Giải pháp Phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học
Bạn đang xem tài liệu "Giải pháp Phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- giai_phap_phat_trien_ky_nang_giao_tiep_tieng_anh_cho_hoc_sin.doc
Nội dung tóm tắt: Giải pháp Phát triển kỹ năng giao tiếp tiếng Anh cho học sinh cấp tiểu học
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh giáo viên thường xuyên nói Tiếng Anh thì những câu nói đó dần dần thấm sâu khi cần nói tự nhiên các em sẽ phát ra được. * Thực hiện: Vào đầu mỗi tiết dạy tôi thường đối thoại với học sinh bằng những câu Tiếng Anh đơn giản để làm “nóng” không khí lớp học, tạo sự hưng phấn trong học tập, ứng xử nhanh nhẹn trong giao tiếp. Ví dụ : T : Good morning, everybody ! How are you today ? Ss : Good morning, Mss. Trang ! We’re fine, thank you. How are you ? T : I’m fine. Thanks. Theo cách dạy truyền thống vào đầu tiết dạy giáo viên thường gọi học sinh kiểm tra bài cũ, nhưng đối với tôi thì không làm như thế. Trước khi là giáo viên tôi cũng là một học sinh như các bạn nhỏ bây giờ nên tôi hiểu rõ tâm trạng các em lúc này. Đối với tôi, tôi sử dụng phương pháp chơi trước khi học để không khí lớp học không nặng nề mà ngược lại là sự thoải mái và sinh động. Khi đưa ra yêu cầu trò chơi giáo viên nên nói bằng Tiếng Anh, không cần câu nói dài chỉ sử dụng một số cụm từ, câu đơn giản nhưng thường xuyên lặp đi lặp lại, như thế học sinh sẽ hiểu. Ví dụ: T : Would you like to play game ? Ss : Yes. T : Play game “ Slap the board” – Ok ! Ss : Ok! T : Four boys and four girls, please ! Now, any volunteers ? Raise your hand ! Sau khi chọn được hai đội tôi sử dụng một số câu ra lệnh đơn giản khác. Ví dụ: T : Are you ready ? Ss : Yes . T : Now, let’s begin “ one, two,three” Giáo viên phải tự rèn luyện, học hỏi trao dồi phương pháp dạy với các bạn đồng nghiệp, trên internet, báo đài, phải tự tin và thường xuyên nói Tiếng Anh trong lớp để học sinh noi theo. Qua thời gian thăm lớp một số giáo viên trong huyện tôi thấy đa số Thầy, Cô còn nói Tiếng Việt nhiều trong giờ học Anh Văn. Chính điều này góp phần làm hạn chế khả năng sử dụng Tiếng Anh của học sinh. Tôi nghĩ giáo viên nên là người đầu tiên phải khắc phục mặt hạn chế trên rồi mới đến học sinh. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 6
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh b/Thái độ giáo viên khi đứng lớp: Phần lớn giáo viên khi đứng lớp thường có thái độ nghiêm khắc trong giảng dạy để học sinh tập trung hơn nhưng theo tôi không nên tạo căng thẳng trong giờ học ngoại ngữ. Bởi vì, những tiết học Toán, Tiếng Việt, học sinh đã tập trung nhiều cho nên đến tiết Anh Văn giáo viên cần tạo không khí lớp học sinh động và vui vẻ. Đây là cách cuốn hút học sinh vào tiết dạy của mình để các em thấy rằng Tiếng Anh không khó học và khô khan như mình nghĩ. * Thực hiện: Giáo viên cần vui vẻ hoà nhập vào thế giới trẻ thơ của học sinh, chính thái độ của người hướng dẫn sẽ giúp các em tự tin và mạnh dạn tập nói Tiếng Anh trong lớp học mà không