SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi

doc 26 trang vanhoa 2902710
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_ren_ky_nang_tu_phuc_vu_cho_tre_mau_gia.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3 - 4 tuổi

  1. MỤC LỤC Nội dung Trang 1. Đặt vấn đề 02 2. Giải quyết vấn đề . 04 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề . 04 2.2. Thực trạng của vấn đề . .05 2.3. Các biện pháp . . .08 2.4. Hiệu quả của SKKN .22 3. Kết luận 23 4. Tài liệu tham khảo . . .25 5. Đánh giá, xếp loại SKKN của HĐKH các cấp 26 1
  2. 1. Đặt vấn đề. Sinh ra không phải trẻ đã có kỹ năng tự phục vụ mà đó là kết quả của quá trình giáo dục. Như chúng ta đã biết, tự phục vụ bản thân là một trong những kỹ năng được rèn ngay từ khi còn nhỏ. Mặc dù đây là một công việc khó khăn nhưng rất quan trọng. Ông cha ta đã từng nói “ Dạy con từ thủa còn thơ ” là vậy. Dưới tác động của người lớn trong những năm thứ 3, thứ 4 nếu có sự hướng dẫn của người lớn, trẻ đã có thể nắm được một số kỹ năng tự phục vụ đơn giản (Tự xúc cơm, tự rửa tay, rửa mặt và biết giữ gìn quần áo gọn gàng sạch sẽ, biết cất đồ chơi vào đúng nơi quy định ). Chính vì vậy người lớn cần phải uốn nắn kỹ năng và thói quen của trẻ ngay từ nhỏ, tránh để những lệch lạc ấy trở thành thói quen khó sửa khó uốn. Cổ nhân đã dạy: “ Tre non dẽ uốn, tre già nổ đốt”, “ Bé chẳng vin, cả gẫy cành”. Phải chăng những câu nói đó của người đời để khẳng định ý nghĩa to lớn của việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ngay từ thủa còn thơ. Kỹ năng tự phục vụ bản thân rất quan trọng, giúp trẻ hoàn thiện mình một cách tốt nhất. Nó còn là cơ hội vàng giúp trẻ trưởng thành và khôn lớn trong cuộc sống. Tính tự phục vụ được hình thành rất sớm và là một trong những biểu hiện tâm lý có ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình hình thành các phẩm chất nhân cách của trẻ. Một số dấu hiệu đáng tin cậy của sự bắt đầu hình thành tính tự phục vụ, đó là nhu cầu tự khẳng định mình xuất hiện, trẻ muốn tự làm một số công việc trong sinh hoạt hàng ngày của trẻ qua đó giúp trẻ có kỹ năng chăm sóc cho bản thân mình như ( tắm rửa, cởi quần áo, thu dọn giường ngủ, đi giầy dép, tự xúc cơm, tự uống nước.vv ) và trong lời nói của trẻ như ( con tự ăn, con tự chơi, con tự làm ) Mặc dù tính tự phục vụ của trẻ ở lứa tuổi này còn mờ nhạt, chưa đầy đủ, rõ ràng nhưng nó là cơ sở, là nền tảng rất quan trọng đối với sự phát triển của trẻ. Do hành động được lặp đi lặp lại hàng ngày, các kỹ năng, kỹ xảo tự phục vụ được trẻ lĩnh hội vững chắc, tạo điều kiện thuận lợi cho trẻ nắm kinh nghiệm thực tế và độc lập hành động. Đồng thời trẻ ý thức được mọi người đều có trách nhiệm lao động liên quan đến 2
  3. những nhu cầu sống hành ngày của mình. Giúp trẻ hình thành tác phong nhanh nhẹn và ý thức tự giác biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ. Trẻ ý thức được sự cần thiết của việc tự phục vụ bản thân, trẻ biết cách tự chăm sóc bản thân tăng cường tính độc lập. Trẻ tự tin vào bản thân khi thành công trong công việc tự phục vụ bản thân. Mặt khác trẻ hiểu được sự chăm sóc của cha mẹ nhiều hơn. Qua đó hướng tới sự phát triển toàn diện nhân cách trẻ Theo góc độ tâm lý học, tính tự phục vụ vừa được coi là tính cách vừa là phẩm chất ý chí của hoạt động cá nhân. Kỹ năng tự phục vụ được hình thành trong quá trình hoạt động và thể hiện mối quan hệ cá nhân với các sự vật hiện tượng, với người khác và với bản thân. Nó đặc trưng cho thái độ tự giác, tự tin, thể hiện khả năng tự đặt mục đích, nhiệm vụ, kế hoạch hành động, tự điều khiển bản thân với sự nỗ lực cao về trí tuệ, thể lực trong quá trình hoạt động nhằm thoả mãn nhu cầu bản thân và xã hội. Thực tế việc giáo dục, rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đã được giáo viên trong trường thực hiện, nhưng chưa đi sâu, đi sát nên kết quả chưa cao, trẻ thường ỷ lại các bạn không muốn lao động, trẻ chưa có tính tự giác lao động. Thực tế hiện nay cho thấy đối với các gia đình, chủ yếu là các bậc cha mẹ còn có nhiều sai lầm về giáo dục nói chung và giáo dục tính tự phục vụ nói riêng. Thứ nhất là nuông chiều con quá mức khiến trẻ chỉ biết hưởng thụ, sau này trở thành người có tính ích kỉ, vụng về, thiếu tự tin trong cuộc sống. Thứ hai là không tin vào khả năng của trẻ, trẻ muốn làm nhưng thấy trẻ vụng về, lóng ngóng chậm chạp thì tỏ ra khó chịu, nên người lớn thường sót ruột và làm thay trẻ, dẫn đến trẻ có thái độ bướng bỉnh, dần dần tạo ra sự ỉ lại, lười biếng và mất tự tin ở trẻ. Nhận thức được tầm quan trọng, lợi ích của việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ, là giáo viên được phân công dạy trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi tôi luôn suy nghĩ và băn khoăn làm thế nào để trẻ hứng thú làm những công việc tự phục vụ một cách tự nhiên không gò ép, tạo niềm hứng khởi say mê, hồn nhiên nơi trẻ ? 3
