Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ sở

doc 10 trang thulinhhd34 8751
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giang_day_gio_on_tap.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ sở

  1. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc HỒ SƠ XÉT CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN - Tên sáng kiến: Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong trường Trung học cơ sở - Tác giả: Nguyễn Thị Phương Oanh - Đơn vị công tác : Trường THCS Bá Hiến - Chức vụ: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn Bá Hiến, năm 2019
  2. CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ĐƠN YÊU CẦU CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN Kính gửi: Hội đồng sáng kiến huyện Bình Xuyên a) Tác giả sáng kiến: Nguyễn Thị Phương Oanh - Ngày tháng năm sinh: 11/04/1979 Nam, nữ: Nữ - Đơn vị công tác: Trường THCS Bá Hiến - Chức danh: Giáo viên - Trình độ chuyên môn: Đại học Sư phạm Văn - Tỷ lệ (%) đóng góp vào việc tạo ra sáng kiến: 100% b) Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Phương Oanh c) Tên sáng kiến; lĩnh vực áp dụng; mô tả bản chất của sáng kiến; các thông tin cần được bảo mật (nếu có): - Tên sáng kiến: Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong trường trung học cơ sở - Lĩnh vực áp dụng: Nghiên cứu giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ Văn trong trường Trung học cơ sở. - Mô tả sáng kiến: + Nội dung của sáng kiến: *Lời giới thiệu: Trong những năm gần đây, ngành giáo dục đào tạo đã tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị dạy học, phương tiện dạy học cho các trường như máy vi tính, máy chiếu đa vật thể, máy chiếu đa năng đồng thời tiến hành tập huấn sử dụng các thiết bị dạy học và tập huấn kĩ năng thực hành tin học cho đội ngũ giáo viên của các nhà trường. Điều đó cho thấy việc sử dụng các thiết bị dạy học và ứng dụng công nghê thông tin vào giảng dạy là việc làm cần thiết và rất hợp lí đối với học sinh trung học. Từ thực tế giảng dạy nhiều năm qua, đặc biệt đối với bài ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn, tôi nhận thấy giáo viên còn lúng túng trong quá trình soạn giảng, chưa đổi mới được hình thức ôn tập dẫn đến giờ học không gây được hứng thú học tập cho học sinh. Chính vì vậy để giúp học sinh khắc sâu kiến thức, phát huy tính tích cực, tự giác và hình thành các phẩm chất, năng lực trong giờ ôn tập tổng kết Ngữ Văn nhằm nâng cao chất lượng môn học thì việc sử dụng sự hỗ trợ của các phần mềm và các phương tiện dạy học hiện đại trong công tác giảng dạy là rất cần thiết và hữu hiệu. 1
