Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp

docx 19 trang trangle23 16/08/2023 26544
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_tre_3_4_tuoi_tu.docx

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp

  1. I. THỰC TRẠNG ĐỀ TÀI SKKN Tự tin, mạnh dạn là một trong những yếu tố giúp con người gặt hái được thành công trong cuộc sống. Chính vì thế mà việc giáo dục cho trẻ tính tự tin mạnh dạn ngay từ bậc học mầm non là điều rất quan trọng. Hiện nay chúng ta phải thừa nhận một điều là trẻ con ngày nay đã thông minh hơn, hoạt bát hơn, lém lĩnh hơn. Nhưng khi cháu vào lớp học thì các cháu không dám nói lên những điều trẻ thích, không dám mạnh dạn sinh hoạt trong tập thể, giao tiếp với người lớn theo suy nghĩ của mình. Đầu năm tôi được BGH phân công dạy lớp Mầm với điều kiện lớp tôi thì đa số lần đầu tiên trẻ được đến lớp đến trường nên trẻ thiếu tự tin dẫn đến các hoạt động của trẻ không được sôi nổi. Chính vì vậy tôi đã chọn “Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp” làm đề tài nghiên cứu cho mình tại trường Mẫu Giáo Quê Mỹ Thạnh năm học 2017 – 2018. Trong quá trình thực hiện đề tài này trên lớp, tôi đã gặp những thuận lợi, khó khăn sau: 1. Thuận lợi: Ban giám hiệu luôn tạo điều kiện giúp đỡ giáo viên về chuyên môn. Giáo viên nắm vững phương pháp, có trình độ trên chuẩn. Luôn học hỏi và tìm tòi hiểu biết để giúp trẻ mạnh dạn tự tin thông qua bạn bè, trẻ, đồng nghiệp và sách báo. 2. Khó khăn: Đặc điểm sinh lý trẻ mẫu giáo bé còn chưa ổn định, trẻ chưa phát triển nhiều về ngôn ngữ. Nhiều trẻ còn nhút nhát, rụt rè, cá tính không chịu tham gia vào cuộc chơi đòi hỏi tính tập thể cao. Sự phối kết hợp giữa phụ huynh đối với nhà trường vẫn chưa thường xuyên. Để có cơ sở cho việc nghiên cứu của mình, tôi tiến hành điều tra, khảo sát tình hình của trẻ ở lớp tôi đầu năm. Qua điều tra khảo sát kết quả cho thấy như
  2. sau: ST TỈ LỆ (%) TÍNH TỰ TIN MẠNH DẠN SỐ TRẺ/LỚP T ĐẠT 1 Trẻ dám làm điều mình nghĩ 13/29 44.8 2 Trẻ mạnh dạn giao tiếp với mọi người 15/29 51.7 3 Trẻ biết bày tỏ cảm xúc với người khác 14/29 48.3 Với những kết quả như trên, bản thân tôi nhận thấy cơ bản trẻ chưa có tính mạnh dạn tự tin khi ở trường, số trẻ có tính mạnh dạn tự tin và thì còn ít. II. NỘI DUNG CẦN GIẢI QUYẾT Từ thực trạng của lớp qua nghiên cứu tìm tòi học hỏi cho thấy để dạy tốt cho trẻ tính tự tin mạnh dạn tôi cần: Tham khảo nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để rèn cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin. Tạo môi trường thân thiện giúp trẻ thể hiện mình thông qua trò chơi và các hoạt động lễ hội giúp trẻ thể hiện mình với cô và các bạn trong lớp. Kết hợp với phụ huynh rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ. Quan tâm tới từng cá nhân trẻ, đặc biệt là trẻ nhút nhát thụ động. Nêu gương bé ngoan trong ngày, trong tuần. III. BIỆN PHÁP GIẢI QUYẾT 1. Tham khảo nghiên cứu và tích lũy kinh nghiệm nâng cao nghiệp vụ chuyên môn để rèn cho trẻ tính mạnh dạn, tự tin. Để thực hiện tốt việc rèn luyện cho trẻ tính tự tin mạnh dạn tại lớp mình việc đầu tiên khi thực hiện đề tài tôi cần dựa trên tình hình thực tế của nhóm lớp khả năng nhận thức cùng đặc điểm tâm sinh lí của trẻ trong lớp để thực hiện xây dựng kế hoạch cho mình.