  4. Xuất phát từ những lý do trên đã giúp tôi mạnh dạn, đưa ra sáng kiến : “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi’’ 2. Giải quyết vấn đề. 2.1. Cơ sở lý luận của vấn đề Nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý trẻ mẫu giáo hay bắt chước và bắt chước rất nhanh, trẻ rất thích được thể hiện, thích cảm thấy mình là người lớn. Những công việc tự phục vụ bản thân như: rửa mặt, đánh răng Bất cứ sự chăm sóc nào từ phía người lớn cũng phải tạo cơ hội để rèn luyện cho trẻ những kỹ năng này. Đặc biệt những người làm công tác giáo dục mẫu giáo đều được nhấn mạnh việc rèn cho trẻ những kỹ năng tự phục vụ. Cô giáo nên hướng dẫn trẻ để hình thành các thao tác, nề nếp thói quen tốt trẻ làm có kỹ năng. Qua lao động giúp trẻ thân thiện với nhau hơn và hoạt động một cách tích cực hơn. Rèn kỹ năng tự phục vụ được ví như một phương tiện giáo dục toàn diện cho trẻ về các mặt: thể chất, ngôn ngữ, nhận thức, tình cảm, thẩm mỹ rèn cho trẻ một số kỹ năng sống phù hợp với lứa tuổi, nhằm củng cố các kỹ năng lao động tự phục vụ góp phần quan trọng hình thành một số phẩm chất nhân cách ở trẻ sau này. Ở lứa tuổi mẫu giáo bé bắt đầu hình thành và phát triển ý thức cái tôi của mình trẻ tích cực tìm hiểu các sự vật, hiện tượng trong môi trường xung quanh, trẻ rất muốn tự làm mọi việc để khẳng định mình. Ý thức này chi phối phần lớn các hoạt động hàng ngày của trẻ. Vì vậy, chúng ta cần tôn trọng và thoả mãn nhu cầu tự phục vụ của trẻ dù cho những công việc đó rất nhỏ như tự xúc cơm ăn, tự đi dép, tự đội mũ Ngoài ra người lớn cần có những hiểu biết cơ bản về đặc điểm phát triển tâm sinh lý của trẻ để có những đối sử đúng mực với hành vi và việc làm của trẻ. Khi trẻ có mong muốn được làm việc và có lúc tỏ ra bướng bỉnh. Chính vì thế người lớn không nên kìm hãm ý muốn tự lập của trẻ. Khi trẻ thực hiện công việc có thể sẽ mất nhiều thời gian, không theo mong muốn của người 4
  5. lớn, khi bừa bãi thậm chí con hỏng việc. Song người lớn cần hiểu, thông cảm, có cách đối sử đúng mực và tạo điều kiện để trẻ được tự làm, tự trải nghiệm công việc, người lớn không nên sốt ruột hoặc làm thay trẻ. Ở trẻ mẫu giáo bé đa số trẻ còn chưa có kỹ năng tự phục vụ ( đánh răng, rửa mặt, rửa tay ), chưa biết sử dụng một số dụng cụ trong sinh hoạt như: khăn mặt, ca cốc, giày dép, bàn chải đánh răng Tuy nhiên người lớn cần phải luôn nhắc nhở trẻ những kỹ năng này. Qua đó hình thành ở trẻ thói quen và ý thức luôn giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Rèn kỹ năng tự phục vụ là công việc hết sức quan trọng nó đòi hỏi giáo viên phải kiên trì, thường xuyên, giáo dục, chăm sóc trẻ ở mọi lúc mọi nơi, phải kết hợp nhiều biện pháp, nhiều hình thức lồng ghép vào trong các giờ học, giờ chơi, lúc ăn, lúc ngủ Rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non sẽ giúp trẻ tự vệ sinh cá nhân khi được nhắc nhở, trẻ sống có trách nhiệm hơn với chính mình. Vì vậy để hình thành tính tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi các nhà giáo dục cùng với các bậc cha mẹ cấn có những biện pháp giáo dục phù hợp nhằm giúp trẻ phát huy được khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau này. 2.2. Thực trạng Năm học 2015-2016 này tôi được nhà trường phân công phụ trách lớp mẫu giáo bé 3-4 tuổi- C1. Lớp tôi có 2 giáo viên và 45 học sinh. Cơ sở vật chất của lớp học được ban giám hiệu nhà trường trang bị khá đầy đủ. Tôi và đồng chí giáo viên cùng lớp đều nhận thức được tầm quan trọng của việc tổ chức các hoạt động trong ngày của trẻ, đặc biệt tổ chức rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi. Nên bản thân tôi đã nghiên cứu, tìm tòi, học hỏi và đưa ra một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ 3-4 tuổi. Đối tượng nghiên cứu : Trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi (lớp mẫu giáo bé C1) trường mầm non Ngô Quyền- TP Bắc Giang. 5
  6. Xuất phát từ tình hình thực tế của trường, điều kiện của lớp và khả năng của mình. Trong quá trình tổ chức: “Một số biện pháp rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi” bản thân tôi nhận thấy có những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi. - Đựơc sự quan tâm của các cấp lãnh đạo, đầu tư cơ sở vật chất trường lớp sạch sẽ, thoáng mát tạo điều kiện thuận lợi cho giáo viên tổ chức các hoạt động trong ngày của trẻ. - 100% học sinh ở lớp được đầu tư đầy đủ đồ dùng học tập, đồ dùng cá nhân cho mỗi trẻ. - Hai giáo viên phụ trách có trình độ đạt trên chuẩn, có chuyên môn vững vàng, nắm vững đặc điểm tâm sinh lý của trẻ. Cả hai cô đều yêu nghề mến trẻ, nhiệt tình trong công việc, thường xuyên vệ sinh lớp học sạch sẽ, bố trí sắp xếp đồ dùng đồ chơi trong lớp gọn gàng, ngăn nắp, dễ lấy, dễ cất. - Giáo viên luôn gương mẫu cho trẻ làm theo. Giáo viên trong lớp kêt hợp chặt chẽ việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Đơn giản nhất là biết cất đồ dùng cá nhân của mình vào đúng tủ, đúng ngăn. - Môi trường sư phạm sạch đẹp khang trang, có đủ đồ dùng đồ chơi phù hợp với trẻ. - Phụ huynh luôn quan tâm, giúp đỡ nhiệt tình trong mọi hoạt động. * Khó khăn - Diện tích trường, lớp còn chật hẹp. Lớp học chỉ có một phòng chung cho tất cả các hoạt động. - 30% phụ huynh không có thời gian chăm sóc trẻ vào buổi sáng, nhiều trẻ đến lớp với quần áo, đầu tóc không gọn gàng, sạch sẽ. - 25% phụ huynh ít đưa đón con đi học thường nhờ ông, bà, anh chị hàng xóm vì thế giáo viên không có cơ hội trao đổi về tình hình của trẻ ở lớp để cùng phối hợp. 6
