Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi

pdf 10 trang binhlieuqn2 07/03/2022 7634
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_ren_ne_nep_thoi_quen.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi

  1. 2.1. Thực trạng của việc rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi ở trường mầm non. * Tình hình chung: Qua thực tế hướng dẫn trẻ 4 - 5 tuổi ở lớp tôi phụ trách để rèn nề nếp, thói quen cho trẻ khi chưa áp dụng các biện pháp nghiên cứu tôi đã nắm được một số thông tin như sau: Do điều kiện 100% trẻ sống ở vùng nông thôn, xa trường, mùa mưa đường sá đi lại khó khăn, một số trẻ ít được đi đây đi đó, ít được giao tiếp với nhiều người, hơn nữa bố mẹ trẻ cũng chưa có kinh nghiệm trong việc dạy trẻ các kỹ năng nề nếp, thói quen lễ giáo, nề nếp học tập và các thói quen vệ sinh nên khi đến lớp trẻ còn rụt rè, chưa có thói quen trong mọi hoạt động. Hơn nữa năm học bị dán đoạn vì dịch bệnh covid 19 nên trẻ quên những kỹ năng nề nếp, thói quen của một số hoạt đông như: Vệ sinh rữa tay, lau mặt Nhằm tìm ra một số biện pháp, hình thức để rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ một cách nhẹ nhàng, trẻ được hoạt động thoải mái, tự nhiên. Chứ không gò bó, áp đặt rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ đạt được kết quả một cách tốt nhất. Ưu điểm: Một số trẻ đã hình hành được thói quen nề nếp như : Trẻ ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, bố mẹ quan tâm đến việc học hành của trẻ. Có một số trẻ tương đối mạnh dạn khi tiếp xúc với cô giáo và các bạn. Ban đầu trẻ đã biết chào hỏi người lớn, đến lớp chào cô giáo, chào bạn và các cô các bác trong trường, trẻ đã biết đi vệ sinh đúng nơi quy định và biết vứt, bỏ rác vào thùng rác. Nguyên nhân: Đối với những trẻ này ở nhà được bố mẹ rèn luyện và hình hành cho trẻ một số kỹ năng ban đầu nên khi đến lớp trẻ mạnh dạn trong các hoạt động, tự tin trong giao tiếp như bạn: Thùy Dương, Dương Anh Một số trẻ là con đầu lòng, bố mẹ có điều kiện để chăm sóc giáo dục trẻ về mọi mặt nên trẻ đã hình thành được một số kỹ năng trong giao tiếp và các hoạt động khác. Nhược điểm: Vào đầu năm học đa số trẻ đến lớp còn hay khóc, chưa có thói quen chào cô giáo, chào người lớn và chào bạn bè. Trẻ chưa có các kỹ năng trong giao tiếp, ví dụ như: trẻ chưa mạnh dạn, còn khép nép sợ sệt khi gặp người lạ, gặp cô giáo, khi nói chuyện với các bạn còn chưa biết cách xưng hô “bạn-mình” hoặc không thích chơi với bạn mà chỉ ngồi một chổ và chơi một mình như bạn Nhân, Kiệt Bên cạnh đó trẻ còn chưa có thói quen trong các hoạt động khác như: ngồi học ngay ngắn nghiêm túc mà trẻ còn tự do đi lại trong lớp, ra vào lớp chưa biết xin phép cô giáo, còn hay nói ngang trong giờ học như bạn: Diệu Châu Khi tham gia các hoạt động khác như: hoạt động ngoài trời thì trẻ còn hay chạy nhảy lung tung, hay trêu chọc các bạn và chưa tập trung chú ý vào hoạt động như bạn: Gia Hưng, Khánh Ngoài ra, trẻ còn chưa biết tự đi vệ sinh mà còn hay đi tiểu trong quần sau đó mới nói với cô giáo. Trẻ chưa có các thói quen thực hiện các thao tác rửa tay, lau mặt đúng quy trình mà chỉ rửa tay và lau mặt qua loa cho xong việc, khi ăn quà bánh xong là vứt rác lung tung không bỏ vào thùng rác. Phần lớn do điều kiện kinh tế nên bố mẹ đi làm ăn xa, trẻ sống với ông bà và một số trẻ khác thì sống trong gia đình đông con nên việc giáo dục trẻ còn gặp nhiều khó khăn và hạn chế.