  3. Ngay từ đầu năm học, tôi đã tập trung sưu tầm và tham khảo nhiều tài liệu Giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non, dành nhiều thời gian đọc các tài liệu về tâm lý học trẻ em, đặc biệt là tâm lý lứa tuổi trẻ mẫu giáo bé và tìm hiểu các nguồn tư liệu trên các kênh giáo dục khác, trên mạng enternet. Đây là một trong những biện pháp quan trọng trong việc rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ. Để thực hiện chương trình giáo dục có hiệu quả thì đòi hỏi giáo viên phải trang bị cho mình hệ thống kiến thức phong phú chính xác và trải nghiệm các kỹ năng giáo dục thực tế. Thông qua việc tự học tự bồi dưỡng tôi hiểu rằng để dạy trẻ tính mạnh dạn tự tin cô giáo phải luôn luôn lắng nghe và thấu hiểu trẻ bằng cách: Tôn trọng trẻ, giúp trẻ nhận thức được bản thân. Tăng cường sự tự tin cho trẻ bằng những lời cổ vũ. Tìm hiểu khuyến khích trẻ thể hiện bản thân. Hướng dẫn trẻ cách tự giải quyết vấn đề, không được làm thay trẻ hay bao bọc trẻ khiến trẻ ỷ lại và không thể tự lập. Luyện tập sự tự tin cho trẻ mọi lúc mọi nơi. Cho trẻ tiếp cận với những hoạt động mà bé yêu thích. Từ việc thực hiện những biện pháp này, ban đầu trẻ nhút nhát, không chịu tiếp xúc, giao lưu, chơi cùng bạn, thậm chí có trẻ khi cô đến bên để vỗ về, hỏi chuyện mà còn không chịu nói chỉ sau vài tuần học đầu tiên tôi đã thấy có những hiệu quả rõ rệt: Trẻ đã mạnh dạn hơn, tự nhiên hơn và tích cực tham gia vào các hoạt động hơn. Sau một tháng áp dụng các biện pháp gây hứng thú cho trẻ mà tôi tham khảo được cộng với việc tự học tự bồi dưỡng bản thân tôi đã có thêm nhiều kinh nghiệm, thêm kiến thức và tự tin hơn trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. 2. Tạo môi trường thân thiện giúp trẻ thể hiện mình thông qua trò chơi và các hoạt động lễ hội giúp trẻ thể hiện mình với cô và các bạn trong lớp. 2.1 Thông qua trò chơi tập thể
  4. Với trẻ mầm non mạnh dạn tự tin giao tiếp tốt trong tập thể giúp trẻ thích nghi dễ dàng, nhanh chóng với môi trường mới, thầy cô, bạn bè mới và những đòi hỏi mới của hoạt động học tập, ý thức và tinh thần tập thể sẽ giúp tránh được những xung đột không đáng có giữa trẻ với nhau, giữa trẻ với thầy cô, làm nảy sinh ở trẻ tính mạnh dạn tự tin chủ động trong giao tiếp với người khác và trên cơ sở đó phát triển những mối quan hệ thân thiện, gần gũi, cảm thông giữa trẻ với những người xung quanh. Tất cả những điều này tác động một cách tích cực lên trẻ, làm cho trẻ cảm thấy hứng thú muốn đến trường, muốn giao tiếp với cô, bạn bè và muốn họ. VD: Trò chơi: Bạn hãy làm giống tôi Tổ chức: Cô và trẻ ngồi thành vòng tròn. Trước tiên cô giáo nói tên của mình (chào các bạn tôi tên là Nhung) sau đó ném bóng cho một trẻ bất kỳ. Trẻ nhận được bóng từ cô giáo sẽ nói tên mình. Cứ như vậy cho đến khi tất cả các trẻ nhớ tên nhau. Trẻ mạnh dạn đứng lên giới thiệu tên của mình.