  7. - Nhận thức của phụ huynh về ngành học, về trẻ còn hạn chế, nuông chiều con quá mức luôn làm mọi công việc hộ con từ bé, không muốn con phải lao động dẫn đến trẻ không có tính tự giác, không có kỹ năng, ý thức tự phục vụ. Mặt khác nhiều phụ huynh không muốn cho con em mình phải lao động sợ con mệt, sợ con bị bẩn quần áo, phụ huynh thường làm hết việc để phục vụ cho trẻ, vì thế nhiều trẻ không biết làm việc gì để phục vụ cho bản thân. Thiếu kỹ năng tự phục vụ sẽ dẫn đến lười biếng, thụ động và khó khăn khi tham gia vào các hoạt động của tập thể. Dẫn đến tự kỷ hay dỗi hờn làm nũng hay ỷ lại không có kỹ năng, ý thức tự phục vụ một số trẻ sống trong môi trường không lành mạnh từ gia đình. Do đó việc đưa trẻ vào nề nếp rất khó khăn. - Thực tế khảo sát trên trẻ 3-4 tuổi (lớp mẫu giáo bé -C1) trường mầm non Ngô Quyền vào đầu năm học 2015-2016, kết quả như sau : Nội dung Số trẻ Tỷ lệ - Rửa tay, rửa mặt, vệ sinh răng miệng. 20/45 44% - Mặc quần áo phù hợp với thời tiết, gấp 23/45 51% quần áo. - Cất đồ dùng cá nhân gọn gàng, cất đồ chơi 30/45 66% đúng nơi quy định. - Chuẩn bị cho giờ ăn giờ học, chia màu, 28/45 62% chia thìa, kê và cất ghế. Việc bồi dưỡng kinh nghiệm sống, rèn luyện thói quen tốt giúp trẻ hình thành kỹ năng cần thiết trong cuộc sống, biết hợp tác cùng bạn, xây dựng tính độc lập, kích thích óc tò mò, khă năng sáng tạo, biết yêu thương chia sẻ, biết lắng nghe người khác nói. Để bồi dưỡng, hình thành thói quen tốt cho trẻ ngay từ lứa tuổi mầm non, tôi đưa ra một số biện pháp sau đây. 7
  8. 2.3. Các biện pháp thực hiện. 2.3.1. Lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ phù hợp dạy trẻ ở lứa tuổi 3- 4 tuổi: Lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ cần dạy trẻ ở lứa tuổi này rất quan trọng. Nếu cô lựa chọn những nội dung đúng phù hợp để rèn cho trẻ thì sẽ mang lại hiệu quả cao và giúp cho trẻ có những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi. Nếu nội dung không phù hợp với lứa tuổi của trẻ như yêu cầu cao quá thì sẽ dẫn đến trẻ làm việc quá sức ảnh hưởng đến sự phát triển thể lực ở trẻ. Chính vì vậy tôi đã nghiên cứu rất kỹ khi lựa chọn những kỹ năng tự phục vụ phù hợp với lứa tuổi của trẻ. Tôi đã căn cứ vào: chương trình giáo dục trẻ mầm non, sách giáo dục thường xuyên đặc biệt là chương trình hướng dẫn thực hiện chăm sóc giáo dục trẻ 3-4 tuổi. Đối với tâm sinh lý trẻ 3 tuổi thì có rất nhiều kỹ năng mà trẻ cần phải biết trước khi bước sang 4 tuổi. Thực tế nhiều nhà nghiên cứu cho thấy kỹ năng tự phục vụ là một trong những kỹ năng rất quan trọng nó đòi hỏi người lớn cần phải tạo cơ hội cho trẻ để trẻ rèn luyện những kỹ năng này. Trẻ có thể tự làm được những việc tự phục vụ bản thân phù hợp với khả năng của trẻ. Do đó tôi đã lựa chọn những nội dung sau: - Trẻ biết tự vệ sinh cá nhân của trẻ khi được nhắc nhở như: rửa tay, rửa mặt, vệ sinh răng miệng, đi giày dép. - Trẻ biết tự chăm sóc bản thân: tự mặc, cởi quần áo, mặc quần áo phù hợp với thời tiết, gấp quần áo, gập chăn gối khi ngủ dậy - Trẻ biết cất đồ dùng cá nhân gọn gàng, cất đồ chơi đúng nơi quy định - Trẻ biết chuẩn bị cho giờ học như: lấy và chia đồ dùng học. Kê bàn ghế chuẩn bị cho giờ ăn, chia thìa, cất ghế. Sau khi xác định được những kỹ năng tự phục vụ cần dạy trẻ ở lứa tuổi này tôi sẽ tiến hành khảo sát xem trẻ đã làm được những việc gì và đạt ở mức độ nào. Từ đó tôi sẽ đưa ra một số biện pháp để rèn trẻ một số kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Tôi nhận thấy cần chọn ra những việc dễ nhất để trẻ thực 8
  9. hiện từ dễ đến khó. Việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ cần có kế hoạch rèn từ từ không nóng vội. Bên cạnh đó cần tỏ ra tôn trọng trẻ và động viên khuyến khích những gì trẻ làm được. 2.3.2. Tạo môi trường rèn kỹ năng tự phục vụ. Tính tự phục vụ của trẻ được trẻ trải nghiệm trong hoạt động, trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với trẻ 3 tuổi đã bắt đầu có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức được điều đó và luôn chính tỏ, thử thách năng lực của mình, trong sinh hoạt hàng ngày. Vì vậy, người lớn cần tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm việc nhiều hơn, như: dọn đồ chơi, nhặt rau cùng mẹ, tự xúc cơm dần dần sẽ hình thành cho trẻ tính tự giác, tính tự quyết định khả năng tự xoay sở của mình. Ở nhà cũng như ở trường, cần tạo cho trẻ một môi trường để trẻ thực hiện công việc một cách dẽ dàng. Sự phối hợp giữa gia định và nhà trường là hai môi trường quan trọng nhất giúp trẻ hình thành “Rèn kỹ năng tự phục vụ”. * Đối với gia đình. Trong gia đình cha mẹ cần dành thời gian giành cho trẻ. Đây là một điều kiện, một yếu tố cơ bản tạo khả năng cho cha mẹ có điều kiện tốt để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Tuy nhiên quỹ thời gian ở đây đòi hỏi sự kết hợp hài hoà về mặt số lượng sử dụng thời gian đối trẻ. - Về số lượng thời gian: Thời gian sẽ tạo điều kiện cho cha mẹ không chỉ về chăm sóc và nuôi dưỡng mà còn dành thời gian rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Cha mẹ có thời gian nhiều hơn tham gia vào các hoạt động chung của trẻ. VD: Khi trẻ rửa tay mẹ cùng quan sát xem con của mình rửa tay như thế nào. Nếu trẻ rửa tay chưa đúng cha mẹ sửa xai cho trẻ và kèm theo lời giải thích cho trẻ lần sau làm đúng. - Cha mẹ là tấm gương. Tấm gương của cha mẹ một phương pháp “mưa dầm thấm lâu” có một ý nghĩa đặc biệt trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ của trẻ. Trong giai đoạn này trẻ cảm nhận cuộc sống hàng ngày của cha mẹ với tất cả “ Sự hiện diện nhân cách”. Thông qua việc tái hiện lại ở trẻ những 9