  2. Trẻ 4-5 tuổi là độ tuổi khởi điểm của sự hình thành và phát triển nhân cách trẻ, các mặt phát triển của trẻ hòa quyện vào nhau, ảnh hưởng lẫn nhau, không tách bạch rõ nét. Trẻ hoàn toàn non nớt và nhạy cảm với tác động bên ngoài, đồng thời cũng là lúc trẻ phát triển rất nhanh về mọi mặt. Trẻ rất dễ bị tổn thương về tâm lý. Bởi vậy, ngay từ những ngày đầu tiên trong năm học 2019-2020 này, khi đón trẻ từ độ tuổi lớp bé lên và những trẻ lần đầu tiên đến trường thì tổng số trẻ lớp tôi là 35 trẻ. Trong đó chỉ có 6/35 trẻ là có nề nếp tương đối khá đạt 17%, còn lại 29/35 trẻ còn rất bỡ ngỡ và rụt rè, trẻ thường có thái độ sợ hãi, mọi thứ đều lạ lẫm, tránh né bạn, không chấp nhận sự giúp đỡ của cô giáo, thậm chí còn la khóc, không muốn tham gia vào mọi hoạt động và có thể trẻ dường như không hòa nhập, hòa đồng vào tập thể, chiếm tỷ lệ 82,8 % Đa số trẻ còn nhút nhát, sợ sệt, chưa có tính mạnh dạn trong giao tiếp. Khi đến trường trẻ còn hay khóc và chưa có các thói quen trong các hoạt động. Trẻ ở độ tuổi này vẫn còn được ông bà, bố mẹ nâng niu chiều chuộng, phần lớn trẻ chưa phải thực hiện các thao tác tự phục vụ cũng như mọi người thường rất dễ bỏ qua những khuyết điểm của trẻ vì nghĩ rằng “trẻ còn nhỏ chưa biết gì”. Vì vậy, đây chính là khó khăn trong việc rèn nề nếp thói quen trong mọi hoạt động cho trẻ. Bên cạnh đó lứa tuổi mẩu giáo 4-5 tuổi khả năng ghi nhớ có chủ định của nhiều trẻ còn hạn chế, trẻ “chóng nhớ mau quên”. Nên việc dạy trẻ các kỹ năng, nề nếp thói quen phải được tiến hành thường xuyên, mọi lúc mọi nơi, đòi hỏi sự kiên trì của người lớn và thời gian trẻ ở trường tham gia các hoạt động với cô giáo còn nhiều hơn ở với gia đình. Bởi vì thế muốn rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì ngay từ những ngày đầu tiên trẻ mới vào lớp cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được niềm hạnh phúc, thấy mình được chấp nhận, được an toàn, được yêu mến và cảm thấy mình là thành viên trong cộng đồng mà trẻ đang hòa nhập. Quan hệ giữa cô với trẻ giàu cảm xúc thân thiết, yêu thương như quan hệ mẹ con và hoạt động lao động sư phạm của cô giáo Mầm non đòi hỏi phải rất linh hoạt, nhạy bén, kịp thời, phải có sự sáng tạo để phát hiện và đáp ứng những nhu cầu phát triển của trẻ. Chính vì vậy, nên tôi mạnh dạn chia sẻ về một số biện pháp đưa trẻ vào nề nếp, thói quen mà tôi đã thực hiện trong năm học 2019-2020 này. 2.2.Các biện pháp: 2.2.1. Biện pháp 1: Dạy trẻ có thói quen chào hỏi người lớn: Mục đích: Nhằm giúp trẻ có thói quen chào hỏi khi gặp người lớn, trẻ biết chào hỏi đúng lúc đúng nơi và chào đúng thứ tự theo cấp bậc từ trên xuống Yêu cầu: Trẻ biết tự giác chào hỏi và lễ phép với người lớn ở mọi lúc mọi nơi, mạnh dạn tự tin khi giao tiếp, vui chơi cùng với các bạn. Quy trình thực hiện: Vào đầu năm học hơn 90% trẻ lớp tôi còn bỡ ngỡ, rụt rè và chưa có thói quen chào hỏi người lớn, chào cô giáo và những người xung quanh hoặc bố mẹ, cô giáo có nhắc nhở thì trẻ chỉ chào ào ào cho qua chuyện sau đó lại quên mất. Đa số trẻ còn nhút nhát, chưa mạnh dạn tự tin khi giao tiếp, vui chơi cùng các bạn.