sợ thầy cô trách phạt hay bạn bè chế giễu khi bị sai. Khi bước vào lớp điều đầu tiên giáo viên nên làm là mỉm cười với cả lớp tạo sự gần gũi, thân thiện với học trò của mình để bắt đầu một tiết học mới. Giáo viên cần rèn luyện cho mình có tính “khôi hài” và sử dụng nó trong tiết dạy để cuốn hút học sinh. Người thầy được ví như một nghệ sĩ nếu diễn tốt sẽ được khán giả mến mộ và đón nhận một cách nồng nhiệt. Làm được điều này bước đầu chúng ta đã thành công. Sau đây là một ví dụ minh hoạ. Ví dụ: Tôi cho học sinh chơi trò “Bean bag circle” và sử dụng mẫu câu “This is a ( an ) + màu sắc + tên vật” để áp dụng vào trò chơi. Học sinh nghe nhạc và chuyền bóng, khi tiếng nhạc ngưng quả bóng trong tay ai người đó tự đặt một câu theo mẫu đưa ra. Nếu một học sinh yếu nhận được quả bóng có thể sẽ không nói được hoặc “ấm a ấm úng”. Lúc này tôi động viên các em “Chúc mừng em, em có cố gắng nhưng chưa thành công” hay là “Chúc em may mắn lần sau”. Một số bộ phận giáo viên chuyển từ trung học cơ sở xuống dạy tiểu học do chưa hiểu rõ tâm sinh lý lứa tuổi này đôi khi trong tiết dạy còn nghiêm khắc và “lớn tiếng”, khi các em phát biểu sai. Theo tôi việc này không nên vì sẽ làm cho học sinh rụt rè, lúng túng khi phát biểu. Từ đó làm hạn chế tính “phản xạ” trong giao tiếp khi học ngoại ngữ. 2.2 Về học sinh: a/ Rèn luyện cho học sinh phát âm chuẩn từ vựng và ngữ điệu câu: Hiện nay, có quan điểm cho rằng học sinh tiểu học còn nhỏ không cần phát âm chuẩn như người bản xứ nhưng đối với tôi thì ngược lại. Phải tập các em nói đúng và chuẩn ngay từ khi mới học ngoại ngữ. Bởi vì người xưa thường nói “Tre non dễ uốn” và một phần do kinh nghiệm bản thân từ nhiều năm nay dạy học sinh tiểu học nên tôi thấy rõ mặt hạn chế của học trò. Nếu giáo viên lơ là trong việc sửa lỗi phát âm, không hướng dẫn chú ý trọng âm từ, ngữ điệu trong câu thì khi nghe người khác phát âm đúng các em không nhận ra và hiểu được người đối diện nói gì. Mặc khác các em sẽ lúng túng không biết thầy mình dạy đúng hay người này đúng làm cho học sinh e dè, không tự tin trong giao tiếp. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 7
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh * Thực hiện: Chúng ta phải cho học sinh nghe băng thường xuyên với giọng đọc chuẩn của người bản xứ và cho lặp lại nhiều lần, chú ý ngữ điệu cuối câu và nhất là phần kết thúc của từ. Hướng dẫn học sinh tập trung trong khi nghe và khuyến khích các em bắt chước giọng đọc trong băng càng giống càng tốt. Sau bước nghe và lặp lại giáo viên yêu cầu học sinh tự đọc đồng thanh, theo cặp rồi cá nhân. Tuyên dương những học sinh đọc tốt và chỉnh sửa ngay nếu học sinh đọc sai và không chuẩn. Khuyến khích mỗi học sinh có một cuộn băng nghe để tự rèn luyện ở nhà. Nhằm giúp các em nhập tâm và nói tốt một cách tự nhiên. b/ Hướng dẫn học sinh sử dụng cử chỉ, điệu bộ khi đối thoại bằng Tiếng Anh: Các bạn thấy đó người nước ngoài khi nói chuyện với chúng ta thường sử dụng nét mặt, cử chỉ, điệu bộ diễn đạt điều muốn nói để người đối