  3. Vì vậy tôi chọn và tiến hành nghiên cứu đề tài: “Một số giải pháp giảng dạy giờ ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn trong TrườngTrung học cơ sở”. * Giải pháp mới: 1. Giải pháp thứ nhất: Dạy bằng phiếu học tập Phiếu học tập chủ yếu dành cho các bài ôn tập thơ, truyện. Trong các dạng bài này, tôi cung cấp phiếu học tập và yêu cầu học sinh liệt kê tên văn bản, tác giả, nội dung, nghệ thuật và ý nghĩa văn bản. Hình thức này nhằm mục đích kiểm tra kiến thức ở mức độ đơn giản và yêu cầu học sinh nhớ lại các đơn vị kiến thức cũ. Vì vậy, đây thường là hoạt động đầu tiên trong một tiết ôn tập, tổng kết. Ví dụ 1: Dạy bài Ôn tập truyện và kí (Ngữ văn 6 - Tập 2) Thể Nghệ STT Tên văn bản Tác giả Nội dung Ý nghĩa loại thuật 1 2 Ví dụ 2: Dạy bài Ôn tập thơ trữ tình (Ngữ văn 7 - Tập 1) Đây là tiết dạy ôn tập phần văn bản thơ trữ tình có dung lượng kiến thức khá lớn. Nếu giáo viên không linh hoạt trong việc lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học thì sẽ dễ dẫn đến không truyền tải được hết nội dung theo yêu cầu. Nếu sử dụng công nghệ thông tin giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, đồng thời phát huy được tính tích cực của các em. Vì vậy, tôi tổ chức hoạt động nhóm trong phần ôn tập kiến thức lý thuyết về đặc điểm thơ trữ tình: đưa yêu cầu, từng nhóm thảo luận thống nhất câu trả lời, sau đó đại diện nhóm trình bày với sự hỗ trợ của máy chiếu đa vật thể, cuối cùng giáo viên chốt kiến thức. Làm như vậy tôi thấy đã tạo được sự sôi nổi trong giờ học, phát huy tình tích cực của học sinh và có được nhiều thời gian hơn để rèn luyện học sinh cảm thụ thơ trữ tình trong phần luyện tập. Cụ thể: Nhóm 1: Tìm ý kiến em cho là không chính xác. Lí giải vì sao. a. Đã là thơ thì nhất thiết chỉ được dùng phương thức biểu cảm. b. Thơ trữ tình là một kiểu văn bản biểu cảm. c. Ca dao trữ tình là một kiểu văn bản biểu cảm. d. Tùy bút cũng là một kiểu văn bản biểu cảm. e. Thơ trữ tình chỉ được dùng lối nói trực tiếp để biểu hiện tình cảm, cảm xúc. Nhóm 2: Điền vào chỗ trống trong các câu: 2
  4. a. Khác với tác phẩm của các cá nhân, ca dao trữ tình (trước đây) là những bài thơ, câu thơ có tính chất và b. Thể thơ được ca dao trữ tình sử dụng nhiều nhất là c. Một số thủ pháp nghệ thuật thường gặp trong ca dao trữ tình là Với phiếu học tập, học sinh có thể hoạt động nhóm để phát huy đươc năng lực hợp tác của bản thân. Giáo viên với sự hỗ trợ của máy chiếu đa vật thể kiểm tra bài làm của các em, các em có thể dễ dàng thấy rõ điểm được và chưa được trong bài làm của nhóm mình sau khi so sánh với bài làm của nhóm bạn. Giáo viên sẽ tiết kiệm được thời gian, tăng sự linh hoạt trong giờ dạy, tránh sự nhàm chán cho học sinh bởi hình thức vấn đáp lặp đi lặp lại như trước đây trong giờ ôn tập. Hoạt động nhóm tạo ra nhiều cơ hội cho học sinh rèn luyện kĩ năng hợp tác - một trong những kĩ năng quan trọng, cần thiết của công dân thế kỉ 21; giúp học sinh tích cực tư duy, sáng tạo, tìm kiếm, tiếp nhận kiến thức; rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp, ứng xử. Hoạt động nhóm còn làm cho không khí lớp học sôi nổi, hứng thú hơn, học sinh chủ động hơn trong việc tiếp thu kiến thức. Phương pháp dạy học này cũng giúp phát huy năng lực tiềm ẩn của cá nhân, khơi dậy động cơ học tập cho học sinh. Tuy nhiên, tổ chức hoạt