  3. Ví dụ như: Cháu Thế Nhân, Gia Bảo, Diệu Châu khi mới vào học bố mẹ đưa cháu đến lớp là cháu khóc đòi về với bố mẹ chứ không chịu vào lớp với cô giáo và các bạn. Nhận thấy sự cần thiết của vấn đề nên tôi đã áp dụng biện pháp dạy trẻ mà không mang tính gò bó, áp đặt để trẻ tiếp thu một cách tự nhiên thoải mái như: hằng ngày vào những lúc đón trẻ, trả trẻ tôi luôn ân cần niềm nở, gần gủi với trẻ và trò chuyện với trẻ về tình cảm của trẻ đối với gia đình, ông bà, bố mẹ và tình cảm của trẻ đối với cô giáo, với bạn bè nhằm tạo cho trẻ có cảm giác thoải mái tự tin khi gặp gỡ tiếp xúc với các bạn trong lớp. Ngoài ra tôi thường hay hát cho trẻ nghe và dạy trẻ hát những bài bài hát có nội dung về tình cảm gia đình, về tình làng xóm và sự yêu thương kính trọng mọi người nhằm giúp trẻ hiểu rõ hơn về nét đẹp của con người Việt Nam thông qua các hành vi: ứng xử có văn hóa, nói năng nhẹ nhàng, chào hỏi lễ phép và tôi cũng thường đọc cho trẻ nghe những bài thơ, kể những câu chuyện có nhiều mẩu đối thoại, có lời chào hỏi rõ ràng trong các trường hợp cụ thể. Bên cạnh những việc làm đó thì cô giáo luôn luôn là tấm gương sáng về việc chào hỏi đối với tất cả mọi người khi gặp gỡ, tiếp xúc và trò chuyện. Không chỉ có cô giáo làm tốt việc này mà tôi còn thường xuyên trao đổi với phụ huynh để có sự phối kết hợp giữa giáo viên và gia đình. Ngày ngày tôi kiên trì dạy dỗ trẻ kết hợp với lời động viên khen ngợi kịp thời để trẻ mạnh dạn và phát huy tốt hơn khả năng của mình. Chính những điều đó đã dần tạo cho trẻ có một thói quen tốt. Với những việc làm và biện pháp trên thì đến gần cuối học kỳ 1, lớp Nhỡ 1 do tôi phụ trách đã có 70 – 80 % trẻ có thói quen tự giác chào hỏi lễ phép khi gặp người lớn và trẻ chơi đoàn kết với nhau rất vui vẻ. Sang đầu học kỳ 2 đến nay nề nếp chào hỏi của trẻ đã có nhiều chuyển biến đáng kể và đạt kết quả khá cao 90 - 97 %. Các cháu như: Thế Nhân, Gia Bảo, Diệu châu khi được mẹ đưa tới lớp thì cháu đã biết khoanh tay chào mẹ, chào cô giáo, chào các bạn và mạnh dạn đi vào lớp cùng vui đùa tươi cười với các bạn. Điều kiện thực hiện: Hàng ngày vào những lúc đón trẻ, trả trẻ tôi thường gần gủi trò chuyện với trẻ và trao đổi với phụ huynh những kinh nghiệm hay, những biện pháp tốt nhằm để có sự phối kết hợp sự giáo dục giữa gia đình và cô giáo cùng chăm sóc, nuôi dạy trẻ được tốt hơn Qua thời gian gần một năm học trôi qua với sự dạy dỗ và rèn luyện kiên trì, đến nay đa số trẻ trong lớp tôi đã biết tự giác chào hỏi, đã có hơn 97 % cháu có thói quen tốt trong việc chào hỏi người lớn ở mọi lúc mọi nơi. Được nhà trường và các bậc phụ huynh công nhận bước tiến bộ rõ nét về thái độ của con em mình. Phụ huynh lớp cảm ơn và dành nhiều tình cảm đối với cô giáo khiến cho tôi có thêm nhiều động lực để dạy trẻ tốt hơn. 2.2.2. Biện pháp 2: Dạy trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh: Mục đích: Nhằm giúp trẻ có thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường xung quanh trường, lớp gọn gàng sạch đẹp.