diện dễ hiểu và có cảm giác gần gũi hơn trong giao tiếp. Tại sao chúng ta học ngôn ngữ của họ mà không học cách thể hiện như thế để hoàn thiện hơn trong giao tiếp. Đây là lý do tôi chọn biện pháp này để góp phần tạo sự tự tin khi đàm thoại Tiếng Anh. * Thực hiện: Tôi yêu cầu học sinh trong khi đối thoại thì nói và diễn phải kết hợp với nhau. Nếu hỏi về tên, sức khoẻ, tuổi, của người mình muốn hỏi thì chìa tay về người đối diện và tự chỉ vào mình khi nói câu trả lời. Khi hỏi và miêu tả về đồ vật thì đến chọn hay chạm tay vào đồ vật đó. Chính việc làm này góp phần phát triển tốt kỹ năng giao tiếp, giúp học sinh thuộc từ và mẫu câu nhanh hơn. Ví dụ: Giáo viên yêu cầu học sinh xây dựng một đoạn hội thoại và trình bày lại. Hoa : Hello, Lan. How are you today ? (Hoa đưa tay vẫy và chìa tay về phía Lan) Lan : Hi, Hoa . I’m fine, thank you. (Lan vẫy tay và chỉ vào mình trả lời ) Hoa : How’s the weather ? (Chỉ tay lên trời) Lan : It’s sunny . (Đưa tay lên trời) Hoa : Let’s play. Lan : Ok ! (Cả hai cùng nắm tay và chạy) c/ Khuyến khích học sinh tự làm từ điển cá nhân: Muốn nói tốt Tiếng Anh phải thuộc nhiều từ, đối với học sinh tiểu học việc tìm tòi, tham khảo sách báo, trên internet, ti vi còn hạn chế. Vì vậy tôi yêu cầu học sinh làm quyển từ điển theo hướng dẫn của tôi để học sinh củng cố và nhớ lâu hơn những từ được học hay sưu tầm. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 8
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh *Thực hiện: Vào tuần thứ hai của đầu năm học, tôi yêu cầu mỗi học sinh chuẩn bị một quyển sổ tay bỏ túi để viết lại tất cả các từ đã học. Yêu cầu học sinh sắp xếp và viết theo chủ đề (chủ đề về đồ vật, con vật, màu sắc, thời tiết, .) Tôi hướng dẫn học sinh thực hiện như sau: chia quyển sổ tay thành nhiều chủ đề để các em thuận tiện hơn khi sử dụng. Tiếp theo chia trang vở làm hai phần một bên viết từ Tiếng Anh bên kia viết nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về đồ vật English Vietnamese * *a a ruler ruler 1 cây thước * *a a pen pen 1 cây bút mực aa deskdesk 1 cái bàn học * *an an eraser eraser 1 cục tẩy . Để quyển từ điển thêm phong phú tôi hướng dẫn học sinh tự vẽ hoặc sưu tầm hình ảnh để minh hoạ nghĩa Tiếng Việt. Ví dụ: Chủ đề về tự nhiên English Vietnamese * a tree GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 9
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh * trees * a cloud * clouds GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 10
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh * a flower * flowers Sau khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm tôi thấy tỉ lệ học sinh mạnh dạn, tự tin trong giao tiếp có tăng, số lượng học sinh nói nhỏ, lí nhí, rụt rè trong giao tiếp có giảm. Tuy nhiên ,tôi vẫn chưa hài lòng vì tỉ lệ học sinh nói chưa lưu loát, chưa chú ý nhiều về ngữ điệu còn quá cao. Từ đây tôi tiếp tục nghiên cứu và tìm tòi thêm một số biện pháp khác nhằm cải thiện tỉ lệ học sinh yếu xuống thấp nhất. Tôi đã bổ sung thêm một số biện pháp