  5. Hình ảnh bé Tài đang giới thiệu tên 2.2 Hoạt đông vui chơi: Chúng ta còn có thể giúp trẻ hứng thú tham gia vào hoạt động vui chơi, góp phần hình thành và nâng cao mối quan hệ thân thiện, tự tin giữa giáo viên với trẻ và giữa trẻ với trẻ. Hình ảnh các bé chơi góc nấu ăn 2.3 Thông qua hoạt động lễ hội Thông qua các hoạt động lễ hội, văn nghệ vui chơi được tổ chức theo hàng tháng xuyên suốt cả năm học góp phần cho trẻ lĩnh hội các ngày lễ lớn giúp trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong mọi hoạt động góp phần cho trẻ phát triển toàn diện. Việc tổ chức hiệu quả các ngày hội ngày lễ cho trẻ là một hình thức giáo dục hiệu quả và sinh động nhất, giúp trẻ được trải nghiệm các cảm xúc tích cực. Thông qua đó, trẻ được học và mạnh dạn tự tin giao tiếp với cô giáo, bạn bè và cha mẹ. Ví dụ: Ngày 20/10 – Ngày phụ nữ Việt Nam Trước ngày tổ chức lễ hội tôi cùng trẻ trò chuyện về ý nghĩa ngày hội, đưa ra ý định, hình thức tổ chức và thăm dò ý kiến của trẻ về món quà tặng bà và mẹ. Sau đó dạy trẻ làm bưu thiếp chúc mừng, giúp trẻ ghi lại cảm xúc, lời chúc
  6. của trẻ dành cho bà và mẹ. Cùng trẻ trang trí bưu thiếp để chúc bà và mẹ với lời đề từ ấn tượng: “Con chúc mẹ của con luôn xinh đẹp và trẻ mãi” hay “Con chúc bà mạnh khỏe”. Các bé được tập luyện những bài hát, bài thơ hay về bà và mẹ thể hiện niềm vui niềm tự hào trên những khuôn mặt ngây thơ. Dường như các bé cũng hiểu mình đang làm một việc tốt, ý nghĩa dành tặng cho những người thân yêu. 3. Kết hợp với phụ huynh rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ Để góp phần nâng cao tính mạnh dạn cho trẻ nhỏ giáo viên càn biết phối hợp chặt chẽ với phụ huynh nhằm tạo điều kiện cho trẻ có được môi trường họa tập tốt giúp trẻ hình thành và phát triển một cách toàn diện. Để lôi cuốn phụ huynh cùng tham gia với giáo viên trong lớp, giáo viên cần đặc biệt quan tâm chú trọng đến công tác tuyên truyền đến phụ huynh theo phương pháp "mưa dầm thấm lâu", với các thông điệp như: Hãy lắng nghe trẻ nói; Thật thà trung thực khi chơi; Lỡ sai biết lỗi bé thời đáng khen; Trao đồ lễ phép, hai tay đón nhận, điều hay bé làm; Đánh răng súc miệng hàng ngày; Miệng thơm răng trắng đẹp thay nụ cười; Kính trọng yêu quý ông bà; Vâng lời cô giáo thương cha mẹ mình; Bạn khóc bé lại dỗ dành, bạn ngã lại đỡ chẳng đành đứng xem. Có không ít phụ huynh khi gửi con đến trường mầm non yên tâm giao trọng trách giáo dục trẻ cho nhà trường cho cô giáo mà quên rằng vai trò của cha mẹ là vô cùng quan trọng trong việc phối hợp với nhà trường giáo dục con, bởi “Cha mẹ là những người thầy đầu tiên của bé” ngay cả khi giao bé cho những cô giáo mầm non vai trò của cha mẹ cũng không hề mờ nhạt đi. Cha mẹ cần đi cùng với con suốt quãng đường đời mà những năm tháng tuổi thơ sẽ tạo nên một nền tảng vững chắc cho bé khi trưởng thành. Xác định được tầm quan trọng của mối quan hệ giữa phụ huynh và nhà trường ngay từ đầu năm học khi mới đón trẻ vào lớp chúng tôi luôn tiếp xúc phụ huynh với một thái độ tích cực, thân thiện, mạnh dạn trao đổi cụ thể với phụ huynh về chế độ sinh hoạt của trẻ ở trường, nắm bắt kịp thời những thông tin về
