Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc Trung học Cơ sở

pdf 11 trang binhlieuqn2 07/03/2022 2901
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc Trung học Cơ sở", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_nang_cao_chat_luong_d.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc Trung học Cơ sở

  1. - 1 - SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc Trung học cơ sở PHẦN 1: MỞ ĐẦU I. Lý do chọn đề tài: 1. Về lý luận: “Văn học là nhân học”. Văn học có vai trò rất quan trọng trong đời sống và trong sự phát triển tư duy của con người. Là một môn học thuộc nhóm khoa học xã hội, môn Ngữ văn có tầm quan trọng trong việc giáo dục quan điểm, tư tưởng, tình cảm cho học sinh. Đồng thời cũng là môn học thuộc nhóm công cụ, môn Ngữ văn còn thể hiện rõ mối quan hệ với các môn học khác. Học tốt môn Ngữ văn sẽ tác động tích cực tới các môn học khác và ngược lại, các môn học khác cũng góp phần học tốt môn Ngữ văn. Điều đó đặt ra yêu cầu tăng cường tính thực hành, giảm lí thuyết, gắn học với hành, gắn kiến thức với thực tiễn hết sức phong phú, sinh động của cuộc sống. 2. Về thực tiễn: Môn Ngữ văn trong nhà trường bậc THCS chia làm ba phân môn: Văn học, Tiếng Việt, Tập làm văn. Năm học 2017 - 2018, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn 7. Tôi nhận thấy mặc dù biểu lộ tình cảm, cảm xúc là một nhu cầu thiết yếu của con người nhưng học sinh chưa biết cách bộc lộ cảm xúc của mình để “khơi gợi lòng đồng cảm nơi người đọc”. Khi hành văn, các em còn lẫn lộn, chưa phân biệt rõ ràng, rạch ròi giữa văn biểu cảm với các thể loại văn khác. Chính vì thế, điểm các bài kiểm tra và điểm trung bình môn Ngữ văn của các em còn thấp. Thực tế đó qủa là đáng lo ngại, thực trạng vấn đề này ra sao? Vì sao học sinh gặp nhiều khó khăn trong việc làm văn biểu cảm? Cần phải làm gì để
  2. - 2 - nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm cho học sinh THCS? Đó là những vấn đề khiến tôi trăn trở. 3. Tính cấp thiết: Xuất phát từ tình hình trên, bản thân xin nêu một vài kinh nghiệm trong quá trình giảng dạy qua sáng kiến: “Một số giải pháp nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc Trung học cơ sở”. II. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu: Mục tiêu, nhiệm vụ của sáng kiến này là nhằm nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm bậc Trung học cơ sở ở trường THCS An Thạnh Tây. III. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: - Đối tượng: Cách hướng dẫn học sinh lớp 72 - trường THCS An Thạnh Tây rèn kĩ năng viết văn biểu cảm. - Phạm vi: Kĩ năng viết văn biểu cảm. IV. Phương pháp nghiên cứu: - Phương pháp điều tra. - Phương pháp thực nghiệm. - Phương pháp phân tích, tổng kết kinh nghiệm. V. Tính mới của đề tài: Điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm này là: - Hướng dẫn kỹ quy trình làm một bài văn biểu cảm. - Đổi mới cách kiểm tra, đánh giá bài văn biểu cảm (cách ra đề, cách chấm bài). - Khuyến khích học sinh đọc sách và khơi gợi cảm xúc cho học sinh. PHẦN 2: NỘI DUNG I. Cơ sở lí luận:
  3. - 3 - Văn biểu cảm là loại văn thể hiện nội tâm, tâm trạng của người viết. Ngồi trước trang giấy, nếu tâm hồn trống rỗng không cảm xúc, đầu óc mông lung không rõ ý nghĩ gì thì người viết không thể có được một bài văn biểu cảm có hồn. Lúc đó, bài văn hoặc khô khan, nhạt nhẽo, ngắn ngủi hoặc giả tạo, vay tình mượn ý. Người giáo viên, khi dạy văn THCS nói chung, dạy văn biểu cảm nói riêng, ngoài nắm kiến thức, phương pháp lên lớp còn cần có một tâm hồn, một trái tim sống cùng tác giả, tác phẩm. Để dạy và học tốt văn biểu cảm ở THCS, người dạy và người học cần nắm vững hệ thống 6 bài học và luyện tập về văn biểu cảm gồm: - Tìm hiểu chung về văn biểu cảm; - Đặc điểm của văn biểu cảm; - Đề văn biểu cảm và cách làm bài văn biểu cảm; - Cách lập ý của bài văn biểu cảm; - Các yếu tố tự sự và miêu tả trong văn biểu cảm; - Cách làm bài văn biểu cảm về tác phẩm văn học. II. Cơ sở thực tiễn: 1. Thực trạng: Qua quá trình giảng dạy chương trình Ngữ văn lớp 7, tôi nhận thấy kĩ năng nhận diện các phương thức biểu đạt trong văn bản, kĩ năng viết, bộc lộ cảm xúc trong bài tập làm văn của một bộ phận học sinh còn yếu. Năm học 2017 – 2018 , khi cho học sinh viết bài tập làm văn số 2 với đề bài “Loài cây em yêu”. Dù mới học và hình thành kĩ năng tạo lập văn bản biểu cảm xong nhưng nhiều học sinh không phân biệt được văn miêu tả và văn biểu cảm nên bài viết không phải viết về thái độ và tinh cảm của mình đối với một loài cây cụ thể mà tả về loài cây đó. Hoặc tiết viết bài tập làm văn số 3 đề yêu cầu “Cảm nghĩ của em về hình ảnh người bà thân yêu của mình”. Học sinh viết “Bà nội hay thức khuya dậy sớm để làm việc mà tối nội chưa làm. Bà thường đi làm thuê để kiếm tiền nuôi chúng em. Em thấy vậy bảo bà nội hay là nội đừng đi
  4. - 4 - làm thuê nữa, nội chuyển sang nấu xôi đi. Nội suy nghĩ một hồi lâu rồi nói, đó cũng là một ý kiến hay”. Liệu khi đọc đoạn văn trên, các chúng ta có cho rằng đó là một đoạn văn biểu cảm? Toàn bài viết của em học sinh đó đều là những lời văn, đoạn văn tương tự như thế. Cũng với đề văn như trên, một học sinh khác viết “Cảm nghĩ của em về bà là một người bà yêu mến con cháu”. Các em cảm nhận và viết văn như nghĩa vụ, làm qua loa cho xong rồi đem nộp. Kể cả học sinh khá, dù cảm nhận và hiểu được yêu cầu của đề, xác định đúng hướng làm bài nhưng kể vẫn nhiều hơn biểu cảm. Sau đây là bảng số liệu thống kê điểm trung bình môn Ngữ văn của lớp 72 (học kì I, năm học 2017 – 2018): Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém học sinh (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) 3 6 11 6 4 30 (10%) (20%) (36,67%) (20%) (13,33%) 2. Nguyên nhân của thực trạng: Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên thì có nhiều, song theo tôi, do một số nguyên nhân chủ yếu sau: 2.1. Đối với giáo viên: Đa số giáo viên đều tận tụy với công tác giảng dạy, chăm lo quan tâm đến học sinh nhưng vẫn còn những mặt hạn chế sau: - Phương pháp giảng dạy chưa thực sự phù hợp với một bộ phận không nhỏ học sinh yếu kém dẫn đến chất lượng chưa cao. - Do điều kiện khách quan nên việc sử dụng đồ dùng dạy học, phương pháp trực quan vào tiết học hạn chế, ảnh hưởng đến chất lượng tiếp thu bài của học sinh. - Đôi khi giáo viên chưa khơi gợi được mạch nguồn cảm xúc của người học. - Chưa đổi mới trong việc kiểm tra, đánh giá. 2.2. Đối với học sinh:
  5. - 5 - - Một số học sinh còn ham chơi, chưa chăm học nên chưa chuẩn bị tốt tâm thế cho giờ học Ngữ văn. - Đa số các em học sinh không có thói quen đọc, kể cả văn bản trong SGK. - Không ít học sinh chưa nắm vững cách làm một bài tập làm văn. - Học sinh chưa được hướng dẫn, khơi gợi cảm xúc để có thể làm tốt văn biểu cảm. III. Giải pháp: Từ thực tế giảng dạy, tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp để nâng cao chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở bậc THCS như sau: 1. Đối với giáo viên: Ngoài một số phương pháp tích cực trong dạy học phân môn Tập làm văn như: Phương pháp dạy Tập làm văn thông qua hoạt động, phương pháp trực quan, hình thức vấn đáp, thảo luận Giáo viên cần vận dụng sáng tạo một số phương pháp khác như phương pháp đóng vai, phương pháp sử dụng trò chơi học tập Dù dạy văn biểu cảm về sự vật và con người hay văn biểu cảm về tác phẩm văn học, giáo viên luôn phải định hướng và hướng dẫn các em nắm vững quy trình để làm một bài văn biểu cảm tốt. Quy trình đó bao gồm: 1.1. Tìm hiểu đề và tìm ý: 1.1.1. Tìm hiểu đề: Một đề bài thường ra dưới dạng khái quát nhằm thích hợp với tất cả đối tượng học sinh. Do đó, quá trình tìm hiểu đề bài sẽ diễn ra như một hoạt động nhằm cá thể hóa đề bài cho từng học sinh kết quả của quá trình này là mỗi học sinh có một đề bài cho riêng mình. Trong đề bài văn biểu cảm, giáo viên cần định hướng cho các em tìm hiểu đề bằng cách tìm ra lời giải cho các câu hỏi sau: - Em định phát biểu cảm nghĩ, tình cảm, mong muốn về đồ vật (con vật, loài cây, cảnh vật, ) nào? Về người nào? Về tác phẩm nào?
  6. - 6 - - Em viết bài biểu cảm đó nhằm mục đích gì? (Giải bày cảm xúc, tình cảm nào?) - Em viết bài biểu cảm đó để ai đọc? (Cô giáo, thầy giáo, bố mẹ, bạn bè ) Lời giải đáp cho ba câu hỏi trên sẽ quyết định nội dung bài viết (trình bày cảm xúc gì?), giọng điệu bài viết (viết cho bạn bè phải là giọng văn thân mật, có thể suồng sã; còn viết cho thây cô hoặc bố mẹ phải thân thiết nhưng nghiêm trang). 1.1.2. Tìm ý: Tìm ý cho bài văn biểu cảm chính là tìm cảm xúc, tìm những ý nghĩ và tình cảm để diễn đạt thành nội dung của bài. Ý nghĩ, cảm xúc, tình cảm muôn màu muôn vẽ trong các bài văn biểu cảm đều bắt nguồn từ việc quan sát cuộc sống xung quanh, từ những gì người viết đã sống và trải qua, đã tiếp xúc trong tác phẩm. Vì thế, muốn tìm ý cho bài văn biểu cảm không phải cứ ngồi một chỗ mà đợi ý nghĩ, cảm xúc đến. Sau khi có một đề bài, hãy quan sát kĩ đối tượng đề bài nêu ra để từ đó, cảm xúc xuất hiện. Nếu không có điều kiện quan sát trực tiếp, hãy lục lọi trong trí nhớ, trong kỉ niệm những gì mình biết về đối tượng và từ từ nhớ lại các chi tiết. Nếu cả kỉ niệm trong kí ức cũng không có thì tìm đọc sách báo, xem phim ảnh về đối tượng để ghi nhận các chi tiết cần thiết. Đối với văn biểu cảm về tác phẩm văn học, cảm xúc và suy nghĩ về tác phẩm văn học được nảy sinh từ bản thân tác phẩm. Tìm ý trong trường hợp này chính là đọc kĩ, đọc đi đọc lại nhiều lần tác phẩm, ngẫm nghĩ tìm ra vẻ đẹp, tìm ra triết lí của nội dung, tìm ra cái mới, cái độc đáo của các yếu tố hình thức nghệ thuật. 1.2. Lập dàn ý: Bài văn biểu cảm cũng có kết cấu ba phần (mở bài, thân bài, kết bài) như các kiểu văn bản khác. Mở bài nhằm giới thiệu đối tượng và cảm xúc chính về đối tượng. Phần thân bài là sự phát triển các cảm xúc chính đã nêu ra ở phần mở bài. Phần kết bài khép lại các ý đã trình bày.