khác, các bước tiến hành như sau: 2.3 Một số biện pháp khác: a/ Phân hoá đối tượng học sinh và chia nhóm rèn luyện kỹ năng giao tiếp: Một điều thiếu sót khi tôi áp dụng những biện pháp trên là chưa phân hoá đối tượng học sinh, đây là một điều cần thiết. Khi phân định rõ đối tượng thì giáo viên sẽ bao quát lớp tốt hơn, nắm rõ số lượng học sinh nói chưa lưu loát nhiều hay ít của từng lớp. Từ đó sử dụng phương pháp dạy phù hợp để đạt hiệu quả cao. * Thực hiện: Bắt đầu vào năm học 2015-2016 sau ba tuần học tôi có thể phân loại nhóm học sinh nói lưu loát, chưa lưu loát và nhóm nói không to, phát âm sai. Tôi chia lớp thành nhiều nhóm (mỗi nhóm từ bốn đến năm học sinh) để cùng GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 11
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh nhau học tập. Trong nhóm có từ hai đến ba học sinh thuộc dạng nói to rõ,chú ý cách phát âm, những em này được phân công làm nhóm trưởng và nhóm phó để điều hành nhóm hoạt động và có nhiệm vụ giúp đỡ những bạn nói chưa lưu loát, phát âm sai từ. Mỗi nhóm được đặt cho một cái tên như : “ Blue sky”, “Lion”, “Green grass”, “ Tiger”, .để tạo sự mới lạ, hấp dẫn cho học sinh. Nhóm hoạt động vào đầu mỗi buổi học có tiết Anh Văn. Chỉ hoạt động từ 5 phút đến 10 phút để cùng nhau học Tiếng Anh. Lúc đầu các em chỉ có thể nói một vài câu đơn giản như “Hello. What’s your name? How are you? I’m fine, thank you .” Qua những bài học tiếp theo số lượng từ vựng và mẫu câu tăng dần từ đó học sinh nói được nhiều và nội dung phong phú hơn. Ví dụ: Vy : Hello, Nam. Nam : Hi, Vy . What’s the matter ? Vy : I’m tired. Nam : Do you want milk ? Vy : Yes, I do. Nam : Here you are ! Vy : Thank you. Nam : You’re welcome. . Vào cuối mỗi tiết học tôi dành từ ba đến năm phút ở phần mở rộng bài học để kiểm tra từ 1 đến 2 nhóm. Các nhóm sẽ trình bày lại những gì đã thực hành ở đầu giờ học. Nhóm nào thực hành tốt sẽ được thưởng, phần thưởng là những viên kẹo hay vài chiếc bánh để khích lệ tinh thần các em. Đối với học sinh yếu có tiến bộ tôi thưởng cho các em đồ dùng học tập như: viết, thước, vở, còn các nhóm trưởng và nhóm phó của nhóm có bạn yếu tiến bộ cũng được nhận phần quà. Hoạt động nhóm mục đích giúp cho những học sinh yếu khắc phục tính rụt rè, sợ sệt và mặc cảm khi không nói được Tiếng Anh như các bạn. Thầy cô không có nhiều thời gian để gần gũi và giúp đỡ các em, thông qua hoạt động nhóm bạn sẽ là người hỗ trợ có hiệu quả nhất “Học thầy không tày học bạn”. b/ Khuyến khích học sinh tập hát nhiều bài hát Tiếng Anh: Muốn học giỏi Tiếng Anh điều đầu tiên ta phải làm thế nào cho trẻ em yêu thích nó. Âm nhạc chính là cầu nối sẽ giúp các em đến gần môn học này hơn để thấy rằng Tiếng Anh thật thú vị và bổ ích. * Thực hiện: Ngoài những bài hát trong chương trình học tôi còn sưu tầm trên internet, băng, đĩa một số bài phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi để dạy các em. Lứa tuổi học sinh tiểu học rất năng động và thích hát, những bài có tiết tấu vui nhộn càng làm các em thích thú. Thông qua đây học sinh sẽ chăm học Tiếng Anh hơn. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 12