động nhóm không chặt chẽ sẽ có hạn chế: - Có một số thành viên ỷ lại không làm việc (hiện tượng ăn theo) hoặc có thể đi chệch hướng thảo luận do tác động của một vài cá nhân (hiện tượng chi phối, tách nhóm). - Có hiện tượng một số học sinh khá, giỏi quyết định quá trình, kết quả thảo luận nên chưa đề cao sự tương tác bình đẳng và tầm quan trọng của từng thành viên trong nhóm. - Học sinh chỉ quan tâm tới nội dung được giao chứ không quan tâm đến nội dung của các nhóm khác khiến kiến thức không trọn vẹn. - Nếu giáo viên không có kĩ thuật điều khiển thì hiệu quả hoạt động nhóm sẽ bị hạn chế. - Nếu lấy kết quả thảo luận chung của nhóm làm kết quả học tập cho từng cá nhân thì chưa công bằng và chưa đánh giá được sự nỗ lực của từng cá nhân. - Sự áp dụng cứng nhắc và quá thường xuyên của giáo viên sẽ gây sự nhàm chán và giảm hiệu quả của hoạt động nhóm. - Giáo viên tốn nhiều thời gian chuẩn bị. - Thời gian của mỗi tiết học giới hạn trong 45 phút nên giáo viên không thể nhấn mạnh hết nội dung của bài mà chỉ chú trọng vào các nội dung trọng tâm. 3
  5. Với đặc điểm riêng, hình thức hoạt động nhóm rất phù hơp để áp dụng dạy kiểu bài ôn tập, tổng kết, phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh. Tuy nhiên, khi tổ chức hoạt động nhóm cho học sinh, để giảm thiểu được những hạn chế nêu trên, tôi rất chú ý giám sát mọi hoạt động của các nhóm, có biện pháp xử lí các tình huống phát sinh (lệch hướng, không hợp tác, ăn theo, ) kịp thời. * Cách thiết kế Để thiết kế phiếu học tập, tôi đã thực hiện theo các bước sau đây: Bước 1. Xác định mục tiêu bài dạy, nội dung và hình thức thảo luận nhóm. Bước 2. Xác định các phiếu học tập cần sử dụng trong bài. Bước 3. Xây dựng hệ thống câu hỏi, bài tập làm rõ nội dung cần thảo luận. Bước 4. Xây dựng đáp án cho các câu hỏi, bài tập dự kiến trước các tình huống có thể xảy ra, chuẩn bị sẵn phần hướng dẫn, các câu hỏi có tính gợi ý. Bước 5. Kiểm tra lại, làm thử, xem xét mối quan hệ thống nhất hài hòa giữa bài soạn, câu hỏi và đáp án. * Một số lưu ý - Mỗi phiếu học tập nên có từ 2-4 câu hỏi tùy vào số lượng các thành viên trong nhóm hoặc nội dung cần thảo luận. - Thiết kế hệ thống các câu hỏi nên logic đảm bảo có sự ràng buộc giữa các thành viên khi tìm hiểu và thảo luận. - Để tạo sự chú ý ban đầu, kích thích người học bằng những câu hỏi gây hứng thú, “muốn nhảy ngay vào cuộc tranh luận để làm rõ đúng, sai” hoặc “không nói ra thì không chịu được”. Đây là những câu hỏi sáng tạo không có sẵn nội dung trả lời mà buộc người học phải tư duy, tìm cách giải quyết. - Câu hỏi cũng cần phải đảm bảo tính vừa sức. Nên có cả câu dễ và những câu khó tạo cho học sinh hứng thú và có cảm giác như tìm được đáp án (có thể trên thực tế đáp án đó là chưa hoàn chỉnh). - Câu hỏi của phiếu học tập cần rõ ràng, bám sát trọng tâm bài học sẽ giúp HS dễ thảo luận, kích thích tư duy, tăng tính đoàn kết giữa các thành viên trong nhóm. - Đặt câu hỏi, bài tập cho nhóm, dạng câu hỏi mở để phát huy tính năng động sáng tạo của học sinh, những câu hỏi tạo được tình huống có vấn đề giúp gợi mở tái hiện kiến thức, phát triển tư duy. 2. Giải pháp thứ hai: Dạy bằng bản đồ tư duy Khi đã giúp học sinh nhớ lại các đặc điểm của các bài thơ, truyện v.v bằng phiếu học tập như trên, việc tiến hành ôn tập từng đơn vị kiến thức bằng 4