  10. điều đã “trông thấy, nghe thấy” một cách dập khuôn “ bắt chước”. Chính vì vậy mà cha mẹ muốn rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ được tốt thì cha mẹ luôn luôn phải gương mẫu: VD: Cha mẹ muốn dạy trẻ đánh răng ngày 2 lần trước khi đi ngủ vào buổi tối và buổi sáng sau khi ngủ dậy. Rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh. Cất đồ dùng đúng nơi quy định Thì cha mẹ luôn là người gương mẫu. * Đối với nhà trườn. Trong trường mầm non cô giáo chính là tấm gương sáng cho trẻ noi theo. Những lời nói cử chỉ của cô, những điều cô dạy bảo sẽ gây ấn tượng cho trẻ mang theo đến suốt cuộc đời. Qua các hoạt động cũng như khi tiếp xúc với trẻ tôi nhận thấy những đặc điểm của trẻ mẫu giáo là rất hay bắt chước và rất nhạy cảm. Trẻ tiếp thu rất nhanh những cái hay những cái dở. Vì vậy là một người giáo viên trước khi đến lớp tôi đặc biệt chú ý đến hình dáng bên ngoài như: đầu tóc gọn gàng, sạch sẽ. Khi đến lớp tôi thay mặc đồng phục của trường trang phục phẳng phiu, phù hợp với nghề và thuận tiện trong công việc, luôn tạo cho mình có tác phong nhanh nhẹn nói đi đôi với làm, làm đâu sạch đấy, luôn gọn gàng, ngăn nắp. Đồ dùng tư trang, đồ dùng cá nhân của cô như quần áo, giày dép, mũ, túi của cô cất vào phòng giành riêng cho giáo viên. Bằng chính những việc làm, hành động cũng như thói quen nề nếp của cô sẽ hình thành thói quen tốt cho trẻ. Đồ dùng đồ chơi cô cũng sắp xếp gọn gàng. Tôi luôn hướng dẫn trẻ làm một cách nhẹ nhàng. Nhắc nhở động viên khen ngợi trẻ một cách kịp thời. Mỗi khi trẻ làm sai cô lại nhắc nhở trẻ uốn nắn để sửa sai luôn hình thành thói quen tốt cho trẻ. Đồng thời tôi cũng luôn tự tu dưỡng, trau dồi đạo đức và nâng cao trình độ chuyên môn, nắm vững tâm sinh lý trẻ giúp trẻ hoạt động tích cực để nhằm phục vụ trẻ tốt hơn. Vệ sinh môi trường trong và ngoài lớp luôn sạch sẽ. Đồ dùng cá nhân của học sinh sạch sẽ vì được vệ sinh thường xuyên, đồ chơi của trẻ được lao 10
  11. rửa theo quy định. Sàn nhà luôn sạch sẽ, sàn nhà vệ sinh khô ráo. Đặc biệt hiên và sảnh trước cửa lớp được các cô vệ sinh thường xuyên. 2.3.3. Xây dựng kế hoạch rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Việc xây dựng kế hoạch giúp tôi định hướng đúng, chính xác những nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong cả năm học, giúp tôi chủ động trong từng thời gian cụ thể, tránh việc làm tự phát theo hứng, gặp đâu làm đấy dẫn đến tình trạng trùng lặp, bỏ sót. Xây dựng kế hoạch còn giúp tôi kết hợp lựa chọn các nội dung, phương pháp và hình thức rèn luyện cho trẻ một cách hợp lý khoa học và có hiệu quả. Khi xây dựng kế hoạch tôi dựa vào kế hoạch chung của trường, dựa vào đặc điểm tình hình thực tế của trẻ trong lớp và xây dựng có hệ thống đảm bảo nguyên tắc từ dễ đến khó, phù hợp với khả năng nhận thức của trẻ. Tháng Nội dung Biện pháp Tháng Rèn trẻ đi vệ sinh đúng Tham mưu với ban giám hiệu mua đầy 8/ 2015 nơi quy định, rèn kỹ năng đủ ca cốc, khăn mặt. Cô cắt đề can dán nhận đúng ký hiệu: cốc, ký hiệu cho trẻ. Thêu khăn mặt cho trẻ khăn mặt Tháng - Tiếp tục rèn kỹ năng - Cô bổ xung thêu khăn mặt cho những 9/2015 tháng 8. Bổ xung rèn kỹ trẻ mới ra lớp. Phân trẻ ngồi theo tổ. năng ngồi đúng chỗ ngồi Khi ngồi cô rèn trẻ ngồi đúng tư thế. học, nhận biết kí hiệu của vở của trẻ. - Rèn lấy cất đồ chơi - Cô dạy trẻ trong giờ hoạt động góc, đúng nơi quy định nhắc nhở trẻ thường xuyên. Tháng Tiếp tục rèn kỹ năng - Cô rèn kỹ năng cho trẻ vào chiều thứ 10/2015 tháng 9. Đi sâu rèn kỹ 3 hàng tuần năng rửa mặt, rửa tay - Quan sát trẻ thực hiện hàng ngày và đúng cách. rèn trực tiếp cho trẻ. 11
  12. Tháng Tiếp tục rèn kỹ năng Cung cấp cho trẻ biết tác dụng của 11/2015 tháng 10. Rèn kỹ năng việc xúc miệng bằng nước muối. Sau xúc miệng nước muối sau khi ăn cô cho trẻ xúc miệng nước muối. khi ăn. Cô hướng dẫn trẻ cách xúc miệng Tháng Tiếp tục rèn kỹ năng xúc Cung cấp kiến thức cho trẻ về kĩ năng 12/2015 miệng nước muối. Rèn bảo vệ sức khoẻ. Hướng dẫn cho trẻ kỹ năng mặc quần áo. cách tự cởi, mặc quần áo Tháng Lấy cất đồ dùng đúng nơi Hướng dẫn trẻ cách lấy, cất đồ dùng 1/2016 qui định. đúng nơi qui định, sắp xếp gọn gàng ngăn nắp. Tháng Tiếp tục rèn kỹ năng gấp Hướng dẫn trẻ các kĩ năng thao tác lao 2/2016 quần áo. Rèn kĩ năng lao động tự phục vụ: ghế, phục vụ cho hoạt động tự phục vụ: Tự lấy động học tập và vui chơi trong ngày. ghế ngồi vào bàn. Tháng Rèn kỹ năng lau dọn sắp Cung cấp cho trẻ kiến thức về giữ gìn 3/2016 xếp đồ dùng dồ chơi vệ sinh lớp sạch sẽ. Qua đó giáo dục trẻ trong lớp gọn gàng, ngăn ý thức bảo vệ đồ dùng đồ chơi lớp học nắp. Tháng Tiếp tục rèn kỹ năng Hướng dẫn trẻ có ý thức giữ gìn môi 4/2016 tháng 3. Vứt rác vào trường trong và ngoài lớp sạch sẽ. đúng nơi quy định. Tháng Rèn kỹ năng lao động Cung cấp cho trẻ kiến thức về ý nghĩa 5/2016 tập thể ngoài trời. của việc lao động tập thể. Rèn cho trẻ những kĩ năng cơ bản khi tham gia lao động: Lau lá cây, nhặt lá rụng ngoài sân trường. 12