  7. đặc điểm tâm lý, tính cách của cá nhân trẻ, trao đổi với phụ huynh về một số sinh hoạt của các con. Bên cạnh đó, giáo viên cũng liên lạc thường xuyên với gia đình trẻ “Qua trao đổi trực tiếp, bảng thông báo, điện thoại” để tìm hiểu sinh hoạt của trẻ ở gia đình, thông tin cho cha mẹ biết tình hình của trẻ ở lớp, những thay đổi của trẻ để kịp thời có biện pháp giáo dục phù hợp. Từ những hoạt động phối hợp như trên, giáo viên nhanh chóng tìm ra biện pháp hình thành ở trẻ những hành vi tốt, những thói quen và những kỹ năng sống chuẩn mực. Đồng thời giúp trẻ giao lưu cùng các bạn trong lớp nhằm tạo nên nhu cầu tự học, tự rèn luyện thói quan đào sâu suy nghĩ về một vấn đề nào đó của trẻ. Dần dần trẻ được hình thành thói quen suy nghĩ một cách chủ động, độc lập sáng tạo và biết chia sẻ những suy nghĩ của mình với người khác trẻ sẽ cảm thấy tự tin hơn và mạnh dạn hơn trong mọi việc, trẻ sẽ thân thiện hơn, gắn bó hơn học tập chia sẻ công việc cùng với bạn bè, cô giáo và gia đình. 4. Quan tâm tới từng cá nhân trẻ, đặc biệt là trẻ nhút nhát thụ động Trẻ nhút nhát mất tự tin có thể gặp nhiều bất lợi trong xã hội năng động hiện nay, bởi các bé sẽ mất nhiều thời gian hơn để cảm thấy thoải mái trong công việc giao lưu tiếp xúc với mọi người. Ngược lại tự tin sẽ giúp một đứa trẻ có thể giao tiếp, sẵn sàng hòa đồng, sẵn sàng học hỏi những điều mới lạ, sẵn sàng thể hiện bản thân và chia sẻ những điều mình biết, mình nghĩ với mọi người xung quanh. Lớp tôi cũng có một số bé sức khỏe yếu hay nghỉ dài như bé: Song Thư, Quỳnh Anh, Hải Lâm, Nhật Huy Vì vậy, mỗi khi đi học đến lớp các bé thường buồn và không tham gia được các hoạt động học tập chung. Để giúp các bé mạnh dạn, thích đi học đến lớp, chúng tôi lôi cuốn bé vào các hoạt động tập thể, khéo léo gợi ý những bé mạnh dạn tự tin như: Bảo Thy, Cát Tường đến kết bạn, tạo cho các bé nhiều cơ hội mạnh dạn tự tin giao tiếp với các bạn, như cùng vẽ tranh, nặn quả, làm đồ chơi dần dần các bé đã quen hơn với môi trường tập thể và thích đi học. Bây giờ bé Hải Lâm, Quỳnh Anh được cô giáo
  8. và các bạn rất yêu quý vì bé rất ngoan, đã mạnh dạn tự tin giao tiếp với bạn bè và còn hát hay, múa dẻo, thích được biểu diễn văn nghệ nữa. Còn đối với những trẻ mạnh dạn, tự tin, có năng khiếu nghệ thuật, tôi luôn tìm cách tạo cơ hội cho trẻ được thể hiện hết mình vào các hoạt động như: tổ chương trình văn nghệ tổng hợp biểu diễn vào cuối mỗi chủ đề. Tìm được cho mình biện pháp rèn cho các bé trong lớp mạnh dạn tự tin hơn trong các tiết học cũng như trong các hoạt động khi đến trường. Tôi luôn tạo nhiều cơ hội cho các em được nói được làm và được chia sẻ mọi lúc mọi nơi khi đến trường. 5. Nêu gương bé ngoan trong ngày, trong tuần Để tạo hứng thú cho trẻ thì nên khen trẻ hơn là chê bằng cách nêu gương trẻ trước lớp. Vì nếu cô giáo chê việc gì trẻ làm thì tự nhiên trẻ sẽ không còn tự tin để làm công việc đó nữa. Giúp trẻ nhút nhát thụ động, mạnh dạn hơn với mọi hoạt động trong ngày. Bản thân trẻ rất thích được khen và quan tâm tới: “Bảng bé ngoan”, “Cờ bé ngoan” khi trẻ được lên cắm cờ trẻ sẽ rất phấn khởi, tự hào với các bạn bè, mong chờ được khoe với cha mẹ vào mỗi buổi chiều, báo cáo lại kết quả vì sao mình được lên cắm cờ cho cha mẹ biết. Từ đó tôi đã dần tạo cho trẻ tính mạnh dạn tự tin trong giao tiếp với bạn bè, biết giúp đỡ cô, biết làm việc tốt với bản thân và người khác để được công nhận. Tôi sẽ đưa ra các tiêu chí được lên cắm cờ: Chăm giơ tay phát biểu, biết giúp đỡ cô và bạn bè, ăn hết suất, ngủ ngoan, mạnh dạn tự tin mọi hoạt động trong lớp học biết tự phục vụ bản thân Và tùy thuộc vào đối tượng mà tiêu chí đó có được cô và các bạn công nhận hay không. Tuy nhiên khi khen trẻ thì nên khen là tốt, con đã cố gắng, con giỏi và thể hiện sự hài lòng, vui mừng của mình hơn là việc đánh giá việc trẻ làm là đẹp hay xấu. Nghĩa là chú ý đến quá trình trẻ cố gắng hơn là kết quả mà trẻ đã làm được tốt hay xấu. Ví dụ: Đối với Gia Hân một bé nhút nhát thì tiêu chí đánh giá là chăm giơ tay phát biểu trong mọi hoạt động, giao tiếp với cô và bạn bè mạnh dạn cởi mở. Hay đối với bé Phúc là nói nhỏ, ít giơ tay phát biểu thì tiêu chí cho bé là sẽ