  6. bản đồ tư duy là cần thiết. Bản đồ tư duy là một hình thức ghi chép sử dụng màu sắc và hình ảnh để mở rộng và đào sâu các ý tưởng. Ở vị trí trung tâm bản đồ là một hình ảnh hay một từ khóa thể hiện một ý tưởng hay khái niệm chủ đạo. Ý trung tâm sẽ được nối với các hình ảnh hay từ khóa cấp một bằng các nhánh chính, từ các nhánh chính lại có sự phân nhánh đến các từ khóa cấp hai để nghiên cứu sâu hơn. Cứ thế sự phân nhánh cứ tiếp tục và các khái niệm hay hình ảnh luôn được nối kết với nhau. Chính sự liên kết này sẽ tạo ra một bức tranh tổng thể mô tả về ý trung tâm một cách đầy đủ và rỏ ràng. Bản đồ tư duy sẽ tạo nên sự rõ ràng mạch lạc, logic trong cấu trúc, giúp học sinh không chỉ lĩnh hội được kiến thức mà còn học tập được kiểu tư duy khoa học, góp phần rèn luyện khả năng lập ý. Bản đồ tư duy có thể được vẽ trên giấy hoặc trên máy tính bằng phần mềm Emindmap. Ở các tiết ôn tập, tổng kết học sinh tôi đã sơ đồ hóa các kiến thức đã học để tìm ra mạch kiến thức cơ bản của một tác phẩm và mối quan hệ giữa các yếu tố trong tác phẩm. Ví dụ: Khi ôn tập tác phẩm Truyện Kiều, tôi định hướng để học sinh ôn tập lại kiến thức của bài học bằng hệ thống câu hỏi gợi mở trên cơ sở củng cố kiến thức bằng bản đồ tư duy. Học sinh có thể dùng bản đồ tư duy để khái quát kiến thức tác phẩm trên các phương diện: tác giả, tác phẩm, cốt truyện, lời bình dành cho tác phẩm, nội dung, nghệ thuật. Ở mỗi phương diện này, học sinh có thể đào sâu thêm, cụ thể hóa kiến thức, tạo cho học sinh biết suy nghĩ, có cách khái quát nhanh, khắc sâu kiến thức, có thể tự triển khai kiến thức sâu hơn, chi tiết cụ thể hơn. (Bản đồ tư duy ôn tập tác phẩm Truyện Kiều- Ngữ văn 9) 5
  7. Bản đồ tư duy đã và đang là công cụ tư duy hỗ trợ đắc lực cho con người trong mọi lĩnh vực của cuộc sống, đặc biệt trong học tập. Vận dụng phần mềm để thiết kế bản đồ tư duy là sự vận dụng đổi mới phương pháp dạy và học, phát huy tính tích cực của học sinh. 3. Giải pháp thứ ba: Dạy bằng các hình thức trắc nghiệm Câu hỏi trắc nghiệm khách quan là loại câu hỏi mà một số phương án trả lời đã được cung cấp sẵn, trong đó có một hoặc hơn một phương án đúng. Để xây dựng hệ thống câu hỏi trắc nghiệm khách quan, người ta thường sử dụng các dạng câu hỏi đúng/sai, câu hỏi điền khuyết, câu hỏi ghép đôi, câu hỏi nhiều lựa chọn v.v Trong các dạng câu hỏi này, câu hỏi nhiều lựa chon được sử dụng phổ biến trong các tiết ôn tập tổng kết môn Ngữ văn. Cái khó của dạng câu hỏi này chính là việc đưa ra phần lựa chọn không chỉ đơn thuần là đưa ra đáp án đúng mà là xây dựng được các phương án nhiễu hợp lý. Câu hỏi nhiều lựa chọn là