Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc Lớp 5

docx 11 trang Đinh Thương 15/01/2025 130
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc Lớp 5", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_giai_phap_ren_doc_dien_cam_nham.docx

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số giải pháp rèn đọc diễn cảm nhằm nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc Lớp 5

  1. từng từ, từng câu, từng đoạn văn; lựa chọn các hình thức dạy học phù hợp với từng bài, từng phần; sưu tầm tranh ảnh, chuẩn bị đồ dùng dạy học đầy đủ, phù hợp với nội dung bài tập đọc. Một công việc không thể thiếu trước khi lên lớp đó là phân loại học sinh để từ đó có biện pháp rèn đọc diễn cảm phù hợp với từng đối tượng. Từ kết quả khảo sát thực tế, tôi đã tiến hành phân loại học sinh với các nhóm như sau: Nhóm 1: Học sinh đọc chưa trôi chảy, lưu loát, đọc còn nhỏ Nhóm 2: Học sinh đọc to, rõ ràng, lưu loát, chưa biết đọc diễn cảm Nhóm 3: Học sinh biết đọc diễn cảm Từ 3 nhóm đó, tôi tiến hành sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh. Những em đọc còn yếu ngồi cạnh những em đọc khá, đọc tốt để thực hiện đôi bạn cùng tiến, cùng giúp đỡ nhau luyện đọc. Giáo viên phải nắm kĩ khả năng, mức độ đọc của từng học sinh cụ thể. Sau đó, tiến hành giới thiệu cấu tạo chương trình môn Tập đọc để các em nắm được các chủ đề chính trong từng học kì và cả năm học. Đồng thời nêu cho học sinh rõ tầm quan trọng và những yêu cầu cơ bản của việc rèn luyện kỹ năng đọc diễn cảm giúp các em cảm thụ bài văn, bài thơ ở mỗi bài tập đọc của từng chủ đề. Để đảm bảo cho tiết dạy hiệu quả, không thể thiếu sự chuẩn bị của học sinh. Trước khi học mỗi tiết tập đọc, tôi dặn học sinh phải đọc bài nhiều lần ở nhà cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối tượng học sinh. 2.2.2. Trong khi dạy a. Hướng dẫn học sinh đọc đúng âm, vần, dấu thanh. Để đọc diễn cảm tốt, trước hết cần phải đọc đúng. Đọc đúng là phát âm đúng hệ thống ngữ âm chuẩn, là sự tái hiện mặt âm thanh của bài đọc một cách chính xác, không có lỗi, đọc không thừa, không thiếu từng âm, vần, tiếng. Để học sinh luyện đọc đúng, giáo viên phải dự tính được các lỗi mà học sinh thường mắc phải, chú ý nghe học sinh đọc để nhận xét, gợi ý, sửa sai, hướng dẫn về cách phát âm, ngắt, nghỉ hơi hợp lý hay về tốc độ đọc sao cho phù hợp. Chú ý sửa sai các âm mà học sinh thường mắc phải như âm s/x, c/t, nh/gi, d/nh, Đối với các vần khó mà học sinh thường đọc sai, giáo viên ghi lên bảng từng vần, đọc mẫu cho học sinh đọc lại, sửa lỗi kịp thời cho học sinh. Các vần học sinh thường đọc sai như ươi/ưi, iêu/iu, oeo/eo, ươn/ương, ênh/inh,inh/in,