  4. Yêu cầu : Trẻ biết thực hiện các thao tác rửa tay, lau mặt đúng theo quy trình và có thói quen giữ gìn vệ sinh thân thể sạch đẹp, áo quần đầu tóc gọn gàng. Biết nhặt rác, bỏ rác vào đúng nơi quy định. Quy trình thực hiện : Trẻ 4-5 tuổi thường chưa có thói quen vệ sinh cá nhân cũng như các thao tác tự phục vụ, đây cũng là vấn đề mà các bậc phụ huynh cũng như cô giáo quan tâm rất nhiều. Ở độ tuổi này trẻ thường có thói quen quệt tay ngang mũi, thói quen vứt rác bừa bãi, chưa biết tự mặc quần áo, lấy cất giày dép, đồ dùng cá nhân, chưa biết tự rữa tay, lau mặt đúng cách đây là những nội dung mà cô giáo phải dạy trẻ để tạo cho trẻ những thói quen, nề nếp tốt nhằm giữ vệ sinh cá nhân, đảm bảo vệ sinh chung đúng với môi trường giáo dục. Ví dụ như : Đầu năm học có một số cháu như: Thế Nhân, Phúc Hưng, Gia Hưng, Gia Bảo có thói quen quệt tay ngang mũi, hoặc có khi lấy vạt áo để lau mũi. Bên cạnh đó còn có một số cháu khác như: Thái Dương, Đức Khang, Trọng Nghĩa có thói quen vứt rác bừa bãi và 90% trẻ chưa biết tự mặc áo quần, lấy cất giày dép, đồ dùng cá nhân, chưa biết tự rửa tay lau mặt đúng cách. Vì vậy, tôi đã đưa ra kế hoạch dạy trẻ và để làm tốt vấn đề này tôi đã thực hiện các hình thức, biện pháp như sau: tôi cùng với nhà trường vận động phụ huynh đóng góp các khoản thu nộp đầy đủ để có nguồn kinh phí mua sắm đầy đủ các đồ dùng để phục vụ hoạt động vệ sinh như: giá phơi khăn, khăn lau mặt, khăn mùi xoa, xà phòng bên cạnh đó tôi kết hợp với giáo viên trong lớp thường xuyên sử dụng biện pháp làm mẫu, tạo môi trường lớp học mang tính giáo dục cao, xung quanh lớp tôi dán những bức tranh, những hình ảnh có nội dung tuyên truyền giáo dục trẻ, ở mọi lúc mọi nơi bất cứ thời điểm nào có thể tích hợp được là tôi thường giới thiệu cho trẻ biết về nội dung bức tranh, hình ảnh đó để nhắc nhở trẻ học tập và làm theo, bên cạnh đó tôi còn phân công các cháu theo dõi, quan sát nhau xem bạn mình làm như thế nào, làm đúng hay chưa. Ngoài ra bằng những lời ca, tiếng hát, thơ ca hò vè cũng là một hình thức giáo dục trẻ rất nhẹ nhàng và hiệu quả. Bên cạnh đó không thể thiếu lời khen ngợi động viên kịp thời trước những hành vi đẹp của trẻ, giúp trẻ thấy phấn khởi và thấy mình tiến bộ, mình giỏi thật sự. Ví dụ như: Các cháu đầu năm chưa có thói quen giữ gìn vệ sinh thì cuối năm đã thưc hiện tương đối tốt các kỹ năng, thao tác rửa tay lau mặt và các kỹ năng khác. Điều kiện thực hiện: Thời gian vào đầu năm học khi đã bắt đầu đi vào rèn luyện nề nếp, thói quen cho trẻ thì tôi thường xuyên hướng dẫn trẻ cách rửa tay, lau mặt, cách đi tiêu đi tiểu đúng nơi quy định. Sau khi trẻ đã quen dần với hoạt động giữ gìn vệ sinh thì tôi thường xuyên gần gũi, trò chuyện, nhắc nhở trẻ ở mọi mọi nơi. Bên cạnh đó tôi thường kết hợp với gia đình trẻ để thường xuyên động viên, nhắc nhở, giáo dục trẻ có thói quen tốt. Chính vì vậy, đến nay lớp tôi không có hiện tượng trẻ quệt tay ngang mũi và vứt rác bừa bãi nữa mà các thói quen vệ sinh, lao động tự phục vụ của trẻ đã có những thay đổi và đạt kết quả tương đối tốt, 35/35 trẻ thực hiện đúng quy trình các thao tác rửa tay, lau mặt và biết vứt, bỏ rác đúng nơi quy định- đạt 100 %.