  9. nói to hơn, chăm phát biểu hơn phải khắc phục được nhược điểm mới được cắm cờ và được cô khen. Với cách này trẻ sẽ luôn vui vẻ, tự nguyện phấn đấu để cuối ngày được lên cắm cờ từ đó luôn diễn ra sự cạnh tranh rất lành mạnh giữa các trẻ. Kết quả giúp trẻ có nhu cầu hoàn thiện bản thân cao, trẻ sẽ mạnh dạn tự tin hơn trong các hoạt động trong ngày dần dần thói quen tốt nảy sinh trở thành một nhu cầu, một kỹ năng sống tốt của trẻ. IV KẾT QUẢ Qua quá trình thực hiện với những biện pháp và cách làm trên đã đạt được kết quả như sau: * Đối với trẻ: Kết quả có 96.6% trẻ dám làm điều mình suy nghĩ và mạnh dạn tham gia vào các hoạt động ở lớp. Trẻ mạnh dạn tự tin hơn trong giao tiếp với mọi người, chơi hòa đồng, nhường nhịn các bạn trong nhóm chơi. Có 100 % trẻ nhanh nhạy trong các tình huống, mạnh dạn bắt chuyện và giao tiếp với mọi người với các bạn trong lớp. Và 96.6% trẻ biết cách bày tỏ cảm xúc của mình với mọi người. Cảm thấy mình tự tin hơn khi giao tiếp với mọi người xung quanh. Qua đánh giá trẻ kết quả cho thấy: Đầu năm Cuối năm Tính mạnh dạn Tỉ Tỉ STT Số trẻ Số trẻ tự tin lệ lệ Đạt Đạt (%) (%) 1 Trẻ dám làm điều mình nghĩ 13/29 44.8 28/29 96.6 2 Trẻ mạnh dạn giao tiếp với mọi người 15/29 51.7 29/29 100 3 Trẻ biết bày tỏ cảm xúc với người khác 14/29 48.3 28/29 96.6
  10. Từ những thực tế áp dụng các biện pháp đã thực hiện thường xuyên trên trẻ với kết quả đã đạt được. Tôi thấy giờ đây các bé đều rất vui vẻ tự tin khi đến lớp, thân thiết nhau hơn, không những thế các bé còn mạnh dạn giao lưu với cô giáo và bạn bè, người thân. Và giờ đây với các bé “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui” là điều thật sự. * Đối với giáo viên: Giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn trong việc tổ chức các hoạt động cho trẻ. Đồng thời tạo được sự thân thiện, gần gũi với trẻ vừa là người hướng dẫn vừa là bạn chơi của trẻ. Hiểu được tâm lý của trẻ, tạo được cảm giác gần gũi, an toàn, cởi mở, thân thiện với trẻ và và lòng tin yêu của phụ huynh. Nắm chắc kỹ năng sư phạm trong việc rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ. Được nhà trường, đồng nghiệp đánh giá cao trong công tác rèn tính mạnh dạn tự tin cho trẻ. * Đối với phụ huynh: Phụ huynh rất phấn khởi và quan tâm hơn khi thấy con mình tự tin mạnh dạn trong mọi hoạt động ở trường cũng như ở nhà. Đồng thời cảm thấy an tâm hơn khi đưa trẻ đến với lớp với trường trong vòng tay bạn bè, cô giáo. V. KẾT LUẬN 1. Tóm lượt giải pháp: Là một giáo viên mầm non tôi cần nhận thức sâu sắc tầm quan trọng và vai trò trách nhiệm với cái tên người mẹ thứ hai của trẻ, thật sự yêu mến trẻ, nhiệt tình và say mê với công việc, có tấm lòng yêu thương trẻ thực sự. Tôi đã không ngừng học hỏi, tích lũy kinh nghiệm, rèn luyện bản thân trở thành tấm gương cho trẻ noi theo học tập. Luôn tạo môi trường lớp học thân thiện, có nhiều cơ hội cho trẻ vui chơi, sinh hoạt và học tập cùng nhau, để trẻ trải nghiệm kỹ năng mạnh dạn tự tin. Quan tâm, chú ý tới từng cá nhân trẻ, đặc biệt là trẻ nhút nhát, thụ động.
