SKKN Một số gợi ý có tính khả thi nhằm mục đích tăng cường thời gian nói của học sinh trong lớp học tại trường THPT Nguyễn Khuyến, tỉnh Nam Định
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số gợi ý có tính khả thi nhằm mục đích tăng cường thời gian nói của học sinh trong lớp học tại trường THPT Nguyễn Khuyến, tỉnh Nam Định", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
skkn_mot_so_goi_y_co_tinh_kha_thi_nham_muc_dich_tang_cuong_t.doc
Nội dung tóm tắt: SKKN Một số gợi ý có tính khả thi nhằm mục đích tăng cường thời gian nói của học sinh trong lớp học tại trường THPT Nguyễn Khuyến, tỉnh Nam Định
- Để đạt được mục đích nghiên cứu, tác giả đã đưa ra 2 câu hỏi cho phần nghiên cứu: - Thực trạng về thời gian nói tiếng Anh của học sinh trong các giờ học nói là như thế nào? - Giáo viên nên làm gì để tăng cường thời nói của học sinh ở trong các giờ học nói trên lớp? 1.4. Đối tượng nghiên cứu: Học sinh khối 11 đã tiếp xúc với chương trình tiếng Anh hệ 7 năm 1.5. Phương pháp nghiên cứu: để đạt được mục đích nghiên cứu tác giả đã sử dụng phương pháp định lượng và định tính. Tác giả đã có 2 bản câu hỏi: 1 bản câu hỏi cho giáo viên và một bản câu hỏi cho học sinh để thu thu thập thông tin và chứng cứ cho bản nghiên cứu. 1.6. Ý nghĩa nghiên cứu: tác giả mong muốn được góp một phần nhỏ trong việc dạy nói cho học sinh, giúp giáo viên có thể tạo điều kiện cho học sinh có cơ hội thực hành nhiều hơn trong các giờ học nói. PHẦN 2: NỘI DUNG: Quy trình và các giải pháp kinh nghiệm cụ thể 2.1. Thùc tr¹ng (tríc khi t¹o ra s¸ng kiÕn) Có thể rút ra kết luận từ bản khảo sát rằng thời gian học sinh tham nói trong các giờ học nói là quá ít và thời gian của giáo viên nói thì rất nhiều. Khi quan sát tác giả thấy rằng giáo viên còn dành tương đối nhiều thời gian vào phần giải thích từ mới, đưa gợi ý, viết từ mới lên bảng, giải thích cấu trúc ngữ pháp, đưa ra các ví dụ, đưa ra các câu hỏi, Trong giờ nói hầu như nhiệm vụ của học sinh đó là nhắc lại từ mới, chép từ và cấu trúc, đọc từ mới. Nếu được yêu cầu trả lời các em thường trả lời rất ngắn. Tóm lại thời gian nói của giáo viên và học sinh trong các giờ học nói là chưa hợp lý. Khi quan sát 4 lớp trong giờ học nói tác giả thấy rằng số lượng thời gian nói của giáo viên chiếm hơn một nửa số giờ học trong 1 tiết học ( khoảng 25 phút) trong đó thời gian nói của học sinh lại quá ít (chỉ chiếm khoảng 12 phút trong 1 tiết học) Theo như bản câu hỏi khảo sát đưa ra, hầu hết giáo viên ở trường THPT Nguyễn Khuyến đều hiểu rõ về phương pháp dạy học theo đường hướng giao tiếp. Tuy nhiên rất ít giáo viên áp dụng phương pháp dạy học theo đường hướng giao tiếp khi dạy kỹ 4
- năng nói.Nhiều giáo viên còn tập trung quá nhiều vào phần ngữ pháp và từ vựng, điều đó là không cần thiết khi dạy kỹ năng nói. Ngoài ra giáo viên ở trường Nguyến Khuyến chưa thực sự khuyến khích học sinh tham gia nói trong các giờ học nói. Khi các em không nói được giáo viên thường cho các em ngồi xuống và gọi những em khác đang xung phong. Chính điều đó đã làm cho các em không nói được đó cảm thấy không tự tin vào khả năng của mình và thậm chí còn cảm thấy sợ khi bị gọi. Thêm vào đó, rất ít giáo viên cho điểm tốt hoặc khen ngợi các em để động viên các em tham gia vào giờ học nói. Nguyên nhân thứ hai dẫn đến các em còn nói quá ít trong giờ học nói đó là cách chữa lỗi của giáo viên chưa thật sự phù hợp. Khi giáo viên chữa lỗi của các em trong khi các em đang trình bày sẽ lãm cho các em càng trở nên luống cuống, bối rối và quên hết những gì các em đang định trình bày. Hơn nữa, phương pháp của giáo viên còn buồn tẻ. Hầu như giáo viên chưa có nhiều hoạt động để gây hứng thú cho các em để nói. Trong lớp