Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học Lớp 5

docx 11 trang binhlieuqn2 07/03/2022 11261
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_giup_hoc_sinh_giai_ca.docx

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học Lớp 5

  1. BÁO CÁO KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN 1. Lời giới thiệu: Toán học là các đối tượng trừu tượng, nên đối với toán học nó là sự trừu tượng hóa trên các trừu tượng hóa liên tiếp trên nhiều tầng bậc. Sự trừu tượng hóa lên tiếp luôn gắn liền với sự khái quát hóa liên tiếp và với lí tưởng hóa. Toán học sử dụng phương pháp suy diễn, nó là phương pháp suy luận làm cho toán học phân biệt với các khoa học khác. Do đó, Toán học là một môn học ngày càng có nhiều ứng dụng trong cuộc sống, những kiến thức và kĩ năng toán học cơ bản đã giúp con người giải quyết các vấn đề trong thực tế cuộc sống một cách có hệ thống và chính xác, góp phần thúc đẩy xã hội phát triển. Môn Toán ở trường Tiểu học bước đầu phát triển năng lực tư duy, khả năng suy luận hợp lí và diễn đạt chúng ( nói và viết) cách phát hiện và cách giải quyết những vấn đề đơn giản, gần gũi trong cuộc sống; kích thích trí tưởng tượng; gây hứng thú học tập toán; góp phần hình thành bước đầu phương pháp tự học và làm việc có kế hoạch khoa học, chủ động, linh hoạt, sáng tạo. Đồng thời, nó góp phần hình thành và phát triển phẩm chất, nhân cách học sinh; phát triển kiến thức, kĩ năng then chốt và tạo cơ hội để học sinh được trải nghiệm, áp dụng toán học vào đời sống thực tiễn; tạo dựng sự kết nối giữa các ý tưởng toán học, giữa Toán học với thực tiễn, giữa Toán học với các môn học khác. Nội dung môn Toán thường mang tính trừu tượng hóa và khái quát hóa nhưng không thể chỉ dựa vào tri giác bởi toán học là kết quả của thao tác tư duy đặc thù. Do đó, để hiểu và học được Toán, chương trình Toán ở trường phổ thông cần bảo đảm sự cân đối giữa “học” kiến thức và “áp dụng” kiến thức vào giải quyết vấn đề cụ thể. Trong chương trình toán Tiểu học, cùng với các nội dung về số học, đại lượng, học sinh còn được học các kiến thức về hình học. Hình học ở Tiểu học không được dạy thành môn học riêng mà nó được sắp xếp đan xen với các mạch kiến thức khác, là bộ phận gắn bó mật thiết với các kiến thức số học, đại lượng, giải toán thành các môn học thống nhất phù hợp với sự phát triển từng giai đoạn nhận thức của học sinh. Đặc biệt các bài toán giải có liên quan đến yếu tố hình học chiếm phần nhiều trong dạy toán có nội dung hình học ở lớp 4-5. Đối với các bài toán có nội dung hình học ở các lớp giai đoạn đầu chỉ yêu cầu học sinh quan sát các biểu tượng mà nhận ra các hình đơn giản, tính diện tích với các số đo cho sẵn (lớp 3). Đến lớp 4-5, yêu cầu về các yếu tố hình học đã được nâng cao, trong đó việc giảng dạy các bài toán thuộc loại này thực sự đã làm cho học sinh phát triển được năng lực tư duy hình học mà đặc biệt các bài toán liên quan đến diện tích các hình đã góp phần tích cực vào việc giúp cho học sinh nắm chắc hơn kiến thức và các kỹ năng cơ bản của hình học, tạo khả năng giải toán một cách sáng tạo và linh hoạt. Trước đây, giáo viên thường dạy như hướng dẫn trong sách giáo khoa. Giáo viên xây dựng công thức cho học sinh rồi yêu cầu học sinh học thuộc lòng công thức ấy. Vì thế, khi gặp các bài toán đơn giản cho sẵn các yếu tố có trong công thức thì học sinh làm