loại câu hỏi trắc nghiệm khách quan trong đó học sinh được lựa chọn một trong số các phương án trả lời cho sẵn. Dạng câu hỏi này bao gồm hai phần: phần dẫn thường là một câu hỏi hoặc một câu bỏ lửng. Phần nội dung gồm các lựa chọn (trong đó có một lựa chọn duy nhất đúng và các lựa chọn sai dùng để gây nhiễu) trả lời cho câu hỏi hoặc phần bổ sung cho phần bỏ lửng ở phần dẫn để học sinh lựa chọn. Giáo viên có thể sử dụng phần mềm power point hoặc violet để soạn thảo các gói câu hỏi trắc nghiệm này một cách đơn giản. Ví dụ: Dạy tiết 133, 134: Tổng kết phần Văn và Tập làm văn (Ngữ văn 6) Câu hỏi: Điểm giống nhau về phương thức biểu đạt giữa truyện dân gian, truyện trung đại và truyện hiện đại là gỡ? A. Xây dựng cốt truyện C. Phương thức tự sự. B. Cách thức kể chuyện D. Miêu tả nhân vật. Hoặc: Chủ đề chung của các văn bản nhật dụng trong sách giáo khoa Ngữ văn 6 là gì? A. Giáo dục. B. Danh lam thắng cảnh - di tích lịch sử. C. Chống chiến tranh hạt nhân D. Chống việc hút thuốc lá. 4. Giải pháp thứ tư: Dùng trò chơi ô chữ Thực tế cho thấy nhiều khi giáo viên vì say mê giảng bài mà phần tổng kết, củng cố luôn làm tắt, qua loa đại khái, hoặc là nhắc nhở học sinh, tự tổng 6
  8. kết hoặc học phần ghi nhớ trong sách giáo khoa. Cách tổng kết ấy đã làm cho giờ văn thêm xơ cứng và như một lối mòn. Chính vì thế nhiều giờ dạy văn chưa hoàn thiện, chưa đạt yêu cầu và không đọng lại phần tinh túy nhất cho học sinh khiến linh hồn của tác phẩm không được học sinh thẩm thấu một cách tích cực Trong giờ day ôn tập, luyện tập hoặc tổng kết bài học có khi giáo viên nêu câu hỏi học sinh trả lời có khi giáo viên dùng bài tập trắc nghiêm để học sinh lựa chọn đáp án. Việc sử dụng trò chơi ô chữ bí ẩn với phương châm học mà chơi chơi mà học sẽ tạo được tâm lí thoải mái cho học sinh tạo được không khí hòa đồng giữa giáo viên và học sinh, có nhiều học sinh cùng được tham gia. Trò chơi ô chữ sẽ tổng kết được nhiều vấn đề từ tác giả, tác phẩm, thể loại, phong cách nghệ thuật của tác giả đến nội dung và nghệ thuật của văn bản, hoc sinh sẽ nắm lại được kiến thức tổng quát của tác phẩm. Để giờ dạy bằng trò chơi ô chữ có hiệu quả giáo viên phải đầu tư nghiên cứu tìm tòi lựa chọn ô chữ bí ẩn hàng dọc và hàng ngang phù hợp, ô chữ phải thể hiện được linh hồn của văn bản. Khi tổ chức cho học sinh chơi trò chơi ô chữ, tất nhiên giáo viên phải có sự hỗ trợ của thiết bị dạy học hiện đại như: Máy tính, máy chiếu, bút thông minh. Khi dạy tiết 127, 128: Ôn tập về thơ (Ngữ văn 9 - Tập 2), giáo viên có thể tổ chức cho học sinh chơi trò chơi ô chữ để giờ học thêm sinh động, học sinh phát huy được tính tích cực, chủ động, đồng thời cũng khắc sâu kiến thức. Bài “Mùa xuân nho nhỏ” (Thanh Hải) - Ngữ văn 9. Ô chữ hàng dọc: Sống đẹp S A N G T A O C Ô N G H I Ê N Đ I Ê P N G Ư G I Ư M U A X U Â N Đ Â T N Ư Ơ C T U Y Ê T Đ E P N H I P P H A C H T I Ề N 7