  11. Phối hợp tốt với phụ huynh, tạo mối quan hệ gắn bó thân thiết giữa phụ huynh và nhà trường. Qua một năm học, tôi kiên trì thực hiện một số hình thức rèn luyện tính mạnh dạn tự tin cho trẻ, đến nay trẻ đã thực sự yêu mến cô giáo, các bạn và thích đi học, tích cực mọi hoạt động, trẻ có tác phong mạnh dạn và tự tin hơn. 2. Phạm vi đối tượng áp dụng: Thực hiện chương trình giáo dục mầm non là tổ chức các hoạt động cho trẻ cần mới lạ, hấp dẫn, lôi cuốn trẻ, phát huy tính chủ động tích cực sáng tạo của trẻ. Khi thực hiện đề tài “Một số biện pháp giúp trẻ 3 - 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp” ngay tại lớp mình qua một năm học đã thu được kết quả thực tế từ phía trẻ và ngay cả về phía giáo viên. Đang được áp dụng và chia sẻ với giáo viên trong trường, huyện và một số huyện lân cận trong năm học. Với đề tài này, giáo viên có thể áp dụng cho tất cả các đối tượng trẻ trong các trường mẫu giáo trường mầm non. Tuy nhiên tùy từng nội dung, yêu cầu hoạt động và đối tượng trẻ mà giáo viên có thể áp dụng thực hiện đề tài này một cách linh hoạt. 3. Kiến nghị với các cấp về điều kiện thực hiện: Không Quê Mỹ Thạnh, ngày .tháng .năm 2018 Người viết Châu Thị Hồng Nhung
  12. HƯỚNG DẪN SỬ DỤNG I. QUI ĐỊNH VỀ HÌNH THỨC: - Viết trên mặt khổ giấy 21 x 33, đánh máy hoặc viết tay. Nếu thiếu giấy trong mẫu thì gắn thêm giấy vào cần viết thêm. - Phải ghi đầy đủ tên đề tài, họ tên, tháng năm hoàn thành vào chỗ quy định. II. TRÌNH TỰ CỦA BÀI VIẾT: 1. Theo trình tự gợi ý, có thể thêm các phần khác nhau nhưng không được thiếu các phần như trong trình tự đã nêu. 2. Lưu ý ở các mục như sau: Mục I: Thực trạng đề tài Mục II: (1) Miêu tả, thống kê số liệu của thực tế trước khi áp dụng kinh nghiệm, SKKN. (2) Từ thực tế rút ra điều gì phải làm (3) Miêu tả tiến trình thực hiện, các giải pháp, kinh nghiệm, SKKN (Nêu rõ các phương pháp thực hiện đề tài). (4) Đánh giá kết quả đạt được: Thống kê số liệu cụ thể (nếu có). Có mặt diễn đạt của đối tượng. Mục III: (1) Tóm lược giải pháp, đút rút kinh nghiệm đã nêu (rõ ràng, dễ hiểu, ) Có thể nêu lên về mặt lý luận. (2) Giá trị của kinh nghiệm, SKKN áp dụng ở đâu? Đối tượng nào? (3) Nêu những kiến nghị là những yêu cầu tối thiểu để hổ trợ cho việc thực hiện kinh nghiệm, SKKN đã nêu. III. GỢI Ý CÁCH CHỌN ĐỀ TÀI: 1. Loại đề tài mang tính chất chung: Giáo dục đạo đức cho học sinh. Giáo dục học sinh cá biệt. Rèn luyện học sinh yếu; Bồi dưỡng học sinh giỏi, Quản lý lao động cán bộ, giáo viên, công nhân viên trong trường học, tổ chức một lớp học, tổ chức nhóm học, học tổ, thực hiện đổi mới phương pháp dạy học có hệu quả, quản lý việc dạy học đủ 9 môn học bắt buộc ở tiểu học có hiệu quả.