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh Giáo viên cần giải thích ý nghĩa, nội dung bài hát để học sinh hiểu, cảm thụ bài hát. Từ đó các em có hứng thú và hát hay hơn. Học sinh hát tập thể, nhóm và có thể cho các em tự chọn bạn hát chung với mình. Khi dạy bài hát mới tôi lồng ghép vào tiết làm bài tập tại lớp vừa giảm bớt căng thẳng vừa cung cấp thêm nhiều bài hát cho học sinh. 3. Kết quả: Sau khi tôi áp dụng những biện pháp trên vào năm học 2015- 2016 cho khối lớp 3-4-5 . Qua thống kê và so sánh kết quả học tập của học sinh nhận thấy chất lượng được nâng cao so với năm học trước. Hơn nữa học sinh cũng biết sử dụng một số câu Tiếng Anh thông thường để ứng dụng vào các bài đàm thoại và tự tin hơn khi phát biểu trước lớp. Hơn nữa, tôi thấy tiết dạy của mình không còn nhàm chán mỗi khi lên lớp. Không khí lớp học sinh động hơn, học sinh hưng phấn và thích nói Tiếng Anh nhiều hơn và thường yêu cầu tôi mở rộng thêm một số câu Tiếng Anh sử dụng trong giao tiếp. Đây là một bước phát triển tốt . Học sinh không còn lo sợ đến giờ học Tiếng Anh như trước thay vào đó là tâm trạng trông chờ đến tiết học. Sau đây là kết quả theo từng năm học của khối 3,4 và khối 5 tôi phụ trách: ĐÁNH GIÁ MỨC ĐỘ HỌC SINH HOÀN THÀNH PHẦN KỸ NĂNG GIAO TIẾP TỔNG SỐ MÔN TIẾNG ANH KHỐI HS (Cuối học kì I năm học 2015-2016) HOÀN THÀNH CHƯA HOÀN THÀNH SL % SL % 3 77 75 97,4 2 2,6 4 82 81 98,7 1 1,2 5 86 85 98,8 1 1,1 So sánh kết quả năm học chưa áp dụng sáng kiến kinh nghiệm và những năm học có áp dụng sáng kiến kinh nghiệm. Từ kết quả trên cho chúng ta thấy rõ nếu giáo viên có đầu tư tốt vào giảng dạy, biết áp dụng mọi phương pháp phù hợp với năng lực của từng học sinh, phù hợp với tình hình chung của mỗi khối lớp thì chúng ta sẽ gặt hái được chất lượng và hiệu quả cao hơn. Bên cạnh đó tạo được tình cảm tốt “giữa thầy và trò”, “giữa trò và trò”, học sinh cảm thấy yêu thích môn học mà mình phụ trách. Để từ đó các em học tốt hơn, giao tiếp Tiếng Anh tốt hơn và tạo nền tảng cho sự phát triển sau này. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 13
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh PHẦN KẾT LUẬN III. KẾT LUẬN 1. Tóm lược giải pháp: Để kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh của học sinh tiểu học đạt hiệu quả cao giáo viên cần thường xuyên thay đổi hình thức tổ chức lớp học phong phú đa dạng, sử dụng phương pháp dạy phù hợp với từng khối, lớp, đối tượng học sinh. Nhiệm vụ truyền đạt kiến thức không ngoài khả năng của một giáo viên nào cả. Nếu giáo viên có lòng quyết tâm, yêu nghề, mến trẻ, kiên trì, nhẫn nại, uốn nắn các em ở mọi lúc mọi nơi nhất là đối với học sinh yếu kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Bản thân luôn là tấm gương sáng cho học sinh noi theo, có làm tốt nhiệm vụ này là chúng ta đã góp phần nâng cao chất lượng đào tạo trong nhà trường. Bản thân tôi nhận ra rằng giữa thầy và trò không