phương tiện vật chất, phương tiện hữu hình cực kỳ cần thiết khi dạy "Giải toán có lời văn" cho học sinh lớp Một. Cũng trong cùng một bài toán có lời văn, nếu chỉ dùng lời để dẫn dắt, dùng lời để hướng dẫn học sinh làm bài thì vừa vất vả tốn công, vừa không hiệu quả và sẽ khó khăn hơn rất nhiều so với dùng đồ dùng thiết bị, tranh ảnh, vật thực để minh hoạ. Chính vì vậy rất cần thiết phải sử dụng đồ dùng thiết bị dạy học để dạy học sinh "Giải bài toán có lời văn". Hiện nay bộ đồ dùng trang bị đến từng lớp đã có khá nhiều các đồ dùng mẫu vật cho việc sử dụng dạy "Giải toán có lời văn" song vẫn là thiếu nếu giáo viên thực sự có trách nhiệm. Mỗi nhà trường cần có kế hoạch mua bổ sung, từng tổ khối, cá nhân giáo viên cần sưu tầm, làm thêm các thiết bị như: vật thực, tranh ảnh làm đồ dùng, dùng chung và riêng cho từng lớp. Một số nơi điều kiện kinh tế phát triển GV sử dụng giáo án điện tử vào các bài học có nội dung giải toán sẽ rất hấp dẫn với HS tạo điều kiện cho HS tiếp thu bài dễ dàng và hiệu quả hơn. Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 7
  8. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Một điều hết sức quan trọng là một số giáo viên còn ngại, hoặc lúng túng sử dụng đồ dùng dạy học khi giảng dạy nói chung và khi dạy "Giải toán có lời văn" nói riêng. Để khắc phục tình trạng này, giáo viên cần có ý thức chuẩn bị sử dụng đồ dùng dạy học trước khi lên lớp. Cần cải tiến nội dung sinh hoạt chuyên môn để đa việc thống nhất sử dụng đồ dùng dạy học và phơng pháp sử dụng đồ dùng dạy học. 3) Dạy "Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một. 3.1/ Quy trình " Giải bài toán có lời văn " thông thường qua 4 bước: - Đọc và tìm hiểu đề bài. - Tìm cách giải bài toán. - Trình bày bài giải - Kiểm tra lại bài giải. a) Đọc và tìm hiểu đề toán Muốn học sinh hiểu và có thể giải được bài toán thì điều quan trọng đầu tiên là phải giúp các em đọc và hiểu được nội dung bài toán. Giáo viên cần tổ chức cho các em đọc kỹ đề toán, hiểu rõ một số từ khoá quan trọng như " thêm , và , tất cả, " hoặc "bớt, bay đi, ăn mất, đã thả,đã bán, " (có thể kết hợp quan sát tranh vẽ để hỗ trợ). Để học sinh dễ hiểu đề bài, giáo viên cần gạch chân các từ ngữ chính trong đề bài. Không nên gạch chân quá nhiều các từ ngữ, hoặc gạch chân các từ chưa sát với nội dung cần tóm tắt. Khi gạch chân nên dùng phấn màu khác cho dễ nhìn. * Tóm tắt bài toán :Trong thời kỳ đầu, giáo viên nên giúp học sinh tóm tắt đề toán bằng cách đàm thoại " Bài toán cho gì? Hỏi gì?" và dựa vào câu trả lời của học sinh để viết tóm tắt, sau đó cho học sinh dựa vào tóm tắt để nêu lại đề toán. Đây là cách rất tốt để giúp trẻ ngầm phân tích đề toán.Sau khi HS được rèn luyện và quen dần thì HS sẽ tự đọc và tóm tắt bài toán rồi nhìn tóm tắt để giải vào vở. Nếu học sinh gặp khó khăn trong khi đọc đề toán thì giáo viên nên cho các em nhìn tranh và trả lời câu hỏi. Ví dụ, với bài 3 trang 118, giáo viên có thể hỏi: - Em thấy dưới ao có mấy con vịt? ( có 5 con vịt) - Trên bờ có mấy con vịt? ( có 4 con vịt) - Em có bài toán thế nào? ( ) Sau đó giáo viên cho học sinh đọc (hoặc nêu) đề toán ở sách giáo khoa. Trong trường hợp không có tranh ở sách giáo khoa thì giáo viên có thể gắn mẫu vật (gà, vịt, ) lên bảng từ (bảng cài, bảng nỉ, ) để thay cho tranh; hoặc dùng tóm tắt bằng lời hoặc sơ đồ đoạn thẳng để hỗ trợ học sinh đọc đề toán. * Thông thường có 3 cách tóm tắt đề toán: - Tóm tắt bằng lời: Ví dụ1:Tổ em có 5 bạn nam và 5 bạn nữ .Hỏi tổ emcos tất cả mấy bạn ? Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 8
