SKKN Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh qua các bài chant, song cho học sinh Lớp 5 tại Trường Tiểu học Hải Lựu

doc 19 trang thulinhhd34 33835
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh qua các bài chant, song cho học sinh Lớp 5 tại Trường Tiểu học Hải Lựu", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • doctao_hung_thu_hoc_tap_tieng_anh_qua_cac_bai_chant_song_cho_ho.doc
  • docxTH.HAILUU.17.05-PHAMTHIMAI+NGUYENTHIHONGNHUNG-TT.docx

Nội dung tóm tắt: SKKN Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh qua các bài chant, song cho học sinh Lớp 5 tại Trường Tiểu học Hải Lựu

  1. Luôn tạo cho các em thói quen hát một bài hát tiếng Anh vào mỗi đầu tiết học. Thỉnh thoảng vào những lúc giữa tiết học các em bị căng thẳng, mệt mỏi do học vào tiết cuối cùng, giáo viên cũng nên bắt nhịp cho các em một hoặc hai bài hát ngắn, nhẹ nhàng với giọng điệu vui – kèm theo những tiếng vỗ tay nhịp đôi, rồi nhịp một, nhịp càng lúc càng nhanh rồi chấm dứt, nhằm trả lại sự phấn chấn, rộn ràng, vui tươi, sinh động trong lớp học. Ngoài giờ học ra, giáo viên có thể khuyến khích các em hát vào giờ ra chơi, khi các em vui chơi để vừa giải trí, vừa giúp các em nhớ từ mới, nhớ cấu trúc. Các bài hát và chant cũng có thể được áp dụng vào các giờ ngoại khóa, giờ chào cờ đầu tuần hay các cuộc thi trong lớp, trường hay với các trường bạn, Khuyến khích các em không những hát ở trường mà còn hát ở nhà cho gia đình, bạn bè nghe. c2.2. Kết hợp một vài động tác hay điệu bộ phù hợp trong lúc hát, chant: - Hát kết hợp với cử chỉ điệu bộ giúp học sinh hứng thú hơn, dễ dàng để học từ, cấu trúc và ngữ điệu. Các bài hát kết hợp với cử chỉ giúp lớp học vui nhộn hơn. Qua đó các em sẽ tự tin hơn khi giao tiếp, khi dứng trước đám đông. - Các bài hát, chant kết hợp với cử chỉ, điệu bộ giúp các em phát triển ngôn ngữ cơ thể (body language). Eg: Bài hát “This is the way we do things.”- Unit 2: I always get up early. How about you? sách giáo khoa lớp 5, trang 13. Với bài hát này thì học sinh sẽ làm cử chỉ điệu bộ với các cụm từ “brush our teeth” là đánh răng, “wash our face” là rửa mặt, “eat our food” là ăn đồ ăn. This is the way we do things. This is the way we brush our teeth, Brush our teeth, brush our teeth. This is the way we brush our teeth, So early in the morning. This is the way we wash our face, Wash our face, wash our face. This is the way we wash our face, So early in the morning. 7
  2. This is the way we eat our food, Eat our food, eat our food. This is the way we eat our food, So early in the morning. Eg: Bài chant “What do you do in the morning?” unit 2: I always get up early. How about you?, sách giáo khoa lớp 5, trang 16. Với bài chant này thì học sinh cũng làm các cử chỉ, động tác như: brush my teeth là đánh răng, go to school là đi học, play computer games là dùng tay đánh máy tính. What do you do in the morning? What do you do in the morning? I always brush my teeth. What do you do after getting up? I usually go to school. How often do you go to the library? I go there once a week. How often do you play computer games? I play them every week! c2.3. Tổ chức