  13. 2.3.4. Lồng ghép nội dung lao động tự phục vụ cho trẻ vào các hoạt động trong ngày: Như chúng ta đã biết đặc điểm tâm sinh lý trẻ mẫu giáo là tư duy trực quan hình tượng và phát triển ghi nhớ có chủ định. Trong quá trình giáo dục trẻ cần phải hình thành ở trẻ kỹ năng và thói quen tự phục vụ. Trẻ 3-4 tuổi đã có khả năng tự mình làm một số việc đơn giản. Trẻ cũng đã có ý thức được việc đó và mong muốn được làm. Giáo dục tính tự phục vụ cho trẻ bắt đầu từ thói quen tự lập, thói quen vệ sinh cá nhân đòi hỏi phải tác động đến trẻ một cách lâu dài. Vì vậy việc luyện tập thường xuyên các công việc tự phục vụ vừa sức cho trẻ là rất quan trọng và cần thiết. Trẻ chỉ tiếp thu những gì trẻ thích, hứng thú, tự nguyện vì thế không nên yêu cầu trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay sẽ không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở trẻ. Vì vậy không thể truyền thụ hàng loạt những việc làm qua những mệnh lệnh và câu nói. Tất cả những điều đó trẻ có thể hiểu ngay và quên ngay. Cô phải thật kiên trì dạy trẻ rèn cho trẻ các kỹ năng tự phục vụ với phương pháp cơ bản là trình bày cách làm của từng động tác đơn giản vừa làm mẫu, vừa giải thích. Quá trình hướng dẫn cho trẻ có được những thói quen tốt đòi hỏi giáo viên phải luôn củng cố, kiểm tra, nhắc nhở, nêu gương và đưa trẻ vào rèn luyện hàng ngày. Nhận thức được vấn đề đó tôi nghiên cứu lồng ghép nội dung lao động tự phục vụ vào trong các hoạt động trong ngày của trẻ một cách nhẹ nhàng, linh hoạt, gây hứng thú tự nguyện nhằm gieo vào lòng trẻ những thói quen tốt. * Hoạt động đón trả trẻ: + Giờ đón trẻ: Tôi quan sát khi phụ huynh đưa con tới lớp. Cô ra đón trẻ ân cần niềm nở và quan sát nhắc nhở trẻ chào hỏi, hướng dẫn trẻ cất đồ dùng cá nhân một cách gọn gàng ngăn nắp. Cô chú ý tình hình sức khoẻ và tâm trạng của trẻ. 13
  14. Ví dụ: Trẻ đổi dép tổ ong nhưng không cất dép đi ở nhà đến lên giá. Cô nhắc trẻ con lồng 2 chiếc dép của con vào nhau và tự cất lên giá. Như vậy trẻ sẽ nhẹ nhàng cất lên giá dép ngay. Trẻ cất đồ dùng cá nhân đúng nơi quy định, xếp gọn gàng + Giờ trả trẻ: Trước khi về cô nhắc nhở trẻ trước khi về cất ghế đúng nơi quy định, cất gọn gàng ngăn nắp. Khi trẻ cất ghế một số trẻ cầm ghế chưa đúng cô lưu ý bao quát sửa sai, cô nhẹ nhàng hướng dẫn trẻ cách bê ghế bằng 2 tay: 1 tay cầm thành ghế, 1 tay cầm mặt ghế bê ghế ngang tầm bụng, cất đúng chỗ, gọn gàng, cất dép đi trong nhà vào đúng nơi quy định mới ra về. * Hoạt động học tập: Khi thực hiện tôi luôn nghiên cứu lồng ghép nội dung giáo dục các kỹ năng tự phục vụ vào các tiết học. Ví dụ: Hoạt động: Giáo dục Âm nhạc. Đề tài: Hát "Đôi mắt xinh " Chủ đề "Bản thân" 14
  15. Sau khi hát và cho trẻ hát và quan sát một số hình ảnh trên máy chiếu tôi tiến hành đàm thoại hỏi trẻ để trẻ nhớ nội dung bài hát như : + Bài hát nhắc đến những bộ phận nào của cơ thể? + Đôi mắt, tai, miệng, tay có tác dụng như thế nào? Trong khi trẻ trả lời cô gợi mở giúp trẻ hiểu rõ hơn tầm quan trọng của các giác quan trên cơ thể con người. Qua đó giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh sạch sẽ các giác quan đó như: rửa mặt, đánh răng, cắt móng tay đặc biệt trẻ phải ăn đầy đủ các chất để cho cơ thể khoẻ mạnh và thông minh. Ví dụ: Hoạt động: Văn học. Đề tài: Chuyện “ Quả trứng” Chủ đề: Gia đình. Nội dung câu chuyện như sau: Cậu bé đang háo hức chờ mẹ bóc vỏ quả trứng cho ăn. Vừa cần quả trứng lên thì chuông điện thoại reo, sau khi nghe điện thoại, người mẹ ra khỏi nhà, trước khi đi bà mẹ dặn cậu con trai “ con ở nhà và tự ăn trứng đi nhé mẹ có việc phải ra ngoài ngay bây giờ” Đến trưa bà mẹ trở vệ nhà và ngạc nhiên khi thấy quả trứng vẫn còn y nguyên trên bàn. Bà mẹ hỏi con “ Tại sao con không ăn trứng”. Cậu bé mếu máo trả lời “ con rất đói con rất muốn ăn nhưng chẳng có ai bóc cho con ăn cả mẹ ạ ”. Bà mẹ nhìn con ngỡ ngàng bối rối bà hiểu ra một điều gì đó. + Câu chuyện đã nhắc đến điều gì? + Qua câu chuyện này các con rút ra bài học gì? Qua câu chuyên này giáo dục trẻ biết tự phục vụ mình tất cả các việc. muốn làm được thì trẻ phải học hỏi hàng ngày dần dần trở thành kỹ năng . Thông qua câu chuyện này các bậc phụ huynh cũng tự rút ra cho mình bài học kinh nghiệm trong cách rèn kỹ năng tự phục vụ cho con mình. Ngoài ra trong hoạt động tạo hình trẻ biết chia vở cho bạn thông qua ký hiệu. Cô rèn cho trẻ tự lấy màu và lấy ghế ngồi vào bàn. 15