  9. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Tóm tắt Có : 5 bạn nam Có: 5 bạn nữ Có tất cả: bạn? (A) Ví dụ 2:Hà có 35 que tính,Lan có 43 que tính.Hỏi hai bạn có tất cả bao nhiêu que tính ? Tóm tắt Hà có: 35 que tính ? que tính Lan có: 43 que tính - Tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng: Ví dụ: Đoạn thẳng AB dài 3 cm và đoạn thẳng BC dài 6 cm .Hỏi đoạn thẳng BC dài mấy xăng-ti-mét ? 3 cm 6 cm A B C ? cm - Tóm tắt bằng sơ đồ mẫu vật: Ví dụ: Hàng trên có 4 bông hoa,hàng dưới có 3 bông hoa .Hỏi cả hai hàng có bao nhiêu bông hoa ? - Tóm tắt Hàng trên : Hàng dưới: Có tất cả : bông hoa ? Với các cách tóm tắt trên sẽ làm cho học sinh dễ hiểu và dễ sử dụng. Với cách viết thẳng theo cột như: Có : 15 búp bê hoặc Giỏ 1 có : 26 quả Bán : 12 búp bê Giỏ 2 có : 33 quả Còn lại búp bê . Tất cả có : quả Kiểu tóm tắt như thế này khá gần gũi với cách đặt tính dọc nên có tác dụng gợi ý cho học sinh lựa chọn phép tính giải. Có thể lồng "cốt câu" lời giải vào trong tóm tắt, để dựa vào đó học sinh dễ viết câu lời giải hơn. Chẳng hạn, dựa vào dòng cuối của tóm tắt (A) học sinh có Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 9
  10. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 thể viết ngay câu lời giải là : "Cả hai bạn có:" hoặc "Số vở cả hai bạn có:" hoặc: "Cả hai bạn có số vở là:". Cần lưu ý trước đây người ta thường đặt dấu? lên trước các từ như quyển, quả, Song làm như vậy thì hơi thiếu chuẩn mực về mặt Tiếng Việt vì tất cả học sinh đều biết là dấu ? phải đặt cuối câu hỏi. Nếu tóm tắt bằng sơ đồ đoạn thẳng hoặc sơ đồ mẫu vật thì đặt dấu ? ở đằng trước các từ như: quyển, quả , cũng được vì các tóm tắt ấy không phải là những câu. Tuy nhiên học sinh thường có thói quen cứ thấy dấu là điền số (dấu) vào đó nên giáo viên cần lưu ý các em là: "Riêng trong trường hợp này (trong tóm tắt ) thì dấu thay cho từ "mấy" hoặc "bao nhiêu" ; các em sẽ phải tìm cho ra số đó để ghi vào Đáp số của Bài giải chứ không phải để ghi vào chỗ trong tóm tắt. Nếu không thể giải thích cho học sinh hiểu được ý trên thì chúng ta cứ quay lại lối cũ, tức là đặt dấu hỏi (?) ra đằng trước theo kiểu "Còn ? quả" cũng được, không nên quá cứng nhắc. Giai đoạn đầu nói chung bài toán nào cũng nên tóm tắt rồi cho học sinh dựa vào tóm tắt nêu đề toán. Cần lưu ý dạy giải toán là một quá trình. Không nên vội vàng yêu cầu các em phải đọc thông thạo đề toán, viết được các câu lời giải, phép tính và đáp số để có một bài chuẩn mực ngay từ tuần 23, 24. Chúng ta cần bình tĩnh rèn cho học sinh từng bước, miễn sao đến cuối năm (tuần 33, 34, 35) trẻ đọc và giải được bài toán là đạt yêu cầu. b) Tìm cách giải bài toán. * Sau khi giúp học sinh tìm hiểu đề toán để xác định rõ cái đã cho và cái phải tìm, chẳng hạn: - Bài toán cho gì? (Nhà An có 5 con gà) - Còn cho gì nữa? (Mẹ mua thêm 4 con gà) - Bài toán hỏi gì? (Nhà