hát cá nhân, hát cặp, hát nhóm và hát cả lớp cho học sinh: Để học sinh làm quen với việc hát và đọc các bài chant có nhịp phách thì ban đầu giáo viên hãy cho các em học sinh hát theo tập thể, hát nhóm, rồi hát cặp và cuối cùng là hát cá nhân. Chính việc tổ chức nhiều hình thức học các bài hát, chant như vậy sẽ giúp các em hứng thú hơn với việc học và các em cũng tự tin hơn. Để đạt được như vậy thì giáo viên hãy luyện tập thường xuyên có như vậy học sinh mới tự tin khi hát. Eg: Bài hát “The wheels on the bus.” Unit 1: What’s your address? - sách giáo khoa lớp 5, trang 7. Với bài hát này thì giáo viên có thể tổ chức cho học sinh hát tập thể, sau đó hát nhóm. The wheels on the bus The wheels on the bus go round and round, 8
  3. Round and round, round and round. The wheels on the bus go round and round all day long. The bells on the bus go ding, ding, ding, Ding, ding, ding, ding, ding, ding. The bells on the bus go ding, ding, ding all day long. The wheels on the bus go round and round, Round and round, round and round. The wheels on the bus go round and round All day long, all day long, all day long. c2.4. Tổ chức hình thức hát đuổi cho học sinh lớp 5: Hát đuổi là cách hát vui nhộn và mang tính giáo dục rất có ý nghĩa, nó gây được sự ham thích của học sinh. Hát đuổi (với 2 hoặc 4 nhóm) tạo cho người hát, các nhóm, các bè và cả người nghe một cảm giác lộn xộn lúc ban đầu khi các nhóm hát khác nhau (khác về lời nhưng nhạc vẫn đi theo một mẫu giống nhau), rồi sau cùng lại giống nhau – cùng hát một câu. Nếu hát được đúng, ta đã giúp tạo ra lòng tự tin, tính độc lập cho các em, không nghe theo, không làm theo người hát bè khác. Khi đó, chắc chắn các em sẽ rất vui và còn hãnh diện nữa. Như vậy, chúng ta biết rằng các phương thức để hỗ trợ cho bài học tiếng Anh không những là qua chơi trò chơi, kể chuyện, đóng kịch, đi cắm trại mà còn qua các bài hát nho nhỏ, vui vui đó nhằm khuyến khích việc sử dụng tiếng Anh một cách sáng tạo thiết thực. Sử dụng được càng nhiều tiếng Anh, học hỏi thêm càng nhiều tiếng Anh càng tốt cho việc giao tiếp trong cuộc sống đời thường và trong xã hội hiện đại ngày nay. Eg: Bài hát “How did you get there?”- unit 3: Where did you go on holiday?, sách giáo khoa lớp 5, trang 21. Với bài hát này thì giáo viên có thể chia lớp thành các nhóm và hát đuổi. How did you get there? I went by bus, I went by train, I went by bus I went by train 9
  4. To my hometown. To my hometown. I had fun, I had fun, I had fun I had fun All the day home. All the day home. c3. Chant, song giúp học sinh nhớ từ vựng tốt: Từ vựng là một trong những vấn đề nan giải và luôn là khó khăn đối với các em ở mọi cấp học từ tiểu học đến trung học phổ thông, đặc biệt là các em tiểu học. Các em đang ở lứa tuổi vừa học, vừa chơi, dễ nhớ dễ quên nên việc ghi nhớ từ là khá khó khăn. Trong chương trình học thì số lượng từ mới ở mỗi lesson là khá nhiều nên học sinh thường có xu hướng không muốn học hay ghi nhớ từ. Do vậy việc học từ mới thông qua các bài hát và chant là một giải pháp có hiệu quả. Học sinh thì nhớ từ hơn, thích học hơn và không quá áp lực với việc học môn ngoại ngữ mà các em nghĩ đó như là một cách để giải trí. Eg: Bài hát “What did you see at the zoo?”