  16. * Hoạt động lao động: Những buổi hoạt động lao động tôi lên kế hoạch vào thứ năm hàng tuần. Tôi lựa chọn những nội dung vừa sức với trẻ như: Cất dép lên giá, xếp ghế, lau lá cây, nhặt lá rụng, tưới cây Qua đó tôi giáo dục cho trẻ biết yêu lao động và làm việc có ích. Khi đó trẻ sẽ cảm thấy rất vui vẻ và tự hào về những gì trẻ làm được. Ví dụ: Cô cho trẻ quan sát sân trường. Cô hỏi trẻ: + Các con cùng quan sát sân trường hôm nay như thế nào? (Có nhiều lá rụng) + Có nhiều lá rụng chúng ta phải làm gì? (Nhặt lá) + Để cho sân trường sạch, đẹp các con phải làm gì? (Vứt rác vào đúng nơi quy định) Cô dao nhiệm vụ cho trẻ buổi lao động hôm nay là nhặt lá rụng và rác ngoài sân trường bỏ vào thùng rác. Thông qua buổi lao động này giao dục trẻ biêt vứt rác vào đúng nơi quy định. Ngoài ra trẻ có ý thức giữ gìn vệ sinh chung ở nơi công cộng. (Không khạc nhổ, không vứt rác bừa bãi). Sau buổi lao động trẻ cùng cô rửa chân tay sạch sẽ và chuyển hoạt động khác. Trẻ biết tự nhặt rác vứt vào nơi quy định 16
  17. + Rèn kỹ năng gấp áo (gấp quần): Cô cùng trẻ trò chuyện về trang phục của mùa hè, mùa đông và thời tiết của ngày hôm nay như thế nào?. Mặc quần áo phù hợp với thời tiết. Sau đó cô hướng dẫn trẻ cách gấp quần áo như sau: Đầu tiên chải phẳng áo ra sau đó gấp hai ống tay vào trước ngực vuốt phẳng. Cuối cùng gấp đôi áo lại. Trẻ quan sát cô làm mẫu. Cô mời trẻ nhắc lại cách gấp áo. Sau đó cô mời trẻ nhắc lại cách gấp áo và mời trẻ lần lượt thực hiện. Khi trẻ gấp xong cô gợi ý một số câu hỏi để trẻ nhận xét mình làm đúng chưa? Cho cả lớp nhận xét xem bạn gấp quần áo có phẳng phiu gọn gàng chưa? Vì sao?. Từ đó cô giáo dục trẻ mặc quần áo phù hợp với thời tiết, tự mặc thêm quần áo khi trời lạnh, cởi bớt quần áo khi trời nóng để bảo vệ sức khoẻ và sau khi thay quần áo xong phải biết gấp gọn gàng cất vào tủ cá nhân. Trẻ gấp quần áo trong hoạt động lao động 17
  18. * Hoạt động vệ sinh. - Tôi đã lên kế hoạch rèn các kỹ năng tự phục vụ cho trẻ vào các buổi chiều thứ 3 hàng tuần nôi dung liên quan đó là hoạt động vệ sinh. Khi trẻ thực hiện các thao tác lại, giáo viên quan sát gợi ý để trẻ tự mình tìm ra được những sai sót và có thể sửa chữa. Gợi ý trẻ tự nhận xét về mình, nhận xét của bạn trẻ sẽ hiểu thêm quy tắc sống, kỹ năng sống cần thiết. Thực hành vệ sinh cho trẻ có rất nhiều nội dung để mình lựa chọn. Tôi đã chọn những nội dung phù hợp với lứa tuổi tôi đang phụ trách như: Rửa tay, rửa mặt, súc miệng bằng nước muối loãng, chải đầu Ví dụ: Rèn kỹ năng rửa tay cho trẻ. - Mục đích: Trẻ rửa tay trước khi ăn và sau khi đi vệ sinh và những lúc tay bẩn. - Tiến hành: Cô cùng trẻ trò chuyện về lợi ích của việc rửa tay. Cô hướng dẫn cho trẻ cách rửa tay. Cô đặt một số câu hỏi gợi ý : Vì sao nước bắn tung toé? Khi rửa tay con phải vặn nước và rửa như thế nào khỏi bắn nước? và cho trẻ thực hành. Qua đó cô giáo dục trẻ biết giữ gìn vệ sinh cá nhân sạch sẽ. Khi trẻ đã có những kỹ năng làm những công việc tự phục vụ thì trẻ sẽ làm việc một cách tự tin hơn. Trẻ tự rửa tay trong giờ hoạt động vệ sinh 18
  19. * Hoạt động vui chơi. Hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất giữ vai trò chủ đạo của trẻ mẫu giáo. Thông qua chơi trẻ được thực hành trải nghiệm, tự lựa chọn làm các công việc trẻ thích trong thực tế không bị gò bó áp đặt mà lại gây được hứng thú cho trẻ tích cực tham gia hoạt động. Bởi nó đáp ứng được nhu cầu của trẻ, trẻ tự được sáng tạo. Trong giờ chơi giáo viên cho trẻ biết sử dụng những đồ dùng sinh hoạt một cách gọn gàng khéo léo. Các nhà khoa học đã khẳng định "Những vận động bằng tay của trẻ càng khéo léo càng phong phú bao nhiêu càng dễ hình thành các thao tác trí tuệ bấy nhiêu". Cô cho trẻ tự lấy và cất đồ chơi đúng nơi quy định biết sắp xếp đồ chơi gọn gàng ngăn nắp đúng nơi quy định. Việc tổ chức tốt hoạt động vui chơi không chỉ giúp trẻ hình thành khẳ năng mà còn đặt nền tảng khá vững chắc để phát triển kỹ năng tự phục vụ cho trẻ sau này. Ví dụ: Trong chủ đề Giao thông ở góc phân vai khi trẻ chơi trò chơi: “ bố mẹ chở con đi học ” có thể gợi ý cho trẻ đội mũ bảo hiểm đúng cách và an toàn. Cứ như vậy một hai lần trở thành thói quen trước khi ngồi trên xe máy là đội mũ bảo hiểm. Sau khi sử dụng song trẻ biết cất mũ bảo hiểm vào đúng nơi quy định. Khi trẻ chơi cô bao quát động viên khen ngợi trẻ kịp thời gợi ý cho trẻ biết sử dụng các đồ dùng sinh hoạt. Nhờ việc lồng ghép kỹ năng tự phục vụ vào các hoạt động vui chơi dần dần sẽ hình thành những thói quen tốt cho trẻ. 2.3.5.Tuyên truyền phối hợp với phụ huynh cách dạy trẻ kỹ năng tự phục vụ trong gia đình. Tôi tuyên truyền đến các bậc phụ huynh giờ đón trả trẻ về nội dung rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Vì bố mẹ là những người làm gương quan trọng nhất của con cái. Nhưng bên cạnh đó có nhiều phụ huynh đã vô tình bỏ qua những cơ hội đơn giản và thuận lợi hàng ngày để hướng dẫn con những điều này ở một nơi khác với những người xa lạ. Việc phối hợp với phụ huynh có ý nghĩa rất quan trọng trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ để giúp các kỹ năng mà trẻ được dạy ở lớp được rèn luyện và thực hành ngay tại nhà là điều vô cùng cần thiết. Tuyên truyền 19