  5. 2.2.3. Biện pháp 3: Tạo cho trẻ có thói quen nề nếp trong: Hoạt động học, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi, ăn, ngủ. Mục đích: Bước đầu hình thành cho trẻ có thói quen trong nề nếp học tập như: ngồi học ngay ngắn nghiêm túc, ra vào lớp biết xin phép cô giáo. Khi tham gia hoạt động ngoài trời thì tuân thủ theo những yêu cầu, quy định của cô, của lớp, không chạy nhảy lung tung và hứng thú với hoạt động quan sát . Giao dục trẻ trước khi ăn phải biết mời cô, mời bạn, khi ăn không nói chuyện, không nhai nhồm nhoàm, biết ăn hết khẩu phần ăn của mình và biết tên gọi, lợi ích của các loại thực phẩm. Giáo dục trẻ biết ngủ đúng giờ, ngủ đủ giấc để đảm bảo sức khỏe. Yêu cầu: Trẻ biết thực hiện đúng theo sự hướng dẫn của cô và biết tự giác khi tham gia các hoạt động. Quy trình thực hiện: Thời gian mới vào đầu năm học, trẻ lớp tôi có thói quen cười nói tự do, ngồi học chưa ngay ngắn, nghiêm túc mà còn hay chạy lung tung trong lớp và ra vào lớp tự do mà không cần sự cho phép của cô giáo. Trong một lớp học có bao nhiêu trẻ thì có bấy nhiêu sự khác biệt cá nhân, những khác biệt này bao gồm về thể chất, năng lực và tất cả các trẻ có quyền đòi hỏi quan tâm đáp ứng nhu cầu của bản thân. Điều này cũng khiến tôi cảm thấy rất băn khoăn, lo lắng. Muốn tạo cho trẻ có nề nếp thói quen thường xuyên, cô giáo phải thực sự là người mẹ hiền thứ hai của trẻ, luôn nhẹ nhàng gần gủi, yêu thương trẻ, luôn coi trẻ như con của mình để uốn nắn trẻ, để giúp trẻ có thói quen chú ý, tham gia các hoạt động của lớp tốt thì ban đầu tôi cho trẻ quen với việc thực hiện theo các hiệu lệnh của cô giáo. Ví dụ: Khi cô nói : “các cháu” thì trẻ nói “im lặng” hay cô gõ xắc xô 1 tiếng thì trẻ nói “ trật tự ”, cô nói “miệng xinh ” thì trẻ đáp “ không nói chuyện” hoặc cô nói “bé ngoan” thì trẻ nói “ngồi đẹp ” và tôi thường xuyên trò chuyện, nhắc nhở trẻ muốn ra vào lớp thì phải biết giơ tay xin phép cô, ngồi học ngay ngắn không nói chuyện. Cùng với đó là biện pháp động viên, khen ngợi, nêu gương, phần thưởng để kích thích sự hứng thú của trẻ. Còn khi trẻ hoạt động ngoài trời thì tôi chọn những hoạt động, những đồ vật, sự việc gần gủi với trẻ để trẻ dễ quan sát và trò chuyện. Từ đó tạo sự hứng thú cho trẻ tham gia vào hoạt động, tránh trường hợp trẻ chạy nhảy lung tung. Ví dụ : khi thực hiện chương trình chủ điểm: Thực vật, thì tôi chọn hoạt động có chủ đích là “ quan sát vườn rau” và trò chơi vận động “Gieo hạt” để tạo hứng thú cho trẻ. Đến giờ ăn trưa, đa số ở nhà trẻ được bố mẹ cưng chiều bồng bế mỗi khi cho ăn nên trẻ hay nũng nịu, cho nên khi đến trường thì đa số trẻ chưa biết tự bưng bát để ăn cơm. Bởi vậy, ngay từ đầu năm tôi nắm được đặc điểm của lớp và tôi đã dùng những biện pháp để giúp trẻ tự bưng cơm ăn và ngồi ăn không quấy khóc bằng cách: vào đầu giờ ăn thì