  2. Bên cạnh việc chú trọng luyện đọc đúng âm, vần, giáo viên cần luyện cho học sinh đọc đúng dấu thanh. Học sinh tiểu học vẫn còn có em chưa phát âm đúng, đọc đúng dấu thanh do nhiều yếu tố mang lại. Trong đó có yếu tố do đặc điểm khu vực vùng miền mà các em sinh sống. Dấu thanh mà học sinh ở Huế thường đọc sai đó là thanh hỏi/thanh ngã Ví dụ 1: Khi dạy bài Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà- Tiếng Việt lớp 5 – Tập 1 - Giáo viên đưa ra các tiếng mà có dấu thanh hay lẫn. - Giáo viên gọi một số học sinh đọc. Học sinh khác nhận xét bạn đọc đúng dấu thanh chưa. Giáo viên đọc mẫu và phân tích cho học sinh. Chẳng hạn như: “Ngẫm nghĩ” thanh ngã, không đọc là “Ngẩm nghỉ” thanh hỏi “Bỡ ngỡ” thanh ngã, không đọc là “Bở ngở” thanh hỏi b. Hướng dẫn học sinh đọc đúng ngữ điệu. Đọc đúng ngữ điệu bao gồm lên giọng, xuống giọng, nhấn giọng, chuyển giọng, ngắt hơi, cường độ và cả trường độ của giọng đọc Như vậy đọc đúng ngữ điệu là đúng về ý nghĩa, nội dung của từ, câu, đoạn đúng phong cách và chức năng của văn bản. Đọc thế nào để người nghe thấy được cái hay, cái đẹp của nội dung và nghệ thuật của bài đọc. Đọc đúng ngữ điệu là thể hiện hài hòa về âm hưởng của bài đọc. Nó có giá trị lớn để bộc lộ cảm xúc vì vậy đọc đúng ngữ điệu rất quan trọng, giúp học sinh bước đầu thâm nhập vào văn bản, làm việc với văn bản, tạo cảm xúc cho học sinh Vì thế, để rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần chú ý rèn luyện cho học sinh đọc đúng ngữ điệu. Chẳng hạn khi học sinh đọc giáo viên hướng dẫn cụ thể, từng thể loại như sau: + Hướng dẫn cách ngắt, nghỉ hơi Ví dụ 2: * Khi dạy bài tập đọc Trồng rừng ngập mặn, giáo viên hướng dẫn: Nghỉ hơi dài hơn sau dấu ba chấm trong câu: Nhưng do nhiều nguyên nhân như chiến tranh, các quá trình quai đê lấn biển, làm đầm nuôi ,một phần rừng ngập mặn đã mất đi.
  3. * Khi dạy bài Đất Cà Mau, giáo viên hướng dẫn: Nghỉ hơi đúng chổ; biết đọc liền mạch một số cụm từ trong câu: Đước mọc san sát đến tận mũi đất cuối cùng, /thẳng đuột như hằng hà sa số cây dù xanh cắm trên bãi. Ví dụ 3: Khi dạy bài Hành trình của bầy ong Giáo viên hướng dẫn: Thể thơ lục bát cần đọc giọng thong thả, trầm tĩnh, sâu lắng. Sự ngắt nhịp của câu thơ rất đa dạng, phù hợp với nội dung của từng câu như sau: Bầy ong rong ruổi trăm miền Rù rì đôi cánh/nối liền mùa hoa.// Chắt trong vị ngọt/ mùi hương// Lặng thầm thay/ những con đường ong bay.// Trải qua mưa nắng vơi đầy Men trời đất/ đủ làm say đất trời.// Bầy ong giữ hộ cho người Những mùa hoa/ đã tàn phai tháng ngày// Câu thì nhịp 3/5, câu thì 4/4 và câu lại nhịp 4/2 . Khi dạy, chúng ta cho học sinh thấy được sự ngắt nhịp cũng như sự gieo vần của các dòng thơ. Thơ lục bát thường tiếng thứ 6 của câu 6 gieo vần với tiếng thứ 6 của câu thứ 8 (Vần “ương” của tiếng “ hương” gieo với vần “ương” của tiếng “đường”, ) + Hướng dẫn đọc các câu đối thoại, lời nhân vật. Thông qua việc đọc câu đối thoại, học sinh biết thể hiện ngữ điệu, sự thay đổi tốc độ, cao độ, cường độ, trường độ phù hợp với từng loại câu kể, câu hỏi, cảm cảm, câu khiến . Ví dụ 4: Khi dạy bài Lòng dân - Tiếng Việt 5 –Tập 1. Để học sinh biết đọc lời của nhân vật, tôi hướng dẫn cụ thể như sau: Yêu cầu học sinh đọc thầm toàn bài một lượt. Giáo viên hỏi: - Bài có mấy nhận vật? Đó là những nhận vật nào?