- unit 9: What did you see at the zoo?, sách giáo khoa lớp 5, trang 59. Với bài hát này thì giáo viên giúp học sinh ôn lại và ghi nhớ tốt hơn với các từ: peacock, beautiful, zoo, kangaroo, fast, funny. Where did you go yesterday? I went to the zoo. Who did you go with? I went with my friend Sue. What did you see at the zoo? We saw some peacocks. They were very beautiful. And we saw some kangaroos. They were fast and funny, too. 10
  5. Eg: Bài chant “What’s the matter with you?”- unit 11: What’s the matter with you?, sách giáo khoa lớp 5, trang 10.Với bài này học sinh có thể ôn lại các từ mới như: matter, toothache, dentist, sweet, headache, doctor. What’s the matter with you? I have a toothache. You should go to the dentist. You shouldn’t eat lots of sweets. What’s the matter with you? I have a headache. You should go to the doctor. You shouldn’t watch too much TV. c4. Chant, song giúp học sinh nhớ ngữ pháp tốt: Các bài hát tiếng Anh được chọn là một trong những ngữ liệu cho việc dạy ngữ pháp tiếng Anh vì âm nhạc góp phần vào việc giúp trẻ tăng cường khả năng ghi nhớ rất nhanh và có hiệu quả lâu dài. Theo Gfeller (1983), khi các thông tin bằng lời được truyền thụ cùng lúc với âm điệu thì việc ghi nhớ sẽ được tăng cường cao hơn. Quả thật, những giai điệu của âm nhạc cùng với tiết tấu của nó có tác dụng rất lớn đối với việc giúp trẻ ghi nhớ các thông tin. Ngoài ra, các bài hát sẽ giúp thu hút sự chú ý của trẻ nhiều hơn đến các hình thức, dạng, mẫu và cấu trúc câu. Điều quan trọng cần phải chú ý trong quá trình dạy cho trẻ em đó là thu hút sự chú ý nghiêm túc của trẻ. Để làm được điều đó, giáo viên cần phải hiểu và lựa chọn, tổ chức hoạt động phù hợp, có tác dụng thu hút cao với trẻ. Không nằm ngoài mục đích đó, các bài hát tiếng Anh nhận được sự ủng hộ từ phía giáo viên khi chọn lựa tài liệu giảng dạy là bởi vì chúng thu hút được sự chú ý của trẻ. Điều này có nghĩa là khi trẻ được dạy một bài hát tiếng Anh, sự thích thú âm điệu của bài hát sẽ giúp trẻ chú ý cao đến hình thức cấu trúc ngữ pháp, sự chú ý này làm cho trẻ nhanh nhớ những gì giáo viên muốn truyền đạt. Bên cạnh đó, việc lặp đi lặp lại của các giai điệu làm cho ngôn ngữ được dễ nhớ hơn. Một nhân tố nữa đóng góp vào sự thành công của phương pháp dạy ngữ pháp tiếng Anh thông qua các bài hát là sự giảm căng thẳng mà các bài hát mang lại cho trẻ trong quá trình học. Các bài hát tạo ra không khí nhẹ nhàng, thư 11
  6. giãn trong lớp học; điều này làm giảm các nhân tố căng thẳng gây ảnh hưởng không tốt trong quá trình học, đồng thời thúc đẩy việc học có hiệu quả hơn. Cùng với những yếu tố đã nêu, các bài hát còn là một nguồn ngữ liệu phong phú giúp ích cho việc học ngôn ngữ. Lời của các bài hát thể hiện cảm xúc, suy nghĩ, ý tưởng của con người, thể hiện các giá trị văn hóa. Với các bài hát chúng ta dễ dàng thay đổi chủ đề và tạo ra các ngữ cảnh sinh động và điều này có vai trò tích cực trong việc học ngữ pháp của trẻ. Nếu trong một bài hát có chứa đựng nội dung phù hợp với lứa tuổi thì việc học các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết có thể được lồng ghép vào một bài học rất nhẹ nhàng. Cuối cùng nhưng không kém phần hữu ích về mặt phương pháp giảng dạy đó là việc sử dụng các bài hát trong dạy ngữ pháp sẽ làm thay đổi không khí học tập, làm cho trẻ phấn khởi hơn. Và vì thế hiệu quả giảng dạy và việc tiếp thu của trẻ sẽ tăng theo. Eg: Bài chant “What’s the matter with you?”