  2. được nhưng khi gặp các bài toán thực tế liên quan đến yếu tố hình học, học sinh lại lúng túng không biết làm thế nào. Nguyên nhân chính là do các em không nắm vững công thức, không thuộc công thức. Đa số các em không biết cách vận dụng công thức để giải quyết bài toán. Học sinh chưa có khả năng quan sát để nhận ra các yếu tố của hình ở trong các hình khác nhau để tìm ra mối liên hệ. Đặc biệt, khi phải thêm, bớt hình thì học sinh càng lúng túng. ( Tài liệu Phương pháp dạy học Toán ở Tiểu học – Vũ Quốc Chung chủ biên) Vì vây, để giải quyết những băn khoăn, trăn trở về cách dạy và học mạch kiến thức này, bản thân tôi là một giáo viên đã nhiều năm dạy lớp 5, tôi nghĩ cần phải có một giải pháp cụ thể giúp học sinh nắm – hiểu và giải được các bài toán liên quan đến diện tích các hình một cách chắc chắn hơn. Tôi chọn nội dung: “Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5” để nghiên cứu, thực nghiệm nhằm góp phần tìm ra biện pháp khắc phục khó khăn cho bản thân, cho đồng nghiệp cũng như giúp các em học tốt hơn nội dung này. 2. Tên sáng kiến: Sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5 „. 3. Tác giả sáng kiến: - Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy - Tổ 4 + 5 - Địa chỉ tác giả sáng kiến: Trường Tiểu học Định Trung- thành phố Vĩnh Yên- tỉnh Vĩnh Phúc - Số điện thoại: 0984740576 - Email: nguyenthithuy.gvc1dinhtrungvy@vinhphuc.edu.vn 4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến: - Họ và tên: Nguyễn Thị Thủy 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Lĩnh vực khoa học tự nhiên ở Tiểu học. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng: Ngày 15/11/2019 7. Mô tả bản chất của sáng kiến: 7.1. Vê nội dung của sáng kiến: “Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5. „ 7.1.1.Cơ sở lí luận: - Học sinh Tiểu học thường chú ý không chủ định. Sự chú ý của học sinh tiểu học còn phân tán, dễ bị lôi cuốn vào các trực quan, gợi cảm, thường hướng ra bên ngoài vào hành động, chưa có khả năng hướng vào bên trong, vào tư duy. Trí nhớ trực quan- hình tượng
  3. và trí nhớ máy móc phát triển hơn trí nhớ logic, hiện tượng hình ảnh cụ thể dễ nhớ hơn các câu chữ trừu tượng, khô khan. Trí tưởng tượng còn chịu tác động nhiều của hứng thú, kinh nghiệm sống, mẫu vật đã biết. - Học sinh tiểu học thường phán đoán theo cảm nhận riêng nên suy luận thường mang tính tuyệt đối. Học sinh khó nhận thức về quan hệ kéo theo trong suy diễn. các em khó chấp nhận các giả thiết, dữ kiện có tính chất hoàn hảo giả định bởi khi suy luận thường gắn liền với thực tế, phép suy diễn của “ thực hiện”. Bởi vậy, khi nghe một mệnh đề toán học các em chưa có khả năng phân tích rành mạch các thuật ngữ, các bộ phận của câu mà hiểu rõ một cách tổng quát. - Tư duy của học sinh tiểu học đang trong giai đoạn “tư duy cụ thể”, chưa hoàn chỉnh, vì vậy việc nhận thức các kiến thức toán học trừu tượng khái quát là vấn đề khó đối với các em. Trong dạy học, cần nắm vững sự phát triển có quy luật của tư duy học sinh, đánh giá đúng khả năng hiện có và khả năng tiềm ẩn của học sinh. Từ đó, có những biện pháp sư phạm thích hợp với trình độ phát triển của học sinh. Tuy nhiên, đến cuối cấp học, học sinh có những tiến bộ về nhận thức không gian như phối hợp cách nhìn một hình hộp từ các phía khác nhau, nhận thức được các quan hệ giữa các hình với nhau ngoài các quan hệ trong nội bộ một hình. Học sinh tiểu học