SKKN Giải pháp đổi mới nâng cao giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ Lớp 4 tuổi A trường Mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Giải pháp đổi mới nâng cao giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ Lớp 4 tuổi A trường Mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_giai_phap_doi_moi_nang_cao_giao_duc_ky_nang_tu_bao_ve_b.docx
Nội dung tóm tắt: SKKN Giải pháp đổi mới nâng cao giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ Lớp 4 tuổi A trường Mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải
- 4 Nghề nghiệp - Không chơi với 1 số dụng cụ nghề gây Tháng 11 nguy hiểm 5 Động vật - Tránh xa 1 số con vật gây nguy hiểm Tháng 12 6 Thực vật- tết và mùa - Đảm bảo an toàn, không leo trèo lên cây Tháng 01 xuân 7 Phương tiện giao thông - Biết chấp hành và thực hiện theo quy định của một Tháng 03 số biển báo giao thông cơ bản. Biết cách đội và tháo mũ bảo hiểm 8 Hiện tượng tự nhiên - Ăn uống vệ sinh trong ngày tết Tháng 02 9 Quê hương đất nước - Không chơi những nơi nguy hiểm: ao, hồ, sông, Tháng 04 suối Tháng 05 - An toàn khi đi du lịch Thông qua bảng kế hoạch xây dựng các nội dung giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ, tôi đã đưa ra một số kỹ năng cần thiết để giáo dục trẻ trong những hoạt động cụ thể giúp trẻ hình thành kỹ năng ứng phó khi gặp vấn đề nguy hiểm trong quá trình sống của trẻ. * Bước 2: Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kỹ năng cơ bản * Ví dụ 1: Đối với kỹ năng “Dạy trẻ không chơi với những đồ vật nguy hiểm” Tôi tiến hành dạy trẻ ở chủ đề “ Gia đình” tôi đã xây dựng thành hoạt động học cụ thể như sau: - Đầu tiên tôi sẽ phân loại ra các nội dung, đồ dùng cần cung cấp cho trẻ trong tiết dạy (dưới dạng tranh ảnh) và chia lớp làm 02 nhóm để thảo luận: + Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế. + Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga, bật lửa. Trẻ thảo luận xong tôi mời đại diện các nhóm lên giới thiệu trình bày những hiểu biết về các đồ dùng, cách xử lý của nhóm mình cho các nhóm còn lại xem. Sau mỗi lần giới thiệu tôi sẽ đăt hệ thống các câu hỏi để cả lớp khám phá: - Nhóm thảo luận về đồ dùng sắc nhọn: dao, kéo, đinh, cạnh bàn, cạnh ghế (Phụ lục 1) + Các con có nhận xét gì về các đồ dùng này? + Điều gì sẽ xảy ra nếu các con tự ý dùng dao, kéo?
- + Khi nào thì các con được dùng kéo? Và phải dùng như thế nào? + Các con phải làm gì khi chơi gần cạnh bàn, cạnh ghế? - Nhóm thảo luận về đồ dùng gây bỏng, giật: ấm nước sôi, ổ điện, bếp ga ghế (Phụ lục 2) + Đối với những đồ dùng này thì các con phải làm sao? (Tránh xa) + Vì sao lại phải tránh xa? + Điều gì sẽ xảy ra khi các con nghịch ấm nước sôi hay cho tay vào ổ điện? + Ai sẽ là người được dùng những đồ vật này? Tiếp theo tôi sử dụng các trò chơi để nhằm khắc sâu hơn cho trẻ những kiến thức trẻ vừa được học như trò chơi “Gạch bỏ các hành vi sai”. Ví dụ 2: Đối với kỹ năng dạy trẻ đội mũ bảo hiểm đúng cách: - Đầu tiên tôi sẽ cho trẻ xem 1 số hình ảnh khi người ngồi trên xe máy: người đội mũ bảo hiểm, người không đội mũ bảo hiểm, đội mũ bảo hiểm nhưng không cài dây quai.