- unit 11: What’s the matter with you?, sách giáo khoa lớp 5, trang 10. Với bài chant này thì học sinh có thể ôn lại cấu trúc “What’s the matter with you? - I have a/ an ___”. What’s the matter with you? What’s the matter with you? I have a toothache. You should go to the dentist. You shouldn’t eat lots of sweets. What’s the matter with you? I have a headache. You should go to the doctor. You shouldn’t watch too much TV. c5. Chant, song giúp học sinh luyện kĩ năng nghe: Như chúng ta đã biết, Nghe là một trong bốn kỹ năng quan trọng, không nằm ngoài mục đích giao tiếp, nó xuyên suốt trong các phần của bài học, được phối kết hợp nhuần nhuyễn, không tách rời với các kỹ năng khác. Trong giao tiếp Nghe và Nói liên quan mật thiết với nhau. Chúng ta nói, truyền đạt ý kiến của mình, đồng thời cũng nghe và tiếp nhận ý kiến của người khác. Vì vậy chúng ta 12
  7. cần phải giúp học sinh luyện nghe càng nhiều càng tốt trong điều kiện có thể và giúp các em thoải mái, tự tin tham gia vào các hoạt động nghe không chỉ giới hạn qua các bài học, mà còn nghe qua thực tế cuộc sống giao tiếp, nghe qua các bản nhạc, bài hát hỗ trợ cho khả năng nghe của học sinh phát triển tự nhiên và đầy hứng khởi. Hoạt động nghe thông qua các bài hát Tiếng Anh phù hợp với lứa tuổi và chương trình Tiếng Anh có tính chất vui nhộn, dễ hát, dễ thuộc áp dụng trong các tiết học tự chọn đối với các lớp khối do tôi phụ trách giảng dạy, để giúp các em dễ nhớ, phát âm đúng từ vựng, cấu trúc, luyện tập thuần thục kỹ năng nghe ngay từ đầu năm học. Đồng thời giúp các em tự tìm tòi, khám phá, vận dụng kiến thức kỹ năng, hỗ trợ thực hiện tốt các hoạt động nghe trên lớp và yêu thích bộ môn. Eg: Bài chant “What would you like to be in the future?”- unit 15: What would you like to be in the future?, sách giáo khoa lớp 5, trang 35.Với bài chant này học sinh sẽ cải thiện kĩ năng nghe với cấu trúc và từ mới, học sinh cũng cải thiện được vấn đề về ngữ âm, ngữ điệu. What would you like to be in the future? What would you like to be? I’d like to be a nurse. What would you like to do? I’d like to look after children. Where would you like to work? I’d like to work in the mountains. I’d like to be a nurse. I’d like to look after children. I’d like to work in the mountains. c6. Chant, song giúp học sinh luyện phát âm, cải thiện ngữ điệu: Trong quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh muốn người khác hiểu nội dung mình nói gì học sinh cần phải phát âm từ và câu một cách rõ ràng. Vì vậy khi giới thiệu ngữ liệu, mẫu câu giáo viên cần phải đọc chuẩn về cả ngữ âm, ngữ điệu có trọng âm để các em bắt chước vì đây là yếu tố cơ bản trong việc dạy 13