An có tất cả mấy con gà?) Giáo viên nêu tiếp: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em làm tính gì? (tính cộng) Mấy cộng mấy? (5 + 4) ; 5 + 4 bằng mấy? (5 + 4 = 9); hoặc: "Muốn biết nhà An có tất cả mấy con gà em tính thế nào? (5 + 4 = 9); hoặc: "Nhà An có tất cả mấy con gà ?" (9) Em tính thế nào để đợc 9 ? (5 + 4 = 9). Tới đây giáo viên gợi ý để học sinh nêu tiếp "9 này là 9 con gà", nên ta viết "con gà" vào trong dấu ngoặc đơn: 5 + 4 = 9 (con gà). Tuy nhiên cũng có những học sinh nhìn tranh ở sách giáo khoa để đếm ra kết quả mà không phải là do tính toán. Trong trường hợp này giáo viên vẫn xác nhận kết quả là đúng, song cần hỏi thêm: "Em tính thế nào?" (5 + 4 = 9). Sau đó nhấn mạnh: "Khi giải toán em phải nêu được phép tính để tìm ra đáp số (ở đây là 9). Nếu chỉ nêu đáp số thì chưa phải là giải toán. * Cách tìm lời giải: Sau khi học sinh đã xác định được phép tính, nhiều khi việc hướng dẫn học sinh đặt câu lời giải còn khó hơn (thậm chí khó hơn nhiều) việc chọn phép tính và tính ra đáp số. Với học sinh lớp 1, lần đầu tiên được làm quen với cách giải loại toán này nên các em rất lúng túng. Thế nào là câu lời giải, vì sao phải viết câu lời giải? Không thể giải thích cho học sinh lớp 1 hiểu một cách thấu đáo nên có thể giúp học sinh bước đầu hiểu và nắm được cách làm. Có thể dùng một trong các cách sau: Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 10
  11. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Cách 1: Dựa vào câu hỏi của bài toán rồi bỏ bớt từ đầu (Hỏi) và cuối (mấy con gà ?) để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả:" hoặc thêm từ "là" để có câu lời giải : "Nhà An có tất cả là: " Cách 2: Đưa từ "con gà" ở cuối câu hỏi lên đầu thay thế cho từ "Hỏi" và thêm từ Số (ở đầu câu), là ở cuối câu để có: "Số con gà nhà An có tất cả là:" Cách 3: Dựa vào dòng cuối cùng của tóm tắt, coi đó là "từ khoá" của câu lời giải rồi thêm thắt chút ít. Ví dụ: Từ dòng cuối của tóm tắt: "Có tất cả: con gà ?". Học sinh viết câu lời giải: "Nhà An có tất cả:" Cách 4: Giáo viên nêu miệng câu hỏi: "Hỏi nhà An có tất cả mấy con gà?" để học sinh trả lời miệng: "Nhà An có tất cả 9 con gà" rồi chèn phép tính vào để có cả bước giải (gồm câu lời giải và phép tính): Nhà An có tất cả: 5 + 4 = 9 (con gà) Cách 5: Sau khi học sinh tính xong: 5 + 4 = 9 (con gà), giáo viên chỉ vào 9 và hỏi: "9 con gà ở đây là số gà của nhà ai?" (là số gà nhà An có tất cả). Từ câu trả lời của học sinh ta giúp các em chỉnh sửa thành câu lời giải: "Số gà nhà An có tất cả là" v.v ở đây giáo viên cần tạo điều kiện cho các em tự nêu nhiều câu lời giải khác nhau, sau đó bàn bạc dể chọn câu thích hợp nhất. Không nên bắt buộc trẻ nhất nhất phải viết theo một kiểu. c) Trình bày bài giải Có thể coi việc trình bày bài giải là trình bày một sản phẩm của tư duy. Thực tế hiện nay các em học sinh lớp 1 trình bày bài giải còn rất hạn chế, kể cả học sinh khá giỏi. Cần rèn cho học sinh nề nếp và thói quen trình bày bài giải một cách chính xác, khoa học, sạch đẹp dù trong giấy nháp, bảng lớp, bảng con hay vở, giấy kiểm tra. Cần trình bày bài giải một bài toán có lời văn nh sau: Bài giải Nhà An có tất cả là: 5 + 4 = 9 ( con gà ) Đáp số : 9 con gà