  7. - 7 - 1.3. Viết bài: Viết bài văn biểu cảm là việc viết các đoạn văn và nối chúng với nhau, tạo thành chỉnh thể thống nhất. Khi viết bài cần thực hành thành thạo kĩ năng hành văn, đặt câu, sử dụng từ, chọn giọng điệu, cách bộc lộ cảm xúc phù hợp. Khi viết bài, kết nối các đoạn trong bài văn biểu cảm cần chú ý đến lôgíc phát triển của cảm xúc, của tình cảm. Theo lôgíc này, mỗi đoạn trong bài đều phải hướng vào làm nổi rõ lên cảm xúc chính, tình cản chính. 1.4. Sửa bài: Đa số học sinh khi làm bài không biết cách phân phối thời gian hợp lí nên viết xong là nộp bài, thậm chí hết thời gian nhưng vẫn chưa làm xong bài. Do đó, khâu tự sửa bài sau khi viết không được coi trọng. Giáo viên cần nhắc nhở các em chú trọng hơn đến việc sửa bài trước khi nộp. @ Ví dụ: Đề bài: Cảm nghĩ về nụ cười của mẹ. * Bước 1: Tìm hiểu đề và tìm ý: - Tìm hiểu đề: + Thể loại: phát biểu cảm nghĩ. + Đối tượng: nụ cười của mẹ. - Tìm ý: + Nụ cười biểu hiện của tình yêu thương trìu mến, tha thiết của mẹ. + Nụ cười khích lệ. + Nụ cười an ủi động viên. + Nụ cười lúc mẹ vui, khi con thành đạt, biết vâng lời. + Nhớ, buồn, lo lắng. + Chăm ngoan, học giỏi, vâng lời. * Bước 2: Lập dàn ý: - Mở bài: Nêu cảm xúc khi được nụ cười của mẹ: nụ cười ấm lòng.
  8. - 8 - - Thân bài: Nêu các biểu hiện sắc thái nụ cười của mẹ: + Nụ cười vui, yêu thương. + Nụ cười khuyến khích. + Nụ cười an ủi. + Khi vắng nụ cười của mẹ. - Kết bài: Lòng yêu thương và kính trọng mẹ. * Bước 3: Viết bài: * Bước 4: Sửa bài: Ngoài ra, để dạy tốt văn biểu cảm, giáo viên nên chú ý trước tiên đến việc đổi mới cách ra đề. Từ đề tài chung cho cả lớp (có tính định hướng chung), phải thực hiện quá trình cá thể hóa (quá trình hướng dẫn mỗi học sinh đi từ đề tài chung cho cả lớp đến việc xác định đề tài riêng, phù hợp với vốn sống, với tình cảm, cảm xúc riêng của mỗi học sinh). @Ví dụ: Cho đề “Cảm nghĩ về ngày đầu tiên bước chân vào trường THCS”. Với đề bài này, đề tài chung là cảm nghĩ của học sinh về ngày đầu tiên bước chân vào trường THCS; còn đề tài riêng là mỗi em sẽ có cách nhìn nhận, suy nghĩ, ấn tượng riêng, thể hiện tình cảm, cảm xúc riêng biệt. Một lí luận sư phạm tôi đã rút ra được trong quá trình giảng dạy, đó là: “Giáo viên không được bắt học sinh viết bài văn biểu cảm về đề tài các em chưa được sống, chưa có hiểu biết, chưa có cảm xúc nếu giáo viên muốn học sinh làm tốt yêu cầu mình đưa ra”. @Ví dụ: Cho đề “Cảm nghĩ về cây phong”. Đối tượng mà đề yêu cầu nêu cảm nghĩ còn xa lạ với học sinh. Mặt khác, khi chấm bài làm văn biểu cảm của học sinh, giáo viên nên coi trọng tính cá biệt, sự độc đáo trong suy nghĩ, rung động có trong nội dung hơn là độ dài của bài. Nếu bài văn biểu cảm của các em chỉ cần có được một, hai cảm