nên có khoảng cách mà chúng ta phải tạo cho các em cảm giác gần gũi để xem người thầy của mình cũng là một người bạn. Từ đó học sinh sẽ tự nhiên để tự tin phát triển tốt khả năng giao tiếp không chỉ đối với môn Tiếng Anh mà cả về phong cách bản thân. 2. Phạm vi áp dụng: Có thể áp dụng cho việc giảng dạy Tiếng Anh từ cấp tiểu học trở lên và cho trẻ em nói chung vì hiện nay việc tiếp cận ngoại ngữ càng sớm càng tốt là xu hướng chung của toàn thế giới. a.Nguyên nhân thành công: Để đạt được những thành quả trên. Bản thân người giáo viên luôn nhận thức được trách nhiệm của mình. Tìm mọi biện pháp để rèn luyện từng đối tượng học sinh, kích thích các em có hứng thú trong việc học ngoại ngữ ngay từ đầu. Làm được việc này chúng ta đã rèn luyện cho các em có thói quen tốt học ngoại ngữ. Trong bất cứ nghề nghiệp hay công việc gì cũng đòi hỏi người làm phải có cái tâm và niềm đam mê. Có được điều này chắc chắn chúng ta sẽ thành công. Bên cạnh được tham gia những lần tập huấn phương pháp dạy do Sở Giáo Dục và Đào Tạo tổ chức, được sự hướng dẫn trực tiếp của một số giáo viên nước ngoài tôi học hỏi được rất nhiều ở họ từ phong thái đứng lớp, đến cách sử dụng một số phương pháp giảng dạy một cách tự nhiên, nhẹ nhàng nhưng đạt hiệu quả cao. Được sự hỗ trợ tích cực từ Ban giám hiệu và giáo viên chủ nhiệm luôn đôn đốc khích lệ tinh thần của học sinh. Bên cạnh đó, cũng còn có phụ huynh học sinh có quan tâm đến việc học của con em mình, vì vậy luôn tạo điều kiện tốt cho các em trong học tập. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 14
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh b. Tồn tại: ➢ Học sinh: Còn một số bộ phận học sinh thiếu tự tin khi nói Tiếng Anh trước lớp. Mỗi tuần chỉ được học bốn tiết không đủ thời gian để học sinh phát triển tốt kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh. Vì là môn học tự chọn nên một số học sinh chưa chú trọng nhiều đến môn Anh Văn. ➢ Giáo viên: Hiện nay một số bộ sách biên soạn cho học sinh cấp tiểu học nội dung khá dài giáo viên truyền tải kiến thức trong một tiết chỉ 40 phút không đủ. Do đó thời gian phát triển kỹ năng nói cho học sinh chưa nhiều. Một số giáo viên dạy ngoại ngữ chưa thực sự sử dụng Tiếng Anh trong lớp học, bản thân chưa nói được lưu loát Tiếng Anh. Vẫn còn giáo viên phát âm từ, và ngữ điệu câu sai. Phần lớn giáo viên dạy Tiếng Anh tiểu học không biết hát nên khi hướng dẫn gặp phải khó khăn và hát chưa đúng giai điệu, tiết tấu nhạc. Giáo viên phải tự lo kinh phí làm đồ dùng dạy học . ➢ Về phía nhà trường và phụ huynh học sinh: Môn Anh Văn là môn học tự chọn chưa đưa vào môn học chính cấp tiểu học nên Ban giám hiệu một số trường còn thiếu sự quan tâm, giúp đỡ cho giáo viên bộ môn Phụ huynh học sinh một số em chưa có nhận thức tốt môn học này do quan niệm “Tiếng Việt nói chưa xong mà học Tiếng Anh”. Vì vậy thiếu sự quan tâm sâu sắc đến con em trong việc học ngoại ngữ. c. Những bài học kinh nghiệm: Giáo viên phải hướng dẫn cho học sinh biết cách nói lưu loát, chú ý nhiều về