  6. tôi nhắc trẻ ngồi vào bàn ngay ngắn, không nói chuyện và khi lên bưng cơm là phải biết xin cô, cảm ơn cô. Bên cạnh đó tôi còn giáo dục trẻ biết mời cô, mời bạn ăn cơm và trong khi ăn không nói chuyện riêng, không để rơi cơm xuống bàn Sau khi ăn xong phải biết rửa tay, lau mặt sạch sẽ. Trong khi trẻ ăn mà cháu nào ăn ít hoặc hay nói chuyện là tôi đến ngồi gần trẻ và động viên, nhắc nhở trẻ ăn (có thể xúc cơm cho trẻ ăn, động viên khuyến khích trẻ ăn hết suất). Cứ như vậy, hàng ngày tôi thường xuyên gần gủi và rèn cho trẻ để trẻ có thói quen ngồi ăn nghiêm túc, không nói chuyện, không làm rơi vải cơm với những biện pháp này thì đến bây giờ 100 % trẻ lớp tôi đã đi vào nề nếp. Đến giờ ngủ trưa thì đa số trẻ ở nhà còn ham chơi và bố mẹ cũng chưa tạo cho trẻ cho trẻ có thói quen ngủ trưa, nên đầu năm trẻ còn khó ngủ.Vì vậy, tôi thường mở những bản nhạc dân ca hoặc hát cho trẻ nghe để trẻ dể dàng đi vào giấc ngủ. Đến nay 100 % trẻ lớp tôi đã đi vào nề nếp ổn định và không có cháu nào quấy khóc trong khi ngủ. Điều kiện thực hiện: Ngoài thời gian tổ chức các hoạt động trên, thì ở mọi lúc mọi nơi khi nào có điều kiện là tôi trò chuyện với trẻ để động viên, khuyến khích trẻ thi đua cùng với các bạn và nhắc nhở phụ huynh về nhà dạy bảo thêm cho các cháu. 2.2.4. Biện pháp 4: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh: Để thực hiện tốt việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ thì các bậc phụ huynh giữ vai trò rất quan trọng do đó tôi đã tuyên truyền với các bậc phụ huynh về việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. Từ đó phụ huynh cùng phối hợp với cô giáo để nắm bắt đặc điểm tình hình của trẻ, tìm ra nguyên nhân để có biện pháp thích hợp kịp thời uốn nắn trẻ. Đồng thời trao đổi với bố mẹ trẻ để rèn luyện thêm cho trẻ khi ở nhà giúp việc rèn luyện nề nếp thói quen của trẻ có khoa học hơn và đi đến thống nhất trong việc chăm sóc giáo dục trẻ. Vận động phụ huynh cùng sưu tầm tranh ảnh, những bài thơ câu chuyện có nội dung phù hợp, đóng góp nguyên vật liệu và cùng làm đồ dùng đồ chơi phục vụ cho việc chăm sóc giáo dục trẻ đạt kết quả tốt. Tôi trao đổi với phụ huynh thông qua các hình thưc: qua giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh và cập nhật các thông tin trên bảng tuyên truyền “Những điều bố mẹ cần biết” nhằm tuyên truyền rộng rãi với các bậc phụ huynh về sự cần thiết của việc rèn luyện nề nếp thói quen cho trẻ. 2. 3. Kết quả đạt được: * Đối với biện pháp : Dạy trẻ có thói quen chào hỏi người lớn. - Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá – đạt 8,5%. - Cuối học kỳ 1: + có 26/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 74,2%. + còn 9/35 cháu có nề nếp khá - chiếm 25,7 %.