  9. - 9 - nhận hoặc một, hai nội dung có sắc thái tình cảm riêng, các thầy cô giáo nên trân trọng, biểu dương và tỏ thái độ đánh giá cao qua cách cho điểm. Điều quan trọng nữa là giáo viên cần hướng dẫn, khuyến khích học sinh đọc sách, bắt đầu từ việc đọc các văn bản trong SGK. Thực tế cho thấy học sinh rất lười đọc sách dẫn đến đọc yếu, gây khó khăn cho việc cảm thụ văn bản. Chính vì thế, giáo viên cần khơi nguồn và nuôi dưỡng thói quen đọc sách của học sinh bằng cách: trong mỗi tiết dạy giáo viên lấy dẫn chứng, ví dụ, trích các câu nói, đoạn thơ, đoạn văn hay từ các sách tham khảo, sách nâng cao, các tác phẩm văn học và cho các em trực tiếp nhìn thấy. Khi giáo viên làm được như thế, không cần phải “khua chiêng gõ mõ”, tự các em sẽ tìm đến với sách, làm bạn với sách. Một học sinh muốn học tốt văn biểu cảm cần phải có kĩ năng diễn đạt trôi chảy, hấp dẫn. Giáo viên nên giao các bài tập rèn viết ở nhà cho học sinh sau mỗi tiết học. Đặc biệt, giáo viên nên hướng dẫn các em cách viết nhật kí để giúp các em nuôi dưỡng tình cảm đẹp khi còn ngồi trên ghế nhà trường. 2. Đối với học sinh: Để học tốt văn biểu cảm, cần biết tạo nên cảm xúc, bởi cảm xúc là sự cảm thụ của trái tim, của tấm lòng và tình cảm người học. Các em hãy đến với giờ văn bằng trái tim, bằng tấm lòng của mình thì những cung bậc tình cảm vui, buồn, thương, hờn giận từ bài giảng của thầy cô sẽ đi vào lòng các em. Các em sẽ biết thương cảm những số phận bất hạnh, biết căm ghét sự bất công, cái xấu, cái ác; biết yêu thiên nhiên hoa cỏ, yêu quê hương đất nước, “Người với người sống để yêu nhau”. (Tố Hữu) Để làm tốt một bài văn biểu cảm, khi làm bài, trước tiên, các em cần định rõ cho mình các yêu cầu cụ thể để biến đề tài chung cho cả lớp thành đề bài của riêng mình. Sau đó, cần xác định rõ những tình cảm cảm xúc, những rung động nào là mạnh mẽ, là riêng của mình. Hãy tập trung trình bày những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ đó một cách trực tiếp hoặc gián tiếp (qua miêu tả cảnh vật, qua một câu chuyện ). Các em cần chú ý đến sự riêng biệt, độc đáo của nội dung
  10. - 10 - hơn là ham viết dài. Đồng thời, cần lựa chọn các từ ngữ, hình ảnh (so sánh ví von, so sánh ngầm ) thích hợp để diễn tả những tình cảm, cảm xúc, suy nghĩ của mình. Điểm quan trọng nhất để làm bài văn biểu cảm đạt kết quả cao là tự bản thân các em hãy tích cực đọc sách, tích cực tham gia các hoạt động trong nhà trường, ngoài xã hội để có thêm vốn sống, vốn hiểu biết. Qua đó, các em cần chú ý rèn luyện cho tâm hồn mình trở nên