  8. nghe-nói. Tất nhiên không thể chuẩn như người bản xứ nói Tiếng Anh nhưng để có một kết quả phát âm chuẩn xác nhất thi chúng ta nên chịu khó nghe băng đĩa của người bản địa. Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho các em có thói quen phát âm đúng và phải phát âm đúng. Bởi lẽ, các em mới bước đầu học Tiếng Anh nhưng phát âm không đúng sẽ thành thói quen ảnh hưởng không tốt trong quá trình học và giao tiếp sau này. Ngoài ra khi phát âm đúng thì các em sẽ tự tin hơn khi giao tiếp và không ngại ngần khi dơ tay lên bảng để nói. Vậy phương pháp dạy các bài chant, song giúp các em cải thiện ngữ âm, ngữ điệu là một giải pháp phù hợp. Vì qua các bài chant, song các em sẽ biết hát nối âm, biết nhấn nhá, từ nào lên và từ nào xuống. Đó là cơ sở giúp học sinh giao tiếp một cách tự tin hơn. Eg: Bài hát “Where’s the bus stop?”- unit 16: Where’s the post office?, sách giáo khoa lớp 5, trang 41. Với bài này học sinh sẽ có thể học được các âm được nối với nhau như: go straight ahead, the end of. Where’s the bus stop? Excuse me, where’s the bus stop? Excuse me, where’s the park? Where’s the bus stop? Where’s the park? Go straight ahead. Go straight ahead. It’s on the corner, Then turn left. At the end of the street. It’s opposite the museum. c7. Chant, song giúp giáo viên sáng tạo ra một số dạng bài tập: * Giáo viên có thể yêu cầu học sinh tao ra một bài chant, song khác tương tự với bài chant, song mẫu nhưng thay thế với các từ mới trong đơn vị bài học. Eg: Bài hát “The weather song”- unit 18: What will the weather be like tomorrow?, sách giáo khoa lớp 5, trang 55. Với bài chant này thì học sinh có thể thay thế các từ được gạch chân bằng các từ khác về thời tiết như: rainy, clowdy, sunny, stormy. The weather song What’s the weather like? What’s the weather like? 14
  9. What’s the weather like today? It’s sunny and it’s windy. And there will be rain later. What will the weather be like? What will the weather be like? What will the weather be like tomorrow? It will be cold. It will be wet. And there will be snow as well. * Bài chant, song giúp giáo viên tạo ra dạng bài tập với các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết. Bài tập này giúp học sinh nhớ lâu và có thể ôn lại từ mới, cấu trúc. Eg: Bài hát “Which place would you like to visit?”- unit 19: Which place would you like to visit?, sách giáo khao lớp 5, trang 59. Với bài này giáo viên có thể để khuyết những từ dược gạch chân và yêu cầu học sinh nghe và điền từ. Which place would you like to visit? Where would you like to go, The museum or the theatre? Where would you like to go, The pagoda or the zoo? I’d like to go to the museum. And the theatre, too. I’d like to visit the pagoda. And I’d like to go to the zoo. 7.2. Về khả năng áp dụng sáng kiến: Với các biện pháp mà chúng tôi đã đưa ra. Áp dụng vào khối 5 trường Tiểu học Hải Lựu – huyện Sông Lô – tỉnh Vĩnh Phúc. Tôi thấy có kết quả thiết thực trong việc nâng cao chất lượng của học sinh. Với những biện pháp này tôi thấy không những áp dụng trong nhà trường mà còn có thể áp dụng trong tất cả các trường tiểu học trong huyện Sông Lô. Chỉ sau một thời gian ngắn học sinh đã 15