Nếu lời giải ghi: "Số gà nhà An là:" thì phép tính có thể ghi: “5 + 4 = 9 (con)”. (Lời giải đã có sẵn danh từ "gà"). Tuy nhiên nếu học sinh viết quá chậm mà lại gặp phải các từ khó như "thuyền, quyển, " thì có thể lược bớt danh từ cho nhanh. Giáo viên cần hiểu rõ lý do tại sao từ "con gà" lại được đặt trong dấu ngoặc đơn? Đúng ra thì 5 + 4 chỉ bằng 9 thôi (5 + 4 = 9) chứ 5 + 4 không thể bằng 9 con gà được. Do đó, nếu viết: "5 + 4 = 9 con gà" là sai. Nói cách khác , nếu vẫn muốn được kết quả là 9 con gà thì ta phải viết như sau mới đúng: "5 con gà + 4 Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 11
  12. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 con gà = 9 con gà". Song cách viết phép tính với các danh số đầy đủ như vậy khá phiền phức và dài dòng, gây khó khăn và tốn nhiều thời gian đối với học sinh lớp 1. Ngoài ra học sinh cũng hay viết thiếu và sai như sau: 5 con gà + 4 = 9 con gà 5 + 4 con gà = 9 con gà 5 con gà + 4 con gà = 9 Về mặt toán học thì ta phải dừng lại ở 9, nghĩa là chỉ được viết 5 + 4 = 9 thôi. Song vì các đơn vị cũng đóng vai trò rất quan trọng trong các phép tính giải nên vẫn phải tìm cách để đưa chúng vào phép tính. Do đó, ta mới ghi thêm đơn vị "con gà" ở trong dấu ngoặc đơn để chú thích cho số 9 đó. Có thể hiểu rằng chữ "con gà” viết trong dấu ngoặc ở đây chỉ có một sự ràng buộc về mặt ngữ nghĩa với số 9, chứ không có sự ràng buộc chặt chẽ về toán học với số 9. Do đó, nên hiểu: 5 + 4 = 9 (con gà) là cách viết của một câu văn hoàn chỉnh như sau: "5 + 4 = 9, ở đây 9 là 9 con gà". Như vậy cách viết 5 + 4 = 9 (con gà) là một cách viết phù hợp. Trong đáp số của bài giải toán thì không có phép tính nên ta cứ việc ghi: "Đáp số : 9 con gà" mà không cần ngoặc đơn. d) Kiểm tra lại bài giải Học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp Một thường có thói quen khi làm bài xong không hay xem, kiểm tra lại bài đã làm. Giáo viên cần giúp học sinh xây dựng thói quen học tập này. Cần kiểm tra về lời giải, về phép tính, về đáp số hoặc tìm cách giải hoặc câu trả lời khác. 3.2/ Biện pháp khắc sâu loại “Bài toán có lời văn" Ngoài việc dạy cho học sinh hiểu và giải tốt "Bài toán có lời văn" giáo viên cần giúp các em hiểu chắc, hiểu sâu loại toán này. ở mỗi bài, mỗi tiết về "Giải toán có lời văn" giáo viên cần phát huy tư duy, trí tuệ, phát huy tính tích cực chủ động của học sinh bằng việc hướng cho học sinh tự tóm tắt đề toán, tự đặt đề toán theo dữ kiện đã cho, tự đặt đề toán theo tóm tắt cho trước, giải toán từ tóm tắt, nhìn tranh vẽ, sơ đồ viết tiếp nội dung đề toán vào chỗ chấm ( ), đặt câu hỏi cho bài toán. Ví dụ 1: Nhìn tranh vẽ, viết tiếp vào chỗ chấm để có bài toán, rồi giải bài toán đó: Bài toán: Dưới ao có con vịt, có thêm con vịt nữa chạy xuống. Hỏi ? Ví dụ 2: Giải bài toán theo tóm tắt sau: Có : 7 hình tròn Tô màu : 3 hình tròn Không tô màu : hình tròn? * Đối với bài toán giải nằm trong các tiết luyện tập thì GV có thể cho HS tự đọc và tóm tắt bài toán và sau đó dựa vào tóm tăt để tìm ra cách giải và trình bày bài giải vào vở.Sau đó chữa bài nhằm giúp cho HS nhận biết được những cái mà mình đã làm được và chưa được sau khi giải Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 12