bước đầu có khả năng thực hiện việc phân tích tổng hợp, trừu tượng hoá- khái quát hoá và những hình thức đơn giản của sự suy luận, phán đoán. Ở học sinh tiểu học, phân tích và tổng hợp phát triển không đồng đều, tổng hợp có khi không đúng hoặc không đầy đủ, dẫn đến khái quát sai trong hình thành khái niệm. Khi giải toán, học sinh thường ảnh hưởng bởi một số từ “thêm”, “bớt”, “nhiều gấp” tách chúng ra khỏi điều kiện chung để lựa chọn phép tính ứng với từ đó, do vậy dễ mắc sai lầm. Trước đây, cách dạy của giáo viên thường cho học sinh quan sát hình vẽ trong sách giáo khoa để trả lời câu hỏi rồi xây dựng công thức. Cách dạy này nếu các em ngoan ngoãn, chú ý nghe giảng thì còn hiểu được phần nào lời cô nói còn các em hay bị phân tán, chú ý vào việc khác các em sẽ không nghe và không nhớ được những gì cô dạy.Từ đó các em không hiểu bản chất của công thức, nếu có thuộc công thức cũng chỉ là “học vẹt”. Sau đó, khi luyện tập thực hành, giáo viên thường cho các em tự làm, gặp bài nào khó hỏi cô, cô giáo gợi ý các em làm được nhưng rồi các em cũng sẽ nhanh quên. 7.1.2. Thực trạng về dạy học về các yếu tố hình học ở Tiểu học. Là một giáo viên trực tiếp giảng dạy nhiều năm ở lớp 5, được tiếp xúc và tâm sự với nhiều đối tượng học sinh, được dự giờ đồng nghiệp, tôi đã cập nhật và thu nhận rất nhiều vấn đề thắc mắc cũng như những sai sót, nhầm lẫn của học sinh khi thực hành giải các bài toán có có nội dung hình học. Các lỗi sai của học sinh thể hiện rất nhiều trường hợp ở nhiều khía cạnh khác nhau, đó là: - Nhiều học sinh không phân biệt được biểu tượng chu vi, diện tích từ đó kéo theo những sai lầm khi làm toán.
  4. - Sai khi tóm tắt bài toán và minh hoạ sơ đồ, hình vẽ, đoạn thẳng ( học sinh thường bỏ sót các dữ liệu đề bài hoặc bỏ sót câu hỏi của bài toán trên sơ đồ tóm tắt; cũng có khi là sự biểu diễn sai hoặc chưa chính xác quan hệ toán học trên sơ đồ tóm tắt, ). - Sai khi lập luận thiếu chặt chẽ ( ngôn ngữ dài dòng, ngôn ngữ chưa phù hợp với tình huống ứng dụng thực tế, viết chưa đúng quy ước trình bày bài giải ). - Một số học sinh còn hạn chế trong việc nhận dạng và trình bày bài giải khi thực hành giải toán có nội dung hình học, vận dụng còn nhầm lẫn công thức tính chu vi, diện tích các hình đã học, thường sai đơn vị đo. - Do khả năng tư duy thiếu linh hoạt nên khi giải các bài toán xuôi chiều thì không vướng mắc nhưng khi giải các bài toán ngược chiều thì gặp khó khăn. Ví dụ: Khi dạy hai hình A và B có chu vi bằng nhau thì các em thường kết luận ngay hai hình đó có diện tích bằng nhau. - Việc tiếp thu kiến thức hình học rất máy móc, rập khuôn. Ví dụ: Khi dạy về khối hình lập phương thì cứ nhất thiết hình đó phải như hình của hộp phấn mới gọi là hình lập phương. - Cùng với đó, qua khảo sát chất lượng của 150 học sinh lớp 5 vào đầu tháng 10 theo 3 tiêu chí sau, kết quả như sau: Nhận biết hình và kĩ năng Nắm kiến thức cơ bản về Vận dụng kiến thức làm vẽ hình hình học bài tập Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 129 em 21 em 115 em 35 em 105 em 45 em 86% 14% 76,7% 25,3% 70% 30% - Từ những thực trạng trên, tôi thiết nghĩ là một giáo viên không thể dạy học toán mà không nắm vững đặc thù của toán học nói chung, không thể nắm không nắm vững những kiến thức toán học cơ bản, cần thiết liên quan đến các kiến thức cần dạy. Vì vậy, giảng dạy như thế nào cho có hiệu quả để giúp học học sinh giải