  20. cho phụ huynh thấy rằng nên cân bằng giữa việc nuôi dưỡng và khuyến khích sự độc lập để trẻ khám phá và trải nghiệm giúp trẻ tự tin hơn trong cuộc sống. Thường thì phụ huynh thấy trẻ tiếp xúc với một việc làm mới mẻ thường sợ trẻ không làm được. Trong số các nguyên nhân trẻ không làm những công việc tự phục vụ là do phụ huynh không hướng dẫn trẻ làm và thường làm hộ trẻ. Nhiều phụ huynh vì quá yêu thương bao bọc trẻ làm hết hộ trẻ mà không biết rằng điều đó vô tình dẫn đến việc trẻ thiếu hụt không biết cách tự phục vụ bản thân. Do đó trẻ thường hay ỷ lại nên việc rèn trẻ gặp rất nhiều khó khăn. Cô nên trao đổi với phụ huynh về lợi ích của việc rèn kỹ năng tự phục vụ để phụ huynh nắm được nội dung, phương pháp hướng dẫn rèn trẻ kỹ năng tự phục vụ từ đó cô phối hợp cùng với phụ huynh rèn trẻ. Ngay từ đầu năm học tôi đã phổ biến nội dung trọng tâm của lớp đi sâu vào việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong cuộc họp phụ huynh . Trẻ biết làm những việc nhỏ tôi đã phân tích cho phụ huynh thấy rằng những việc nhỏ đó hoàn toàn phù hợp với trẻ với đặc điểm tâm sinh lý trẻ và trẻ có thể làm được. Nắm được đặc điểm tâm sinh lý trẻ phụ huynh nên giao nhiệm vụ cho trẻ hình thành tính tự giác độc lập qua đó nhằm phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. Để làm tốt điều đó thì phụ huynh phải gương mẫu cho trẻ. ở nhà đồ dùng cất gọn gàng ngăn nắp. Khi đưa con đi học thì cho trẻ rửa mặt mũi chân tay sạch sẽ, đầu tóc quần áo gọn gàng sạch sẽ. Đề nghị phụ huynh đưa con đi học đưa con đến lớp tận tay cô giáo. Ngoài ra tôi yêu cầu phụ huynh thường xuyên giữ liên lạc trao đổi với cô giáo trao đổi qua những buổi họp phụ huynh, giờ đón trả trẻ. Mỗi cháu có một quyển nhật ký riêng để trao đổi tình hình của trẻ hàng ngày của cô giáo và phụ huynh như: Hôm nay con được học những gì? Con học thế nào? Những việc làm tự phục vụ nào của con còn chưa tốt? Tôi yêu cầu phụ huynh rèn thêm cho trẻ những kỹ năng trẻ làm chưa tốt. Phụ huynh nên giao nhiệm vụ và yêu cầu trẻ phải làm. Nếu trẻ làm chưa đúng thì phụ huynh làm mẫu rồi hướng dẫn trẻ. Tôi tuyên truyền tới các bậc phụ huynh những nội dung ngắn gọn, dễ hiểu, dễ thực hiện và mang tính thuyết phục cao. Tôi khuyến khích các bậc phụ huynh tạo điều kiện cho trẻ những việc mà trẻ có thể tự làm, trẻ sẽ cảm thấy rất vui và thoả mái. Cha mẹ luôn tạo 20
  21. cho trẻ có cơ hội để trẻ tự phục vụ bản thân như: tự rửa mặt, đánh răng, tự mặc quần áo và chuẩn bị đồ dùng cá nhân để đi học Phối hợp cùng phụ huynh giáo dục trẻ. Tuyên truyền cho phụ huynh thấy ý nghĩa về những kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. Giúp trẻ mạnh dạn hơn hơn và giúp trẻ có trách nhiệm hơn trong mọi công việc. Trẻ tự làm không phụ thuộc vào người khác, trẻ tự làm ở lứa tuổi mẫu giáo không phải lúc nào cũng như nhau. Hoàn cảnh, môi trường, thể trạng sức khoẻ ảnh hưởng đến việc này. Ví dụ: ở lớp trẻ tự xúc cơm nhưng về nhà lại thích mẹ xúc. Ở góc tuyên truyền của lớp tôi dán kế hoạch rèn kỹ năng cho trẻ theo từng tháng để cho phụ huynh biết đươc nội dung rèn kỹ năng cho trẻ. Trang trí những hình ảnh liên quan đến kỹ năng tự phục vụ cho trẻ như: Hình ảnh bé tự cất đồ, tự xúc cơm Phụ huynh nên động viên khuyến khích khi trẻ làm những việc tốt không nên đợi đến khi trẻ lớn mới rèn kỹ năng tự phục vụ. Vì khi những thói quen xấu đã được hình thành thì sẽ mất rất nhiều thời gian để hình thành thói quen tốt. Cho phụ huynh thấy rằng việc tự chăm sóc bản thân là một phần quan trọng trong sự phát triển của trẻ. Phụ huynh ở nhà nên cho con tự làm những công việc tự phục vụ như: giúp mẹ dọn cơm, gấp quần áo. Tự mặc quần áo, đi tất, gấp chăn khi ngủ dậy. Cho trẻ làm những công việc tự phục vụ vừa sức của trẻ.Trẻ bắt đầu làm một số công việc hàng ngày của trẻ. Một phần của quá trình này phản ánh lòng tự trọng đang phát triển của trẻ, ở nhà phụ huynh nên nhắc trẻ làm việc gọn gàng ngăn nắp. Do vậy trẻ sẽ tự hào về những gì mình làm được. Cho phụ huynh thấy rằng nên cân bằng giữa quá trình nuôi dưỡng và khuyến khích sự độc lập để trẻ khám phá và trải nghiệm giúp trẻ tự tin hơn. Chính vì vậy, sự hình thành và phát triển kỹ năng tự phục vụ của trẻ chịu ảnh hưởng trực tiếp sâu sắc bởi công tác giáo dục của gia đình và trường mầm non. Mỗi môi trường giáo dục có thế mạnh riêng trong việc rèn kỹ năng cho trẻ. Do vậy, việc phôí hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ là rất cần thiết. Một mặt nó tạo ra sự thống nhất trong 21