  13. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 3.3/ Một số phương pháp thường sử dụng trong dạy:"Giải bài toán có lời văn" ở lớp Một. a) Phương pháp trực quan Khi dạy “Giải bài toán có lời văn” cho học sinh lớp 1GV thường sử dụng phơng pháp trực quan giúp học sinh tìm hiểu đề bài, tóm tắt đề toán thông qua việc sử dụng tranh ảnh, vật mẫu, sơ đồ giúp học sinh dễ hiểu đề bài hơn từ đó tìm ra hướng giải một cách thuận lợi. Đặc biệt trong sách giáo khoa Toán 1 có hai loại tranh vẽ giúp học sinh “Giải toán có lời văn” đó là: một loại gợi ra phép cộng, một loại gợi ra phép trừ. Như vậy chỉ cần nhìn vào tranh vẽ học sinh đã định ra được cách giải bài toán. Trong những trường hợp này bắt buộc giáo viên phải sử dụng tranh vẽ và phương pháp trực quan. b) Phương pháp hỏi đáp (đàm thoại) Sử dụng khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu, phân tích đề bài, tìm đường lối giải, chữa bài làm của học sinh c) Phương pháp dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. - Với mục đích giúp các em khắc sâu những kiến thức về “Giải toán có lời văn” trong quá trình giảng dạy giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học này.ở mỗi dạng toán “thêm, bớt” giáo viên có thể biến tấu để có những bài toán có vấn đề. Chẳng hạn cho bài toán dạng “bớt” nhưng chưa đầy đủ dự kiện, học sinh tự nhìn vào hình vẽ viết thêm số và đặt câu hỏi và giải bài toán hoặc Cho hình vẽ học sinh đặt lời bài toán và giải. Với những tình huống khó có thể phối hợp với các phương pháp khác để giúp học sinh thuận lợi cho việc làm bài như : Phương pháp thảo luận nhóm, phương pháp kiến tạo 2.6. Các hình thức bồi dưỡng cho giáo viên. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên môn tổ chức cho GV học tập nắm vững nội dung phương pháp giải toán lớp 1 và một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy giải toán cho HS lớp 1. Tổ chức thao giảng 2dạng bài. Dạng bài mới: Dạy tiết 85- Bài giải toán có lời văn. Dạng bài luyện tập: Dạy tiết 87 - Luyện tập về giải toán. - Qua thao giảng giúp cho GV vừa đối chiếu với lý thuyết đã học và vừa rút kinh nghiệm về giản dạy và sau đó thực hiện đại trà. - Thông qua các ngày lễ lớn tổ chức thảo giảng để đánh giá việc nắm bắt, vận dụng học tập của giáo viên và đánh giá năng lực chuyên môn của GV. IV. Kết quả và bài học kinh nghiệm. 1. Kết quả: Với một số biện pháp bồi dưỡng về giải toán có lời văn như trên sau hai năm thực hiện đã đạt được kết quả sau: Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 13
  14. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Đối với giáo viên: Đã nắm toàn diện cấu trúc nội dung,chương trình,sách toán 1 và hiểu sâu nội dung và một số biện pháp rèn kỹ năng giải toán cho HS, cùng với những điểm cần lưu ý trong quá trình chuẩn bị và sử dụng đồ dùng dạy học nên đa số giáo viên nắm và vận dụng vào giảng dạy đạt kết quả tốt. Qua thanh tra toàn diện của phòng giáo dục trong khối 1 có 2 đ/c được thanh tra 2 tiết dạy giải toán xếp loại Tốt. Đối với học sinh: Các em đã nắm chắc được từng dạng bài, biết cách tóm tắt biết cách phân tích đề, lập kế hoạch giải, phân tích kiểm tra bài giải. Vì thế nên kết quả giải toán của các em có nhiều tiến bộ. Giờ học toán sôi nổi hơn. Cụ thể kết quả kiểm tra mụn toỏn cuối năm: Năm học TB trở lên Khá giỏi Chưa đạt SL % SL % SL % 2008-2009 66 em 98,5 50 em 75 1 em 1,5 2009-2010 73em 100 69em 94,5 0 0 1) Bài học kinh nghiệm: *Đối với ban giám hiệu: cần nắm bắt kịp thời những điểm GV, HS còn yếu và thiếu thông qua dự giờ thăm lớp, qua bài giải của HS để sớm xây dựng nội dung chuyên đề cần bồi dưỡng đó là: 1) Bồi dưỡng cho GV Hiểu sâu cấu trúc nội dung chương trình toán 1 nói chung và mạch kiến thức giải toán có lời văn nói riêng 2) Sử dụng đồ dùng thiết bị trong dạy " Giải toán có lời văn". 3) Quy trình dạy "Giải toán có lời văn" ở lớp Một. 4) Một số phương pháp thường sử dụng trong giảng dạy “Giải toán có lời văn” ở lớp 1. *Đối với giáo viên - Mỗi giáo viên phải nắm vững nội dung chương trình, cấu trúc sách giáo khoa về “Giải toán có lời văn” ở lớp Một, để xác định được trong mỗi tiết học GV phải dạy cho học sinh cái gì, dạy như thế nào? - Đối với học sinh tiểu học và đặc biệt là học sinh lớp Một, cần coi trọng sử dụng trực quan trong giảng dạy nói chung và trong dạy “Giải toán có lời văn” nói riêng, tuy nhiên cũng không vì thế mà lạm dụng trực quan hoặc trực quan một cách hình thức. - Dạy “Giải toán có lời văn” cho học sinh lớp Một không thể nóng vội mà phải hết sức bình tĩnh, nhẹ nhàng, tỷ mỉ, nhưng cũng rất cương quyết để hình thành cho các em một phương pháp tư duy học tập đó là tư duy khoa học, tư duy sáng tạo, tư duy lô gic. Rèn cho các em đức tính chịu khó cẩn thận trong “Giải toán có lời văn”. - Vận dụng các phương pháp giảng dạy phù hợp, linh hoạt phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo của học sinh. Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 14
  15. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 c. Kết luận. Qua việc triễn khai chuyên đề : một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy giải toán lớp 1 ,cùng với sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ GV trong quá trình bồi dưỡng và tự bồi dưỡng ,GV đã có những chuyễn biến đáng kể. GV đã nắm và vận dụng vào quá trình giảng dạy. Chất lượng giảng dạy được nâng lên rõ rệt. Chất lượng làm bài của HS qua kiểm tra đạt kết quả tốt. Để thực hiện được điều đó đòi hỏi người quản lý phải biết xây dựng kế hoạch nội dung bồi dưỡng kịp thời các chuyên đề. Giáo viên phải nhiệt tình, nghiêm túc học hỏi và tích luỹ kiến thức, kinh nghiệm của bản thân để mỗi giờ dạy người Giáo viên thực sự chỉ là người tổ chức hướng dẫn còn học sinh sẽ là người đóng vai trò hoạt động tích cực tìm ra tri thức và lĩnh hội nó và biến nó là vốn tri thức của bản thân. Những ý kiến của tôi đưa ra có thể còn nhiều hạn chế. Rất mong sự đóng góp ý kiến của đồng nghiệp để chất lượng dạy ngày càng đạt hiệu quả cao hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của các đồng nghiệp. Người viết Nguyễn Thị Tình ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của Hội đồng Khoa học cấp Trường ý kiến nhận xét đánh giá và xếp loại của Hội đồng Khoa học cấp huyện Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 15
  16. Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giải toán cho học sinh lớp 1 Nguyễn Thị Tình Trường Tiểu học số 2 Kiến Giang 16