  10. tự tin nói hơn, có thể hát tự nhiên hát các bài hát tiếng Anh, các em đã bớt đi sự rụt rè, ngoài ra giờ truy bài đầu giờ các em cũng thích hát các bài hát tiếng Anh. Tôi tin rằng nếu kiên trì thực hiện sáng kiến kinh nghiệm này một cách nghiêm túc, xuyên suốt quá trình giảng dạy thì chất lượng học tập bộ môn tiếng Anh trong trường Tiểu học Hải Lựu A nói riêng và trong cả huyện nói chung sẽ có được những kết quả khả quan hơn. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Sáng kiến có thể được áp dụng rộng rãi, không có thông tin bảo mật. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: Hiện nay các trường trong toàn huyện nói chung và trường tiểu học Hải Lựu nói riêng còn khá thiếu thốn về trang thiết bị để dạy và học môn tiếng Anh như tranh ảnh, con rối. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng dạy và học môn tiếng Anh, làm cho các em ít hứng thú hơn. Vì vậy các điều kiện để áp dụng một sáng kiến có hiệu quả là: - Cơ sở vật chất cần đảm bảo hơn, đầu tư thêm tranh ảnh, sách tham khảo môn Tiếng Anh. - Thường xuyên trau rồi kiến thức bản thân về chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức, kĩ năng giảng dạy để lôi cuốn thu hút các em trong học tập. - Tổ chức câu lạc bộ tiếng anh như English Club để các em có sân chơi và môi trường giao tiếp bằng tiếng Anh và học hỏi từ các bạn khác. - Ngoài ra trong giờ truy bài nhà trường nên cho học sinh lồng luồn hát những bài tiếng Anh cho các em thêm phần hứng khởi và tự tin hơn. - Tổ chức đoàn đội trong nhà trường cũng nên phát động các phong trào thi đua hàng tuần có thể tổ chức cuộc thi giọng hát hay tiếng Anh để các em có cơ hội thử sức và có một sân chơi bổ ích. Khi các em đứng quen ở môi trường đông người thì các em sẽ bớt sự nhút nhát e rè của mình hơn. - Đặc biệt là gia đình nên quan tâm động viên, giúp đỡ các em khi các em gặp khó khăn, mua sắm đầy đủ cho các em đồ dùng học tập như sách vở, bút thước, bút chì, tai nghe, máy tính, . - Tạo điều kiện thuận lợi để các giáo viên dạy tiếng Anh tiểu học được tham gia bồi dưỡng về công nghệ thông tin, cách thức khai thác các phần mềm và trang website phục vụ dạy và học tiếng Anh trên mạng. 16
  11. - Thường xuyên mở các lớp tập huấn tiếng anh nhằm nâng cao năng lực giáo viên giúp giáo viên có thể dần dần đạt chuẩn, tiếp cận với những tri thức mới. Qua quá trình giảng dạy, chúng tôi đã đúc rút được một số kinh nghiệm nhỏ và kết quả thu được cũng rất khả quan. Điều này đã giúp cho các học sinh của tôi ngày càng yêu thích môn Tiếng Anh hơn và tự tin hơn khi hát. Trên đây là đề tài “Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh qua các bài chant, song cho học sinh lớp 5 tại Trường Tiểu học Hải Lựu.” mà chúng tôi đã tích lũy được trong quá trình dạy học và học hỏi từ các đồng nghiệp khác. Rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy cô để tôi có thể rút kinh nghiệm, tự trau rồi kiến thức bản thân. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả và theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu: 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Qua quá trình giảng dạy kết quả mà tôi thu được trước và sau khi áp dụng sáng kiến như sau: Số Kiến thức - Kỹ năng Thái độ lượng học sinh 101 Trước Sau Trước Sau Học Hoàn 68 101 Thích 75 101 sinh thành ( 67,33%) ( 100% ) ( 74,26%) (100 %) Chưa 33 0 Không 26 0 hoàn ( 32,67%) ( 0 %) thích ( 25,74%) ( 0 % ) thành Lưỡng 0 0 lự ( 0%) ( 0%) 10.2. Đánh giá lợi ích thu dược do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức: + Với học sinh: 17
  12. - Sau khi sử dụng phương pháp dạy mới tự nhiên, tổ chức nhiều trò chơi hoạt động vào nội dung của từng bài học không khí lớp học sôi nổi hơn, sự thân thiện giữa cô và trò được cải thiện rõ rệt. - Những học sinh yếu không chỉ bớt ngại học và sợ môn tiếng Anh mà còn bạo dạn hơn, có ý thức hơn trong việc phát biểu xây dựng không khí sôi nổi trong lớp học, các em đã dần dần đứng trước các bạn trong lớp để nói cởi mở hơn, ít ngại giao tiếp hơn. - Các em rất thích thú khi tham gia hoạt động nhóm, cặp, câu lạc bộ, đã tự tin tham gia cuộc thi hát ở trường bằng Tiếng Anh. + Với giáo viên: - Sử dụng triệt để mọi thời gian trong giờ học một cách hiệu quả hơn. - Biết quan sát lắng nghe và nhận ra điểm mạnh, điểm yếu của học sinh để giúp đỡ các em một cách kịp thời. - Bản thân luôn trau rồi học hỏi kinh nghiệm để đổi mới phương pháp giảng dạy làm cho tiết học sinh động hơn. Như vậy có thể nói sau khi vận dụng sáng kiến vào tiết học thì hiệu quả giảng dạy được nâng cao rõ rệt, các em sôi nổi, mạnh dạn hơn không còn sợ sệt hay ngại giao tiếp nữa. Mặc dù mới đầu các em có thể hát hoặc chant không đúng nhạc, phách nhưng dần dần các em đã bắt kịp nhạc và hát tốt. Trong đó nhiều em còn mạnh dạn xung phong lên hát. Chúng tôi thực hiện đề tài này xuyên xuốt trong tiết học, nó đóng vai trò rất quan trọng cho việc thực hành mẫu câu, thực hành bốn kĩ năng nghe- nói- đọc- viết, việc đối thoại có trôi chảy, lưu loát hay không đều phải phụ thuộc vào việc học sinh tự tin và sôi nổi trong giờ. Nhưng để thực hiện giảng dạy tốt một tiết, không chỉ cần có sự đầu tư vào bài giảng, vào các bước lên lớp của giáo viên, mà còn phụ thuộc rất nhiều vào sự hợp tác của học sinh. Do vậy chúng tôi đã đưa ra một số yêu cầu đối với học sinh như: xem trước nội dung bài chant, song, trong giờ học phải nghiêm túc nghe giảng, tích cực đóng góp xây dựng ý kiến. - Trên đây là “Tạo hứng thú học tập Tiếng Anh qua các bài chant, song cho học sinh lớp 5 tại Trường Tiểu học Hải Lựu.”. Sáng kiến không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong nhận được sự góp ý của các cấp lãnh đạo, các đồng nghiệp để sáng kiến được hoàn chỉnh hơn. Xin trân trọng cảm ơn! 18
  13. 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp dụng sáng kiến lần đầu: TÊN TỔ PHẠM VI/ LĨNH STT CHỨC/CÁ ĐỊA CHỈ VỰC ÁP DỤNG NHÂN SÁNG KIẾN 1 Phạm Thị Mai Giáo viên giảng dạy khối Môn Tiếng Anh lớp lớp 5- Trường Tiểu học 5 tại Trường Tiểu Hải Lựu - Sông Lô. học Hải Lựu - Sông Lô. 2 Nguyễn Thị Hồng Giáo viên giảng dạy khối Môn Tiếng Anh lớp Nhung lớp 4- Trường Tiểu học 4 tại Trường Tiểu Hải Lựu - Sông Lô. học Hải Lựu - Sông Lô. Hải Lựu., ngày tháng 6 năm 2020 Hải Lựu, ngày tháng 6 năm 2020 Hải Lựu, ngày 17 tháng 6 năm 2020 HIỆU TRƯỞNG CHỦ TỊCH HỘI ĐỒNG TÁC GIẢ (Ký tên, đóng dấu) SÁNG KIẾN CẤP TRƯỞNG (Ký, ghi rõ họ tên) (Ký tên, đóng dấu) Phạm Thị Mai Nguyễn T Hồng Nhung 19