  4. - Nêu tính cách của từng nhân vật. - Lời của từng nhân vật đọc như thế nào? - Giáo viên đọc mẫu lời của từng nhân vật. Lời của dì Năm và chú cán bộ : bình tĩnh, tự nhiên: “Ba nó để chỗ nào?” Lời của An: thật thà, hồn nhiên: “Dạ, cháu kêu bằng ba, chứ hổng phải tía.” Lời của cai và lính: - Dịu giọng (lúc mua chuộc, dụ dỗ): “Ờ, giỏi ! vậy là ai nào ?” - Khi hống hách (Lúc dọa dẫm) : “Thằng ranh ! Giấy tờ đâu, đưa coi!” - Lúc lại ngọt ngào để xin ăn: “Nhà có vịt gà gì không, chị Hai ? Cho một con nhậu chơi hà!” Sau khi hướng dẫn và đọc mẫu, giáo viên cho học sinh đọc phân vai. Ví dụ 5: Dạy bài tập đọc Chuỗi ngọc lam Khi đọc đoạn miêu tả chi tiết thể hiện sự ngây thơ , hồn nhiên của của cô bé , giáo viên lưu ý học sinh sự thay đổi giọng đọc như sau : - Cháu có thể xem chuỗi ngọc lam này không ạ? ( Câu hỏi thể hiện sự ngây thơ) - Đẹp quá ! Xin chú gói lại cho cháu!( Câu cảm thể hiện sự thích thú ) - Ai sai cháu đi mua?( Câu hỏi thể hiện sự ngạc nhiên) - Cháu có bao nhiêu tiền? ( câu hỏi thể hiện sự tò mò. ) - Đừng đánh rơi nhé !( Câu khiến thể hiện sự đề nghị, mệnh lệnh kèm sự lo lắng, quan tâm ) Trong đoạn đọc diễn cảm, tôi cũng lưu ý học sinh, đối với bài văn xuôi ngoài việc đọc tốt các câu chúng ta còn phải biết ngắt hơi ở chỗ không có dấu câu nhưng chỗ đó là chỗ tách ý. + Hướng dẫn đọc nhấn giọng các từ ngữ, hình ảnh quan trọng. Qua việc nhấn giọng các từ ngữ, hình ảnh quan trọng nhằm thể hiện ngữ điệu phù hợp tình huống miêu tả hay thái độ cảm xúc của tác giả ( vui, buồn, nghiêm trang, giận dữ, )
  5. Để giúp học sinh bước đầu biết làm chủ giọng đọc, nhấn giọng những từ gợi tả, gợi cảm, từ ngữ chìa khóa làm nổi bật ý chính trong câu. Tôi hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm thông qua việc dẫn dắt, gợi mở giúp các em thể hiện tình cảm, thái độ qua giọng đọc phù hợp với sự việc, hình ảnh, cảm xúc, tính cách nhân vật trong bài , Ví dụ 6: Bài Tập đọc Buôn Chư Lênh đón cô giáo Khi đọc đoạn 3, đoạn 4 tôi gợi ý “Những chi tiết cho thấy dân làng rất háo hức chờ đợi và yêu quý “ cái chữ” được tác giả miêu tả rất sinh động, khi đọc đoạn này các em cần nhấn giọng vào những từ ngữ nào? Từ đó, học sinh biết nhấn giọng vào những từ ngữ thể hiện nguyện vọng tha thiết của người Tây Nguyên mong muốn học hỏi để thoát nghèo và xây dựng quê hương. “ Rồi giọng già vui hẳn lên: - Bây giờ cho người già xem cái chữ của cô giáo đi! Bao nhiêu tiếng người cùng ùa theo: - Phải đấy ! Cô giáo cho lũ làng xem cái chữ nào! Mọi người im phăng phắc . Y Hoa nghe rõ cả tiếng đập trong lồng ngực minh Y Hoa viết xong , bỗng bao nhiêu tiếng cùng