chứa chan những tình cảm yêu, ghét, buồn, thương, hờn giận, nhớ nhung dạt dào những suy nghĩ đẹp đẽ cao thượng về tình bạn, tình yêu thương cha mẹ thầy cô, yêu quê hương đất nước Đó là cái gốc to, là những chùm rễ sâu cung cấp chất bổ dưỡng cho cây văn biểu cảm luôn xanh tươi, nở hoa, kết trái. IV. Kết quả: Qua một năm rút kinh nghiệm và thay đổi, áp dụng những giải pháp nêu trên tôi nhận thấy chất lượng dạy và học văn biểu cảm ở môn Ngữ văn khối 7 năm học 2017 – 2018 được nâng cao rõ rệt. Ở phương diện là một giáo viên trực tiếp đứng lớp giảng dạy, tôi thấy mình vững vàng hơn trong chuyên môn, tự tin say mê hơn với sự nghiệp trồng người. Ai đó đã từng nói “Nghiệp văn là nghiệp khổ” nhưng tôi chẳng thấy khổ chút nào mà ngược lại, tôi thấy mình sung sướng hạnh phúc vì được cống hiến, góp sức mình làm đẹp cho đời. Đối với các em học sinh, các em bước đầu đã ý thức được tầm quan trọng của môn văn, biết bộc lộ cảm xúc của mình đúng cách, đúng nơi, đúng lúc. Số lượng học sinh có kĩ năng làm văn biểu cảm tốt khá nhiều. Cụ thể, thống kê điểm trung bình môn Ngữ văn của lớp 72 (học kì II, năm học 2017 – 2018) là rất khả quan: Tổng số Giỏi Khá Trung bình Yếu Kém học sinh (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) (Tỉ lệ) 9 11 10 0 0 30 (30%) (36,7%) (33,3%) (00%) (00%) PHẦN 3: KẾT LUẬN
  11. - 11 - I. Kết luận chung: Có lẽ trong nhà trường không có môn khoa học nào có thể thay thế được môn Ngữ văn. Đó là môn học vừa hình thành nhân cách vừa hình thành tâm hồn. Trong thời đại hiện nay, khoa học kĩ thuật phát triển rất nhanh, môn Ngữ văn sẽ giữ lại tâm hồn con người, giữ lại những cảm giác nhân văn để con người tìm đến với con người, trái tim hòa cùng nhịp đập trái tim. Sau khi nghiên cứu, tham khảo sáng kiến kinh nghiệm này, bản thân người dạy và người học sẽ có cái nhìn mới mẻ, tích cực hơn về phương pháp dạy và học văn biểu cảm. Từ đó, rất hi vọng kết quả học văn của các em sẽ tốt hơn, các em sẽ yêu thích, ham mê môn Ngữ văn hơn nữa. II. Kiến nghị: Để nâng cao hiệu quả rèn luyện kĩ năng viết văn biểu cảm cho học sinh, tôi có một vài kiến nghị như sau: - Giáo viên trực tiếp giảng dạy cần quan tâm hướng dẫn cho học sinh rèn luyện viết văn biểu cảm theo từng bước từ dễ đến khó, hướng dẫn cụ thể từng kiểu bài biểu cảm khác nhau, biết khơi gợi cảm xúc cho các em. - Học sinh cần tích cực rèn luyện, thực hiện đúng quy trình, các bước làm bài văn biểu cảm, cần nắm kĩ cách làm đối với từng kiểu bài biểu cảm; biết vận dụng các kĩ năng làm văn biểu cảm vào quá trình làm bài một cách hiệu quả nhất./. An Thạnh Tây, ngày 10 tháng 10 năm 2018 Người thực hiện Phạm Văn Hữu