học, các em chỉ ngồi im lăng, ghi chép và chỉ trả lời khi giáo viên hỏi. Một lý do mà học sinh còn nói ít trong các giờ học nói đó là giáo viên chưa thật sự kiên nhẫn với học sinh. Khi học sinh không nói được giáo viên thường tỏ vẻ tức giận, phê bình em đó và cho ngồi xuống và gọi những em khác đang xung phong nói. 2.2. Các giải pháp Để nâng cao việc dạy và học nói trong các tiết dạy nói, để tăng lượng thời gian nói của học sinh, tác giả đưa ra một số gợi ý sau : 2.2.1 Gợi ý cho giáo viên Theo như kết quả của bản khảo sát, rõ ràng là phương pháp dạy học ở trường THPT Nguyễn Khuyến cũng liên quan trực tiếp đến việc dạy nói của học sinh Tuy nhiên cũng không thể phủ nhận rằng giáo viên cũng gặp rất nhiều các khó khăn trong vấn đề dạy nói. Do đó, để nâng cao tình hình dạy và học nói tiếng Anh ở truờng THPT Nguyễn Khuyến, tác giả đưa ra một số gợi ý sau: ❖ Giáo viên nên áp dụng phương pháp dạy học theo đường hướng giao tiếp, lấy học sinh làm trung tâm còn giáo viên chỉ là người gợi ý, giúp đỡ khi các em gặp khó khăn. ❖ Giáo viên nên thiết kế ra những hoạt động hấp dẫn, thú vị phù hợp với học sinh để các em có thể nói nhiều hơn nữa 5
- ❖ Giáo viên nên đưa ra những chủ đề gần gũi, phù hợp với lứa tuổi học sinh để tạo ra không khí trong lớp học, khuyến khích tất cả các em tham gia vào hoạt động nói. Giáo viên cũng nên để các em tự chọn chủ đề mà các em thích. ❖ Giáo viên cũng nên có phương pháp chữa lỗi cho phù hợp trong các giờ dạy nói. Giáo viên không nên chữa lỗi trong khi học sinh đang nói mà chỉ chữa khi các em đã nói xong. ❖ Giáo viên cũng nên để học sinh tự chữa lỗi cho nhau trước. ❖ Giáo viên cũng nên gần gũi, thân thiện với học sinh. Trong giờ học, giáo viên nên đi xung quanh lớp để quan sát và giúp đỡ các em. ❖ Giáo viên không nên phê bình các em mà thay vào đó là động viên, khích lệ các em ❖ Kỹ năng nói nên đưa vào trong các kỳ thi để các em nhận thấy rõ vai trò quan trọng của kỹ năng này. Đó chính là động lực giúp các em tăng cường thời gian nói trong các giờ dạy nói ❖ Giáo viên nên tạo ra một môi trường nói tiếng Anh bởi vì chính cách này giúp các em có thể diễn đạt ý kiến của mình một cách tự do và thoải mái hơn. 2.2.2 Một số hoạt động nhằm tăng cường thời gian nói của học sinh ở trong lớp học: Theo ông Penny Ur (1996), một giờ học nói được cho là thành công nếu như học sinh tham gia nói nhiều. Khi các em nói nhiều, kỹ năng nói của các em được nâng cao. Trong phạm vi nghiên cứu này, tác giả chỉ đưa ra một số hoạt động để có thể tăng cường thời gian nói của học sinh ở trong lớp học. 2.2.2.1 Hoạt động theo nhóm và hoạt động theo cặp: Có thể nói rằng hoật động cặp và nhóm là rất hữu ích trong kỹ năng dạy nói. Tất cả các em đều có cơ hội trình bày trước cả lớp. Chính điều này làm cho các em trở nên tự tịn hơn. Dạy theo cách này giáo viên cũng đỡ vất vả hơn vì giáo viên chỉ đóng vai trò là người hướng dẫn, giúp đỡ các em khi các em gặp khó khăn về từ và ý. Hơn nữa, hoạt động này còn giúp các em có cơ hội được học hỏi lẫn nhau. Để thực hiện được hoạt động này giáo viên phải chuẩn bị bài nhiều hơn đặc biệt phải thiết kế ra những công việc sao cho phù hợp với mỗi đơn vị bài học 2.2.2.2 Đóng kịch: Đây là một hoạt động rất quan trọng trong phương pháp dạy học theo đường hướng giao tiếp. Trong giờ học các em được đóng các vai như: bác sĩ, công an, giáo vêin, 6