hò reo: - Ôi , chữ cô giáo này ! Nhìn kìa ! - A, chữ, chữ cô giáo!” Hoặc khi đọc đoạn cuối miêu tả tình cảm và sự thích thú của dân làng với “ cái chữ” Hướng dẫn học sinh đọc đoạn đó với giọng vui, nhấn giọng một số từ ngữ gạch chân , gợi cảm thể hiện sự trân trọng, kính phục và thích thú của dân làng đối với tình yêu cái chữ , yêu cô giáo. Ví dụ 7. Khi dạy bài Chuỗi ngọc lam Khi hướng dẫn đọc đoạn 3: Nhấn giọng từ ngữ gợi tả sự xúc động, niềm vui sướng của cô bé và thể hiện giọng buồn trước mất mát của Pi-e Cô bé mỉm cười rạng rỡ , chạy vụt đi. Cô đâu biết chuỗi ngọc này Pi-e dành để tặng vợ chưa cưới của mình, nhưng rồi một tai nạn giao thông đã cướp mất người anh yêu quý 2.2.3. Sau khi hướng dẫn
  6. Sau khi học sinh được hướng dẫn luyện đọc diễn cảm, giáo viên tiếp tục tổ chức cho học sinh luyện đọc diễn cảm nhóm đôi, cùng nhau sửa lỗi, sau đó tổ chức thi đua đọc diễn cảm giữa từng cá nhân, từng nhóm. Giáo viên động viên, khuyến khích kịp thời những nỗ lực của học sinh cho dù đó là những nỗ lực nhỏ nhất. Dặn dò học sinh về nhà tiếp tục luyện đọc diễn cảm. Trong quá trình dạy học, không chỉ ở phân môn Tập đọc mà cả ở những môn hay phân môn khác, giáo viên tiếp tục theo dõi, nhắc nhở, động viên học sinh tiếp tục rèn luyện năng lực đọc, khả năng biểu cảm của mình để ngày càng hỗ trợ tốt hơn cho phân môn Tập đọc. III. HIỆU QUẢ DO SÁNG KIẾN ĐEM LẠI 1. Hiệu quả kinh tế 2. Hiệu quả xã hội Qua quá trình giảng dạy ( từ đầu tháng 10 năm 2020 đến tháng 5 năm 2021), nhờ đã kiên trì, bền bỉ áp dụng những giải pháp rèn đọc như đã nêu trên, tôi nhận thấy hiệu quả giờ dạy được nâng lên rõ rệt. Học sinh hứng thú học tập và hoạt động tich cực hơn. Các em đã mạnh dạn, tự tin hơn khi đọc bài. Số em đọc sai lỗi giảm hẳn trong khi số em đọc lưu loát và diễn cảm được nâng lên rõ rệt. Tôi đã thu được những kết quả bước đầu, điều đó được thể hiện qua bảng số liệu sau: Đọc diễn cảm Đọc chưa diễn cảm Thể loại Thời gian SL TL SL TL Văn xuôi 7 25,9% 20 74,1% Đầu năm học Thơ 10 37,0% 17 63,0% Cuối năm học Văn xuôi 17 63,0% 12 37,0% Thơ 20 74,0% 12 26,0% So sánh kết quả nêu trên tôi nhận thấy rằng : Việc áp dụng một số biện pháp rèn đọc diễn cảm cho các em đã mang lại một kết quả khả quan – khả năng đọc( đặc biệt là đọc diễn cảm) của lớp tôi nâng lên rõ rệt. Tôi thiết nghĩ nếu giáo viên áp dụng các biện pháp dạy học này ở lớp thì chắc chắn chất lượng đọc của các em sẽ
  7. được nâng lên. Tuy kết quả thu lại của lớp tôi chưa phải là cao nhưng phần nào đã nói lên tính hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm này. Người viết sáng kiến Trần Thị Sợi