  22. công tác chăm sóc - giáo dục trẻ giữa gia đình và nhà trường. Mặt khác, nó giúp cho nhà trường phát huy được thế mạnh của gia đình trong công tác chăm sóc và giáo dục trẻ, tránh được tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ của trẻ giữa gia đình và nhà trường. 2.4. Hiệu quả sáng kiến kinh nghiệm. Sau khi áp dụng những biện pháp trên một cách tích cực, tôi thấy chất lượng rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đạt được kết quả cụ thể như sau. * Đối với trẻ: Trẻ đã say mê, hứng thú trong các hoạt động tự phục vụ. Những hoạt động lao động tự phục vụ ở lớp như: Rửa mặt, rửa tay, lau bàn tôi nhận thấy trẻ làm một cách tự giác và cất dọn đồ dùng đồ dùng đồ chơi gọn gàng ngăn nắp. Khi được cô giáo phân công giao nhiệm vụ thì trẻ rất tích cực hoạt động và mang lại hiệu quả cao. Kết quả khảo sát kỹ năng tự phục vụ cho trẻ đầu năm so với cuối năm đạt được như sau. Nội dung Đầu năm Cuối năm Số trẻ Tỷ lệ Số trẻ Tỷ lệ Tự rửa tay, rửa mặt, vệ sinh răng miệng. 20/45 44% 40/45 88% Tự mặc quần áo. 23/45 51% 38/45 84% Tự cất đồ dùng cá nhân gọn gàng. 30/45 66% 45/45 100% Chuẩn bị giờ học, giờ ăn. 28/45 62% 41/45 90% - Từ khi làm tốt công tác kết hợp với phụ huynh tôi thấy trẻ đã mạnh dạn hoạt động, tích cực với những việc tự phục vụ. Kết quả khảo sát trẻ với những việc làm tự phục vụ mà trẻ làm ở nhà đã đạt hiệu quả cao hơn so với đầu năm. Số trẻ làm ở mức độ thường xuyên đạt tỉ lệ cao hơn so với đầu năm. 22
  23. - 100% trẻ có ý thức tự giác làm những công việc tự phục vụ: cất đồ dùng cá nhân gọn gàng ngăn nắp đúng vào nơi quy định. - 98% trẻ có hứng thú say mê các hoạt động lao động tự phục vụ. * Đối với giáo viên. - Nắm vững nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. - Được trau dồi kiến thức về rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ. * Đối với phụ huynh: Phụ huynh vui mừng phấn khởi khi thấy con em mình có ý thức làm việc nhỏ vừa sức, có thói quen giữ gìn vệ sinh sạch sẽ biết giúp. Phụ huynh yên tâm khi con em mình tham gia vào các hoạt động lao động. - 100% phụ huynh đưa con đến lớp quần áo đầu tóc sạch sẽ, gọn gàng. 3. Kết luận. Qua quá trình nghiên cứu đề tài và qua quá trình dạy trẻ tôi thấy việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi là một vấn đề hết sức quan trọng và cần thiết trong quá trình hình thành đạo đức nhân cách cho trẻ. Vì vậy mà mỗi giáo viên chúng ta không chỉ dạy trẻ trên tiết dạy mà còn dạy trẻ ở mọi lúc, mọi nơi. Để làm được việc này đòi hỏi chúng ta phải thường xuyên bồi dưỡng, trau dồi nâng cao kiến thức về chuyên môn nghiẹp vụ cho bản thân để đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao của ngành giáo dục cũng như của toàn xã hội. Với đề tài này theo tôi không chỉ áp dụng có hiệu quả ở trường tôi mà còn có thể áp dụng cho các trường mầm non trong toàn thành phố Bắc Giang, và trong phạm vi toàn tỉnh Bắc Giang. * Bài học kinh nghiệm Qua một năm thực hiện “Một số biện pháp rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi ” tôi nhận thấy: Bản thân tôi đã có nhiều kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ kĩ năng tự phục vụ. Việc rèn kĩ năng tự phục vụ cho trẻ là việc làm rất cần thiết để trẻ có những thói quen và kĩ năng tốt giáo viên phải làm tốt những công việc sau: - Giáo viên phải nắm chắc nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ phù hợp với độ tuổi. 23
  24. - Sáng tạo, linh hoạt lồng ghép nội dung giáo dục kỹ năng tự phục vụ thông qua các hoạt động. - Bản thân cô có ý thức nhanh nhẹn, làm đâu sạch đấy, gương mẫu trong sinh hoạt. - Cô nhiệt tình, yêu nghề mến trẻ, cô bao quát trẻ mọi lúc, mọi nơi, động viên khích lệ trẻ kịp thời khi trẻ làm tốt làm đúng. - Giáo viên làm tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn kỹ năng tự phục vụ ở nhà. * Kiến nghị. + Đối với phòng GD-ĐT thành phố Bắc Giang. Đề nghị với Phòng giáo dục và Đào tạo tiếp tục mở các lớp bồi dưỡng cho giáo viên để nâng cao nghiệp vụ sư phạm cho giáo viên về rèn kỹ năng sống cho trẻ. Và tạo cơ hội hơn nữa cho giáo viên có điều kiện giao lưu, học hỏi, mở mang kiến thức qua việc tham quan, dự giờ các hoạt động dạy mẫu, các tiết dự thi giáo viên giỏi các cấp nói chung và nhất là các kiến thức, kỹ năng tự phục vụ cho trẻ nói riêng. + Đối với nhà trường. Đề nghị với nhà trường tham mưu với các cấp, ngành liên quan tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất, đồ dùng cá nhân, đồ dùng dạy học để rèn kỹ năng tự phục vụ cho trẻ trong mọi hoạt động. Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc dạy trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi có những thói quen tự phục vụ, bản thân tôi đã rút ra sau một năm học thực hiện tốt. Rất mong nhận được sự tham gia đóng góp ý kiến của hội đồng thi đua các cấp và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến kinh nghiệm của tôi hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! P. Ngô Quyền, ngày 10 tháng 4 năm 2016 Người viết Nguyễn Thị Thinh 24
  25. 4. Tài liệu tham khảo [1] Nguyễn Quang Uẩn (chủ biên) Nguyễn Văn Luỹ- Đinh Văn Vang (2008), Giáo trình tâm tý học đại cương. NXBGD [2] Dương Minh Hào (2009)- Hãy để bé học cách tự lập- NXBGD Việy Nam. [3] Nguyễn Thị Hoà ( 2010)- Giáo dục học mầm non- NXB đại học sư phạm. [4].(Số 1- 2011) Tạp chí - Giáo dục mầm non - Bộ giáo dục và đào tạo. [5].(Số 3- 2013) Tạp chí- Giáo dục mầm non- Bộ giáo dục và đào tạo. 25
  26. 5. Đánh giá của Hội đồng khoa học các cấp: HỘI ĐỒNG KHOA HỌC TRƯỜNG MN NGÔ QUYỀN Đánh giá đề tài, SKKN đạt: điểm; Xếp loại: đạt bậc TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CHỦ TỊCH Hiệu trưởng Vũ Thị Liên HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GIÁO DỤC TP BẮC GIANG. Đánh giá đề tài, SKKN đạt: điểm; Xếp loại: đạt bậc TM. HỘI ĐỒNG KHOA HỌC CHỦ TỊCH Trưởng phòng Ngô Minh Hưng 26