  13. 2. Loại đề tài mang tính chất phục vụ cho bộ môn. Nâng cao chất lượng học vần lớp 1, rèn luyện kỹ năng qua tiết luyện toán lớp 5, gúp nhớ lâu công thức toán 6,7 kinh nghiệm hướng dẫn thành công môn thực hành sinh vật lớp 8, rèn chữ viết cho học sinh, làm thế nào để dạy tốt môn CSSK, nâng cao chất lượng môn âm nhạc, rèn luyện kỹ năng tạo hình. 3. Loại đề tài sáng tạo đồ dùng dạy học ngành học, cấp học 4. Loại đề tài áp dụng SKKN của tác giả khác phải nêu lại SKKN đã có, sau đó trình bày quá trình thực hiện, phương pháp, giải pháp của cá nhân sau khi áp dụng SKKN đã có, kết quả đạt được. 5. Loại đề tài áp dụng SKKN của tác giả nào phải ghi rõ: Vận dụng SKKN của tác giả nào? Áp dụng vào đối tượng nào? 6. Đối với cá nhân nếu có vấn đề tâm đắc, kiên trì áp dụng thì cũng được quyền viết lại. Trong đó: - Có nêu giải pháp áp dụng trước đây (kinh nghiệm SKKN cũ). - Hiện tại điều chỉnh, bổ sung phần nào, giải pháp nào? 7. Những SKKN của tập thể phải ghi rõ: Đồng tác giả và phải có phân công cụ thể, kế hoạch thực hiện của tác giả. Đối với loại SKKN này, nội dung đề tài phải nhằm giải quyết những vấn đề lớn trong phạm vi rộng: trường, huyện, tỉnh và phải được Hội đồng khoa học cấp ngành tỉnh duyệt đồng ý mới được phép thực hiện. IV. TỔ CHỨC XEM XÉT, ĐÁNH GIÁ KINH NGHIỆM, SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM: (1) SKKN được xem xét, đánh giá từ hội đồng giáo dục của trường, Phòng GD& ĐT, Sở GD&ĐT (có biên bản chung và lời nhận xét đánh giá trên từng sáng kiến kinh nghiệm ở trang 2). (2) Dựa vào hình thức và nội dung bài viết, các bài viết (kinh nghiệm, SKKN) được đánh giá xếp loại như sau: * LOẠI A: + Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định. + Nội dung: Là những sáng kiến giải quyết những vấn đề đường lối, quan điểm
  14. giáo dục, đảm bảo tính khoa học, có những biện pháp cụ thể, thiết thực, sát đúng, có hiệu quả rõ rệt, có thể phổ biến cho ngành áp dụng rộng rãi trong tỉnh và có thể từ đó rút ra được một số vấn đề về lý luận giáo dục. * LOẠI B: + Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định. + Nội dung: Là những sáng kiến chưa đạt loại A nhưng cao hơn loại C. * LOẠI C: + Hình thức: Đảm bảo theo đúng mẫu qui định. + Nội dung: Là những sáng kiến bình thường giải quyết giải quyết được một số vấn đề cần thiết với những biện pháp cụ thể, đạt kết quả vừa phải, có thể phổ biến trong phạm vi trường học hoặc huyện, không phổ biến được trong tỉnh. * KHÔNG XẾP LOẠI: - Những sáng kiến không đạt yêu cầu: + Sai quan điểm, đường lối, phương pháp giáo dục. + Sáng kiến kinh nghiệm không có hiệu quả. + Sáng kiến kinh nghiệm không có tính khả thi. + Loại bài viết không phải là sáng kiến kinh nghiệm. + Loại bài viết sao chép từ tài liệu đã có.
  15. Skkn: Một số biện pháp giúp trẻ 3 – 4 tuổi tự tin mạnh dạn trong giao tiếp 19