  9. Câu hỏi: 1. 7 chữ cái: Cách miêu tả mùa xuân của thiên nhiên, đất nước đã thể hiện năng lực gì của Thanh Hải? 2. 8 chữ cái: Nhà thơ Thanh Hải đã có nguyện ước gì cho đất nước? 3. 7 chữ cái: Bài thơ sử dụng thành công biện pháp nghệ thuật nào? 4. 10 chữ cái: Người nông dân có nhiệm vụ tô điểm cho mùa xuân thì người lính có nhiệm vụ gì? 5. 7 chữ cái: Là từ chỉ hình ảnh mùa xuân thứ 2 trong bài thơ này? 6. 8 chữ cái: Là tính từ đánh giá về bức tranh thiên nhiên mùa xuân trong bài thơ? 7. 13 chữ cái: Một loại nhạc cụ xứ Huế được nhắc đến trong bài thơ? Trò chơi ô chữ được thực hiện theo các bước sau: B1: Xây dựng khung ô chữ. B2: Xây dựng hệ thống câu hỏi B3: Tổ chức cho học sinh chơi. + Chiếu ô chữ lên màn hình. + Học sinh tự do chọn ô chữ hàng ngang. + Giáo viên đặt câu hỏi ấn định thời gian. B4: Giáo viên chiếu đáp án mẫu. Trò chơi ô chữ sẽ thu hút được nhiều học sinh tham gia, tạo sự sôi nổi hào hứng trong giờ học. Những học sinh thường rụt rè, chưa mạnh dạn trong học tập khi tham gia trò chơi cũng khiến các em trở nên mạnh bạo hơn không chỉ trong học tập mà cả trong các hoạt động tập thể. Trên đây là một số hình thức dạy học khi dạy các bài ôn tập, tổng kết môn Ngữ văn. Trong quá trình giảng dạy chúng tôi nhận thấy với sự hỗ trợ của các phần mềm và thiết bị dạy học hiện đại, việc thay đổi các hình thức ôn tập đã góp phần tạo nên sự phong phú, đa dạng hình thức dạy học, nâng cao hiệu quả trong giờ ôn tập, biến các bài ôn tập, tổng kết nặng nề, khô cứng trở thành những bài giảng sinh động trong đó học sinh là người chủ động tìm ra kiến thức. Bài học có sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin giúp cho các em trở nên năng động và sáng tạo hơn. 8
  10. + Khả năng áp dụng của sáng kiến Sáng kiến có tính khả thi cao và được áp dụng rộng rãi ở các bài ôn tập tổng kết môn Ngữ Văn khối 6, 7, 8, 9 (THCS). - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp trong đơn theo ý kiến của tác giả: . Lợi ích kinh tế: Tiết kiệm được rất nhiều thời gian, mở rộng kiến thức, liên hệ thực tế, rèn kĩ năng sống, phát huy tối đa các phẩm chất năng lực cho học sinh. . Lợi ích xã hội: Học sinh mạnh dạn tự tin, chủ động, sáng tạo và biết ứng dụng kiến thức bài học vào thực tiễn cuộc sống hiệu quả. Chất lượng giáo dục được nâng cao rõ rệt, góp phần vào sự phát triển chung của xã hội. - Các thông tin cần được bảo mật: Không có thông tin cần bảo mật. d) Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Nghiên cứu tài liệu, phân tích điều tra, tổng hợp thực nghiệm. Nghiên cứu kĩ sáng kiến và đối tượng áp dụng. - Phương tiện dạy học hiện đại: Máy chiếu, máy tính, bút thông minh đ) Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có): Áp dụng cho giáo viên dạy văn trong trường THCS. Tôi làm đơn này trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật, không xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hoàn toàn chịu trách nhiệm về thông tin đã nêu trong đơn. Bá Hiến, ngày 25 tháng 01 năm 2019 Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Phương Oanh 9