ngữ điệu khi nói . Phải đầu tư cho bài dạy của mình trước khi lên lớp. Phải có lòng yêu trẻ và nhiệt tình học hỏi trau dồi kinh nghiệm với các bạn đồng nghiệp và qua sách báo. Trong giờ học tại lớp giáo viên truyền đạt kiến thức cho học sinh một cách tự nhiên và sinh động. Bằng cách sử dụng lời nói, cử chỉ kết hợp với đồ dùng dạy học mới lạ, để thu hút sự tập trung của các em. Chính điều này giúp cho học sinh tiếp thu bài nhanh và nhớ lâu. Giáo viên khuyến khích học sinh mạnh dạn phát biểu trong giờ học. Khi học sinh phát âm sai giáo viên nhẹ nhàng sửa lỗi, không cáu gắt, khó chịu, không dồn ép kiến thức khi các em căng thẳng. Giới thiệu, tuyên dương, khen thưởng những học sinh có tiến bộ trong học tập cũng như biết giúp đỡ bạn cùng tiến. Sửa chữa kịp thời những sai sót của học sinh, động viên giúp đỡ những em nói chưa tốt. Bản thân giáo viên phải tự rèn luyện nâng cao tay nghề để truyền đạt kiến thức cho các em ngày càng phong phú hơn. GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 15
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh 3. Kiến nghị: Đây là một vài ý kiến nhỏ của tôi về việc phát triển kỹ năng giao tiếp Tiếng Anh ở ở khối lớp 3-4-5 trường Tiểu Nguyễn Thị Hạnh năm học 2015- 2016 và đạt kết quả chuyển biến rõ rệt . Đó cũng là ý kiến chủ quan của cá nhân tôi nên không tránh khỏi những hạn chế . Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến, trao đổi từ đồng chí, đồng nghiệp và các chuyên viên viên để bản thân tôi ngày một tiến bộ hơn, hoàn thiện hơn và đề tài đạt hiệu quả cao nhất góp phần vào công cuộc giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ, để tiếng Nước Ngoài đến gần với các em, thâm nhập vào cuộc sống và trở thành công cụ giao tiếp hữu hiệu và đắc lực . Qua đó, tích lũy được thêm nhiều kinh nghiệm giảng dạy và nghệ thuật dạy học đạt kết quả cao nhất đáp ứng được yêu cầu giáo dục trong giai đoạn hiện nay . Đó phải chăng là chúng ta đã thực hiện được cái gọi là “ Giáo dục kỹ thuật tổng hợp, đào tạo nhưng con người toàn diện, có ích cho xã hội”. Xin chân thành cảm ơn sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học và tất cả quý thầy cô. Chúc sức khoẻ và thành công ! NGƯỜI VIẾT Huỳnh Thị Thu Trang GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 16
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. The Grammar in use. 2. Teaching Grammar and Vocabulary. 3. Teaching English. 4. Let’s Learn English Book 1 5 Method of Teaching English Grammar GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 17
- Sáng Kiến Kinh Nghiệm 2015-2016 Trường TH Nguyễn Thị Hạnh MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU I. Lý do chọ đề tài 1 1. Đặt vấn đề 1 2. Mục đích đề tài 2 3. Lịch sử đề tài . 2 4. Phạm vi đề tài. 3 PHẦN NỘI DUNG II. Nội dung 3 1 . Thực trạng đề tài 3-4 2. Nội dung và biện pháp giải quyết 5-13 3. Kết quả. 13 PHẦN KẾT LUẬN III. Kết Luận 14 1. Tóm lược giải pháp 14 2. Phạm vi và đối tượng áp dụng 14-15 3. Kiến nghị, đề xuất . 16 GVTA : Huỳnh Thị Thu Trang 18