được các bài toán có liên quan đến yếu tố hình học lớp 5. Tôi xin mạnh dạn đưa ra những giải pháp sau. 7.2. Một số giải pháp giúp học sinh giải các bài toán có yếu tố hình học lớp 5 *Giải pháp 1: Tổ chức cho học sinh thực hành để nắm chắc đặc điểm của các hình. Hoạt động nhận dạng đặc điểm các đối tượng hình học có các mức độ sau: Nhận dạng hình học được tiến hành bằng trực giác, tri giác như là một “ toàn thể” thông qua so sánh, đối chiếu vật mẫu. Vì vậy, tôi tiến hành theo các bước như sau: + Bước 1: Giáo viên nghiên cứu kĩ bài học, tìm hiểu các đồ dùng gần gũi, quen thuộc với học sinh có liên quan đến hình cần dạy. Chẳng hạn dạy bài hình tròn, giáo viên nhắc học
  5. sinh mang những đồ vật hình tròn đến lớp hay khi dạy hình lập phương, hình hộp chữ nhật Giáo viên nhắc học sinh mang hộp quà, hộp kẹo, hộp giấy, thậm chí có thể lấy luôn hộp bút, hộp phấn làm đồ dùng. + Bước 2: Cho học sinh thực hành trên các đồ vật có thật đó để tìm ra đặc điểm của hình. Ví dụ: Giáo viên cho học sinh dùng ngón tay đưa xung quanh hình tròn để học sinh cảm nhận và hiểu đó là đường tròn, đồng thời giúp học sinh phân biệt hình tròn và đường tròn. Sau đó, giáo viên giới thiệu luôn với học sinh đường tròn chính là chu vi của hình tròn còn nếu lấy tay xoa lên mặt hình tròn thì đó là diện tích hình tròn. Tương tự khi dạy bài Hình hộp chữ nhật hay bất kì bài hình nào khác giáo viên cũng cần cho học tự cảm nhận, tìm hiểu để tìm và khắc sâu những đặc điểm của hình đó, tránh nhầm lẫn hoặc mơ hồ về các hình. + Bước 3: Tổng hợp khái quát đặc điểm của từng hình. + Bước 4: Ôn tập, củng cố lại những hiểu biết của mình về hình đó. *Giải pháp 2: Tổ chức cho học sinh tự xây dựng công thức tính diện tích, thể tích của các hình. - Các bước tiến hành như sau: + Bước 1: Tổ chức cho học sinh thảo luận tìm cách tính diện tích hình bằng cách đưa về các hình đã học. Ví dụ 1: Để xây dựng công thức tính diện tích hình thang giáo viên tổ chức như sau: - Yêu cầu các nhóm lấy tấm bìa hình thang, quan sát và nhắc lại đặc điểm của hình thang. - Hướng dẫn học sinh cắt, ghép thành hình tam giác. - Nhận xét : Diện tích hình thang ABCD bằng diện tích hình tam giác ADK. Diện tích tam giác ADK là : Ví dụ 2: Để xây dựng công thức tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật, giáo viên tổ chức như sau: - Yêu cầu học sinh chỉ ra bốn mặt bên của chiếc hộp mình mang đi. - Mở chiếc hộp đã cho ra như hình vẽ rồi xác định mỗi mặt bên là hình chữ nhật. - Ghép 4 hình chữ nhật này lại thành hình chữ nhật dài ABCD, tính cạnh hình chữ nhật ABCD rồi tính diện tích hình chữ nhật ABCD thì ra diện tích xung quanh hình hộp chữ nhật. + Bước 2: Xây dựng công thức tính diện tích các hình từ hình mình vừa tìm được. Ví dụ 1: Xây dựng công thức tính diện tích hình thang từ diện tích hình tam giác:
  6. Ví dụ 2: Xây dựng công thức tính diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật từ hình chữ nhật ABCD. + Chiều dài hình chữ nhật ABCD là: AM + MN + NP + PB. Đây chính là chu vi mặt đáy. + Chiều rộng AD chính là chiều cao của hình hộp chữ nhật. + Do đó diện tích xung quanh của hình hộp chữ nhật là: Chu vi mặt đáy nhân chiều cao. *Giải pháp 3: Tổ chức cho học sinh luyện tập giải các bài toán cơ bản nhằm củng cố các công thức vừa học. + Bước 1: Giáo viên lựa chọn các bài toán áp dụng trực tiếp công thức. Ví dụ1: Tính chu vi hình tròn có đường kính d = 0,75cm. Ví dụ 2: Tính diện tích xung quanh và diện tích toàn phần của hình hộp chữ nhật biết chiều dài 25dm, chiều rộng 1,5m, chiều cao 18dm. + Bước 2: Quan sát, giúp đỡ những học sinh chưa làm được. Ở bước này giáo viên chú ý những bài mà không cùng đơn vị đo ( như Ví dụ 2) xem học sinh đã biết đổi đơn vị đo trước khi áp dụng công thức chưa. + Bước 3: Lựa chọn các bài toán tìm các thành phần khác của công thức. Ví dụ 1: Tính bán kính hình tròn có chu vi C = 18,84dm - Bài này học sinh phải dựa vào công thức tính chu vi hình tròn C = r x 2 x 3,14 để suy ra r = C : 3,14 : 2. Ví dụ 2: Một hình thang có diện tích 3,42m 2, đáy lớn hơn đáy bé 2,7m. Tính độ dài mỗi đáy biết chiều cao là 1,2m. Để làm bài toán này, GV hướng dẫn HS dựa vào công thức tính diện tích hình thang S = ( a: đáy lớn; b: đáy nhỏ; h: chiều cao) để suy ra tổng độ dài hai đáy của hình thang bằng diện tích nhân 2 chia chiều cao (a + b = S x 2 : h). Từ đó đưa về bài toán tìm hai số khi biết tổng và hiệu để tìm đáy lớn, đáy bé. Khi làm dạng này, giáo viên cần chú ý quan tâm sát sao đến học sinh để giúp đỡ những em gặp khó khăn, lúng túng trong khi các em làm bài, tránh tình trạng các em nắm không vững thì sẽ gặp khó khăn cho các dạng tiếp theo.
  7. - Nếu giáo viên hướng dẫn rõ ràng, từng bước chắc rằng ngoài việc học sinh thuộc và biết vận dụng công thức các em còn biết chuyển đổi công thức. Giáo viên rèn kỹ năng học sinh áp dụng các kiến thức về tìm thành phần chưa biết và giải toán để tìm kích thước.Thông qua việc tìm ngược các kích thước các em cũng được củng cố công thức tính diện tích và hiểu rõ các thành phần của công thức đó. *Giải pháp 4: Thường xuyên liên hệ các bài toán có yếu tố hình học gắn với thực tế. + Bước 1: Hướng dẫn các bài toán có nội dung hình học gắn với thực tế mà chỉ sử dụng công thức để giải bài toán. Trong bước này, giáo viên lựa chọn các bài toán có nội dung thực tế gần gũi, có thể minh họa bằng hình ảnh trực quan để học sinh hiểu và có sự liên hệ toán học với cuộc sống. Ví dụ: Một bể cá dạng hình hộp chữ nhật có chiều dài 1m, chiều rộng 50cm, chiều cao 60cm.Tính: 1. Diện tích kính dùng làm bể cá ( không có nắp) 2. Thể tích bể cá. 3. Mức nước trong bể cao bằng chiều cao bể. Tính thể tích nước trong bể ( chiều dày kính không đáng kể) Để dạy bài này, giáo viên cho học sinh quan sát bể cá trên máy chiếu hoặc tranh ảnh để học sinh quan sát bằng trực quan. Từ đó, học sinh nhận ra diện tích kính dùng làm bể cá là diện tích xung quanh và diện tích một mặt đáy cua hình hộp chữ nhật ( vì bể không có nắp). Và quan trọng, hình ảnh trực quan giúp học sinh dễ dàng hiểu rằng khi nước trong bể nước cũng có dạng hình hộp chữ nhật và so sánh được thể tích của nước và thể tích của bể cá giống nhau về chiều dài, chiều rộng, chỉ khác nhau về chiều cao. Từ việc hiểu bài toán như vậy, học sinh dễ dàng áp dụng các công thức tính diện tích xung quanh và thể tích để giải bài toán. Ví dụ: Trên mảnh vườn hình thang ( như hình vẽ), người ta sử dụng 30% diện tích để trồng rau cải và 25% diện tích để trồng su hào. Hỏi: 1. Diện tích trồng rau cải là bao nhiêu mét vuông? 2. Diện tích trồng su hào là bao nhiêu mét vuông? + Bước 2: Phối hợp các bài toán có nội dung hình học với các dạng toán khác. Giáo viên dần mở rộng các bài toán có nội dung hình học nhưng phối hợp nhiều dạng toán khác để giải quyết các bài toán gắn trong thực tế.