  7. - Cuối năm học: + có 34/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 97 %. + còn 1/35 cháu có nề nếp khá - chiếm 2,8%. * Đối với biện pháp : Dạy trẻ thói quen giữ gìn vệ sinh cá nhân . - Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá - đạt 8,5%. - Cuối học kỳ 1: + có 30/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 85,7%. + còn 5/35 cháu có nề nếp khá – chiếm 14,3%. - Cuối năm học: + có 35/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 100%. * Đối với biện pháp: Tạo cho trẻ có thói quen, nề nếp: Hoạt động học, hoạt động ngoài trời, hoạt động vui chơi, ăn, ngủ . - Đầu năm học : + có 3/35 cháu có nề nếp tương đối khá – đạt 8,5%. - Cuối học kỳ 1: + có 26/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 74,2%. + còn 9/35 cháu có nề nếp khá – chiếm 25,7 %. - Cuối năm học: + có 35/35 cháu có nề nếp tốt - đạt 100 %. * Đối với biện pháp: Làm tốt công tác tuyên truyền vận động phối kết hợp với phụ huynh: 35/35 phụ huynh đều tán thành và phối hợp tốt với cô giáo trong việc rèn nề nếp thói quen cho trẻ. 3. Phần kết luận: 3.1 ý nghĩa của đề tài: Là một giáo viên có nhiệt huyết với nghề, tôi luôn băn khoăn trăn trở đặt ra các câu hỏi “Làm thế nào? Làm gì? ” để rèn nề nếp thói quen cho trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi tại lớp mình phụ trách. Sau một năm nghiên cứu, tìm tòi, áp dụng các biện pháp hữu hiệu, kỷ năng nề nếp của trẻ lớp tôi đã được nâng cao rỏ rệt: Nề nếp chào hỏi thì hầu như cháu nào cũng biết lễ phép với mọi người, đặc biệt là với bố mẹ, cô giáo. Điều đó thể hiện rõ rệt ở chổ: khi bố mẹ đưa trẻ đến trường, đến lớp là cháu niềm nở đến chào cô, chào bạn rồi chào bố mẹ để vào lớp một cách thích thú. Còn phụ huynh rất khen ngợi và phấn khởi khi con mình biết chào hỏi một cách lễ phép. Phụ huynh rất thích thú cho con đến trường và có nhiều tình cảm với cô giáo, với nghành học Mầm non. Trên đây là một số biện pháp mà tôi đã vận dụng trong việc rèn nề nếp, thói quen cho trẻ 4-5 tuổi trong các hoạt động của năm học 2019-2020 mà tôi cho là có hiệu quả và có ý nghĩa rất to lớn đối với bản thân và bạn bè đồng nghiệp. Qua đó, sẽ giúp chúng ta có sự nhìn nhận về vấn đề một cách khoa học hơn và nếu xét về góc độ giáo dục nề nếp, thói quen đối với trẻ độ tuổi từ 4-5 tuổi mà cứ thực hiện theo một khuôn mẫu nhất định thì sẽ không đưa lại hiệu quả cao và tính chủ động tích cực của trẻ sẽ không phát huy