- ngừơi bán hàng, Đây cũng là một hoạt động rất thiết thực và hữu ích, nó dạy cho các em kỹ năng sống trong và ngoài lớp học. Với hoat đọng này giáo viên phải đi quanh lớp để động viên, khuyến khích các em nói bằng cách đưa ra những gợi ý cụ thể. 2.2.2.3 Thảo luận các chủ đề Với hoạt động này, thảo luận theo nhóm là phù hợp nhất cho các em.Với hoạt động này, các em có thể cảm thấy tự tin hơn và mạnh dạn nói hơn vì các em thường cảm thấy ngại khi nói với giáo viên. Đây cũng chính là cơ hội mà các em có thể bày tỏ quan điểm ý kiến của các nhân mình. Để cho hoạt động này được thành công trước hết giáo viên nên chọn các chủ đề gần gũi, thiết thực với cac em hơn như: nói về một sở thích, kể về một kỳ nghỉ hè của em, thuận lợi và không thuận lợi của Internet, 2.2.2.4 Hoạt động trình bày nói Hoat động này rất thú vị và hấp dẫn. Học sinh có thể chọn chủ đề mà các em thích để nói. Điều quan trọng nhất đó là giáo viên phải chia lớp học ra thành những nhóm nhỏ và đưa ra yêu cầu về thời gian. Giáo viên nên sắp xếp những em khá, giỏi ngồi cạnh những em yếu, kém, những em hay nói ngồi cạnh những em ít nói để các em có cơ hội học hỏi lẫn nhau. 2.3. Hiệu quả do sáng kiến đem lại: 2.3.1. Hiệu quả kinh tế (Giá trị làm lợi tính thành tiền-nếu có): không có 2.3.2. Hiệu quả về mặt xã hội (Giá trị làm lợi không tính thành tiền): Sau khi đem áp dụng những gợi ý trên tác giả đã thu được kết quả sau: - Thời gian nói của học sinh trong giờ dạy nói tăng lên đáng kể. Trước đây trong các giờ dạy nói giáo viên phải nói rất nhiều còn học sinh chỉ ngồi im ghi chép , nhắc lại từ mới và chỉ trả lời khi giáo viên hỏi. Các câu trả lời của các em rất ngắn. Nhưng khi áp dung những gợi ý trên tác giả nhận thấy rằng trong lớp các em rất hăng say nói. Các em đóng rõ vai trò chủ đạo trong các tiết học nói còn giáo viên chỉ là người hướng dẫn, giúp đỡ các em do đó thời gian nói trong các tiết học nói của học sinh tăng lên rất nhiều. - Các em dường như trở nêm tự tin hơn chứ không còn nhút nhát, e ngại nói tiếng Anh như trước đây. Có những em giao tiếp với cô giáo bằng tiếng Anh. - Vì được cô giáo cho điểm tốt nên các em thi đua nhau giơ tay để xin được nói. Đó là toàn bộ những kết quả tác giả đã thu được sau phần nghiên cứu củ mình 7
- PHẦN 3: KẾT LUẬN 3.1 Kết quả nghiên cứu Dựa trên kinh nghiệm giảng dạy và kết quả thực nghiệm từ kinh nghiệm dạy nói thực nghiệm ở 4 lớp 11A1, 11A2, 11A3 và 11A4 của trường THPT Nguyễn Khuyến có thể thấy kết quả về tính hiệu quả sau khi áp dụng các gợi ý dạy nói tiếng Anh được thể hiện qua 1 tiết học 45 phút như sau: Kết quả trước khi áp dụng: Lớp 11A1 11A2 11A3 11A4 TTT 56% 51% 56% 53% STT 26% 27% 23% 24% Silence 18% 22% 21% 23% Total 100% 100% 100% 100% Kết quả sau khi áp dụng: Lớp 11A1 11A2 11A3 11A4 TTT 18% 22% 19% 20% STT 70% 67% 69% 69% Silence 12% 11% 12% 11% Total 100% 100% 100% 100% Nhìn vào bảng kết quả trên ta có thể thấy sự tiến bộ rõ rệt của học sinh sau khi đã áp dụng các phương pháp dạy học và một số gợi ý khi dạy nói cho thấy rằng những phương pháp này thú vị và thu hút học sinh hơn. Kết quả này chứng tỏ một điều rằng các gợi ý này đã đem lại được tính hiệu quả riêng của nó; học sinh đã có thể tăng cường thời gian nói trong các tiết học nói, các em đã bắt cảm thấy hứng thú khi nói chuyện bằng tiếng Anh với nhau khác nhau mà không còn cảm thấy ngại hoặc xấu hổ như trước đây. Điều quan trọng đó là các em thấy tự tin vào mình hơn rất nhiều. 3.2. Đề xuất, kiến nghị: Là một giáo viên trẻ, giảng dạy chưa lâu, kinh nghiệm chưa nhiều nên tác giả biết vấn đề mình đưa ra còn nhiều hạn chế. Vì vậy, tác giả rất mong nhận được sự tham gia xây dựng của các thầy cô, đồng nghiệp để vấn đề tác giả đưa ra được hoàn thiện hơn, có hiệu quả hơn trong quá trình giảng dạy. 8
- Xin chân thành cảm ơn! Nam Định, ngày 20 tháng4 năm 2012 Người viết Lê Thị Thuỳ Dương CƠ QUAN ĐƠN VỊ ÁP DỤNG SÁNG KIẾN (x¸c nhận, ®¸nh gi¸, xÕp lo¹i) 9
- (Ký tên, đóng dấu) ( khèi phßng GD-§T) Phßng GD-§T (x¸c nhận, ®¸nh gi¸, xÕp lo¹i) (L§ phßng ký tên, đóng dấu) 10