  8. Ví dụ 1: Trên mảnh vườn hình thang có đáy nhỏ 40m, đáy lớn 70m, chiều cao 30m, người ta sử dụng 30% diện tích để trồng rau cải và 25% diện tích để trồng su hào. Hỏi: 3. Diện tích trồng rau cải là bao nhiêu mét vuông? 4. Diện tích trồng su hào là bao nhiêu mét vuông? Với dạng toán này học sinh phải biết tính diện tích mảnh vườn hình thang rồi phối hợp với dạng toán về tỉ số phần trăm để giải bài toán. Ví dụ 2: Một biển báo giao thông có đường kính 40cm. Diện tích hình mũi tên trên biển báo bằng diện tích của biển báo đó. Tính diện tích mũi tên của biển báo. Bài này đòi hỏi học sinh phải biết tính bán kính khi biết đường kính rồi từ đó tính diện tích hình tròn. Khi tính diện tích hình tròn xong, học sinh phải nhớ lại cách tìm phân số của một số để tính diện tích mũi tên. + Bước 3: Hướng dẫn HS hiểu một số từ ngữ toán học gắn với thực tế. Trong quá trình giảng dạy, tôi thấy học sinh nhiều khi lúng túng không biết từ đó là gì và người ta hỏi gì. Ví dụ1: Một khu đô thị có chiều dài 0,5 km, chiều rộng bằng 5/8 chiều dài. Hỏi khu đô thị đó rộng bao nhiêu héc ta? Ví dụ 2: Người ta đổ cát vào một cái hố hình hộp chữ nhật có chiều dài 50dm, chiều rộng 30dm, chiều sâu 50dm. Hãy tính xem phải đổ bao nhiêu khối cát ( Biết rằng 1m3 là một khối ) thì đầy cái hố đó? Ở ví dụ 1 nhiều HS không biết “rộng” bao nhiêu héc ta là tính cái gì? “Chiều sâu” là gì? Và “đổ bao nhiêu khối cát” là đi tìm gì? Giáo viên có thể sử dụng hình ảnh minh họa chỉ cho HS hiểu “ rộng” ở đây chính là diện tích khu đô thị. Còn “chiều sâu” của hố chính là chiều cao của nó và số cát cần đổ để lấp đầy hố chính là thể tích của cái hố. 7.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến. Sáng kiến đã được áp dụng thử năm 11/2019 đến nay cho hiệu quả rất tốt. Các em học sinh cảm thấy làm bài dễ dàng hơn, không còn lúng túng và không cảm thấy sợ khi gặp phải các bài toán có nội dung hình học, đặc biệt là các bài toán gắn với thực tế. - Vận dụng cho tất cả các đối tượng học sinh lớp 5 để rèn kĩ năng nhận dạng bài toán, kĩ năng vận dụng công thức, kĩ năng trình bày bài giải, - Đối với các em có năng khiếu khi mở rộng về dạng toán này nắm bắt
  9. cũng nhanh hơn, vận dụng giải các bài toán ngoài thực tế rất linh hoạt; còn các em học yếu cũng làm được các bài toán cơ bản. Vì vậy, trong các bài kiểm tra các em đều làm tốt các bài có nội dung hình học. Cụ thể: Sau khi áp dụng sáng kiến tôi đã tiến hành Khảo sát lại chất lượng của 150 học sinh khối lớp 5 theo 3 tiêu chí. Kết quả đạt được như sau: Nhận biết Nắm kiến thức cơ bản Vận dụng luyện tập về kỹ năng vẽ hình về hình học Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt Đạt Chưa đạt 145 em 5 em 142 em 8 em 140 em 10 em 96,7% 3,3% 94,5% 5,5% 93,3% 6,7% - Sáng kiến mang lại hiệu quả cao trong giảng dạy nên sáng kiến còn áp dụng tiếp trong những năm học tiếp theo. - Mặt khác, sáng kiến có thể áp dụng cho những giáo viên mới ra trường hoặc những giáo viên chưa từng dạy lớp 5 còn thiếu kinh nghiệm. Ngoài ra, sáng kiến còn có thể áp dụng cho bất kì giáo viên nào muốn nâng cao chất lượng dạy học môn toán của lớp mình. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: 9.1. Về phí giáo viên. - Giáo viên phải nghiên cứu kĩ sách giáo viên, sách giáo khoa Toán 5 xác định được mục đích và yêu cầu về kiến thức kĩ năng cần đạt trong từng bài có liên quan đến nội dung hình học. - Dạy học phải nghiên cứu và phân đối tượng, chia lớp nhỏ có đủ các đối tượng, chú ý đến cách phân tích đề toán, hình thành cho HS thói quen đọc và xác định yêu cầu bài tập. - Trong quá trình giảng dạy giáo viên phải tạo điều kiện cho các em được giải toán, được trình bày ý tưởng của mình, tạo niềm tin cho các em giúp các em có sự nổ lực cố gắng vươn lên trong quá trình học tập. 9.2. Về phía học sinh. - Đối với học sinh khó khăn về học cần cho học sinh thực hành nhiều trên bảng với những dạng tương tự và cũng đi từ từ từng bước. Tạo sự mạnh dạn ở các em, chỉ yêu cầu học sinh thực hiện cơ bản về cách làm chung. - Đối với học sinh năng khiếu, giáo viên yêu cầu học sinh suy luận lô-gic hơn và làm nhiều bài vận dụng ở thực tế hơn.
  10. 9.3. Vê phía nhà trường. - Nhà trường cần trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho các hoạt động dạy và học của giáo viên và học sinh. - Tổ chức nhiều các hoạt động theo chủ đề Vui học tập có liên quan đến các yếu tố hình học để học sinh được tham gia, tạo cơ hội cho học sinh phát huy năng lực học tập của bản thân. 10. Đánh giá lợi ích dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến: 10.1. Mang lại lợi ích về kinh tế: Sau khi áp dụng các giải pháp mà sáng kiến đã nêu cho học sinh lớp 5, tôi thấy hiệu quả giảng dạy được nâng lên rõ rệt. - Các giải pháp này giúp giáo viên có thể dạy các em hiểu và nắm chắc các bài toán có nội dung hình học này ngay từ các bài toán trong sách giáo khoa. Giáo viên không cần tìm và mua nhiều các tài liệu và sách tham khảo, học sinh cũng không phải mua nhiều sách, không phải đi học thêm . Như vậy, giải pháp của tôi đã tiết kiệm chi phí, tiết kiệm thời gian cho cả giáo viên và học sinh. 10.2. Mang lại lợi ích về xã hội: Đây là giải pháp sẽ giúp giáo viên tự tin hơn về phương pháp dạy các bài về có nội dung hình học trong chương trình toán lớp 5. Nhờ có sự khắc sâu và mở rộng kiến thức của giáo viên trong quá trình giảng bài nên học sinh làm bài tốt, tính toán chính xác và biết chọn cách giải hợp lý nhất và tự tin vận dụng vào thực tế linh hoạt hơn, Các em biết dùng lời lẽ giải thích hợp lý, lời văn trong sáng để trình bày một cách khoa học, sạch sẽ. 11. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến. TT Tên tổ Địa chỉ Phạm vi/Lĩnh vực chức/cá nhân áp dụng sáng kiến Giáo viên và học Trường Tiểu học Định sinh lớp 5A1, 5A2, Trung– Vĩnh Yên 1 Trong thành phố/ Lĩnh vực 5A3, 5A4 khoa học tự nhiên Trường Tiểu học Quất Trong tỉnh giáo dục/ Lĩnh vực Lưu- Bình Xuyên khoa học tự nhiên 2 Trần Thắng Vũ Hoàng Thành Thư Trường Tiểu học Đồng Trong thành phố giáo dục/ Tâm- Vĩnh Yên Lĩnh vực khoa học tự nhiên 3
  11. Vĩnh Yên, ngày tháng năm 2020 Vĩnh Yên, ngày 08 tháng 5 năm 2020 Xác nhận của lãnh đạo nhà trường. Tác giả sáng kiến (Kí tên, đóng dấu) Nguyễn Thị Thủy