  8. được khả năng sáng tạo, đồng thời kết quả về mặt trí tuệ của trẻ sẽ phát triển thấp và trẻ sẽ phát triển một cách thụ động. Vì thế cô giáo luôn tìm tòi, nghiên cứu và sáng tạo. Hoạt động lao động sư phạm của cô giáo mầm non cần phải có sự định hướng, có mục đích để giáo dục, phát triển trẻ. Tác động sư phạm của cô giáo phải luôn thay đổi, phù hợp với nhu cầu phát triển của trẻ. Có cảm tình, có hứng thú với trẻ. Vì thế nghệ thuật chủ yếu của cô thể hiện ở chổ cô biết hòa nhập vào thế giới của trẻ, biết quên mình là người lớn để thực sự là người bạn của trẻ. Biết tôn trọng và đồng cảm với trẻ, tạo không khí cởi mở, lôi cuốn, thu hút trẻ để trẻ dễ nghe theo sự hướng dẫn của cô, biết vâng lời cô một cách thoải mái, vui vẻ. Từ đó giúp trẻ có những hiểu biết nhất định và tạo cho trẻ có đầy đủ điều kiện về thể lực, kiến thức, đồng thời hình thành và phát triển nhân cách tốt cho trẻ, tạo tiền đề cho trẻ vững vàng và tự tin hơn trong cuộc sống. Muốn thực hiện được những mục tiêu trên thì vần đề rèn nề nếp, thói quen cho trẻ mầm non phải được chú trọng thường xuyên, liên tục và không ngừng đổi mới. Đặc biệt là cô giáo phải có tâm huyết với nghề, phải thường xuyên bồi dưỡng, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên tiếp thu đầy đủ các chuyên đề và tiếp cận với cái mới một cách kịp thời để thực hiện tốt việc chăm sóc giáo dục trẻ, đặc biệt là rèn nề nếp, thói quen cho trẻ đạt kết quả cao. Qua quá trình thực hiện các biện pháp trên cùng với sự phối hợp với các bậc phụ huynh sự nổ lực nhiệt tình của giáo viên đứng lớp, bản thân tôi thấy những biện pháp đó có hiệu quả nên tôi muốn chia sẻ với đồng nghiệp để cùng nhau học hỏi và trao đổi kinh nghiệm nhằm giúp trẻ phát triển toàn diện hơn. 3.2. Bài học kinh nghiệm : Qua thời gian thực hiện đề tài, bản thân tôi tự rút ra được bài học kinh nghiệm như sau: - Cô giáo phải luôn luôn tu dưỡng đạo đức, phẩm chất chính trị. - Luôn luôn học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. - Phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, có ý thức tận tụy với công việc và biết hòa mình vào với trẻ để cùng chơi với trẻ. - Cô giáo phải thường xuyên học tập, trau dồi kinh nghiệm, nâng cao tinh thần học hỏi để tiếp thu những ý kiến hay, những sáng kiến tốt. - Giáo viên luôn gương mẫu trong mọi hoạt động. Mọi cử chỉ, lời nói của cô là hình ảnh, là tấm gương sáng để trẻ noi theo. - Cần có sự phối hợp giữa phụ huynh và giáo viên để nâng cao hiệu quả của việc chăm sóc, giáo dục trẻ. Trên đây là những kinh nghiệm mà bản thân tôi đã thực hiện và đạt được. Tuy nhiên, trong khi thực hiện đề tài cũng có phần thiếu sót, kính mong Hội đồng khoa học, Ban lảnh đạo nhà trường và bạn bè đồng nghiệp có những ý kiến góp ý để cho đề tài của tôi được hoàn thiện hơn.
  9. NGƯỜI VIẾT SÁNG KIẾN Nguyễn Thị Hoài Thu