(phụ lục 3) Sau đó đàm thoại cùng trẻ: + Các con vừa nhìn thấy những gì? + Theo các con hành vi nào đúng? Hành vi nào sai khi tham gia giao thông? + Để đảm bảo an toàn khi tham gia giao thông các con phải làm gì? + Vậy làm thế nào để đội mũ bảo hiểm đúng cách? - Bước tiếp theo tôi chia lớp thành 3 đội chọn quy trình các bước đội mũ bảo hiểm vào băng cài theo suy nghĩ của trẻ +B1: Cầm mũ bảo hiểm và xác định phía trước, phía sau của mũ bảo hiểm +B2: Lật ngửa mũ bảo hiểm và kéo dây quai sang 2 bên +B3: Đội mũ bảo hiểm lên đầu +B4: Cài chặt 2 dây quai cho vừa khít với cằm -Mời đại diện 3 đội lên nói trình tự các bước đội mũ bảo hiểm đồng thời tôi giáo dục trẻ: Khi các con được người lớn chở đi học, đi chơi các con nhớ phải đội mũ bảo hiểm và phải đội đúng cách để bảo vệ an toàn cho bản thân . Sau đó, tôi cho trẻ tự đội mũ bảo hiểm đúng cách. (Phụ lục 4) Đối với các tiết học tôi đã xây dựng, các câu hỏi phải thật sự ngắn gọn dễ hiểu đối với trẻ, câu hỏi mang tính gợi mở, giúp trẻ suy nghĩ để trả lời. Đồng thời để tiết dạy mang lại hiệu quả tôi đã sử dụng hình thức làm việc nhóm nhằm giúp trẻ có được sự tự tin mạnh dạn trong quá trình học tập. Sau mỗi bài học tôi thường chọn nhiều trò chơi ôn luyện: trò chơi “gắn hành vi đúng-sai”, “ai nhanh hơn” để giúp trẻ nhớ lâu những kiến thức đã học.
- * Bước 3: Thường xuyên sử dụng các tình huống giả định để dạy trẻ các kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Trong cuộc sống có rất nhiều tình huống xảy ra có thể đe dọa đến sự an toàn của trẻ, vì trẻ cần có các kỹ năng cần thiết để tránh được sự nguy hiểm. Nhận thức được điều này tôi đã đưa ra nhiều tình huống cụ thể, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, tôi hướng dẫn phân tích, giải thích và cùng trẻ tìm ra cách giải quyết tốt nhất. Sau đây là một số tình huồng tôi đã áp dụng. + Tình huống thứ nhất: Khi có người lạ cho bánh, kẹo và rủ đi chơi thì trẻ sẽ xử lý như thế nào? (Phụ lục 5) - Cho trẻ suy nghĩ, trẻ đưa ra ý kiến của mình, cô gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi. - Tiếp theo phân tích, giải thích và giúp trẻ có phương án giải quyết như: biết cách từ chối nhưng vẫn thể hiện sự lễ phép, ngoan ngoãn “ Cháu cảm ơn, nhưng bố mẹ cháu không cho nhận quà của người lạ”. - Tôi đặt giả thiết nếu đã từ chối nhưng người lạ vẫn một mực dúi quà vào tay và có ý lôi kéo thì lúc đó trẻ sẽ làm gì?Với giả thiết này tôi muốn trẻ có phản ứng thật nhanh như hét to, cấu thật mạnh vào tay người lạ và chạy nhanh đến người thân gần đó hoặc chỗ đông người. Mời trẻ lên đóng vai, một cô giáo khác đóng vai người lạ. Thông qua vai trẻ đóng trẻ sẽ ứng phó với tình huống theo sự hiểu biết của bản thân, từ đó giúp trẻ khắc sâu hơn những kinh nghiệm mà trẻ có được + Tình huống thứ 2: Bị lạc bố mẹ khi đi xem lễ hội, siêu thị, khu vui chơi. (phụ lục 6) Tôi cho trẻ suy nghĩ, mỗi trẻ sẽ đưa ra cách giải quyết của riêng trẻ. Gợi mở cho trẻ bằng các câu hỏi: -Theo con làm vậy có được không tại sao? Sau đó, cô giúp trẻ rút ra phương án tối ưu nhất: Khi bị lạc bé hãy bình tĩnh, không khóc hay la hét và chạy lung tung mà hãy đứng yên một chỗ chờ. Vì bố, mẹ sẽ có thể quay lại chỗ đó để tìm bé. Hoặc bé có thể tìm đến những người mặc đồng phục giống nhau có đeo bảng tên, hoặc nhờ bảo vệ, cô bán hàng để giúp đỡ gọi điện thoại, hoặc thông báo lên loa để tìm bố mẹ. Tuyệt đối không đi theo người lạ dù người đó có hứa sẽ đưa về với bố mẹ, vì có thể đó là người xấu lợi dụng và sẽ bắt cóc con. * Bước 4: Thường xuyên đưa nội dung giáo dục kỹ năng tránh bị xâm hại cơ thể vào dạy cho trẻ - Xâm hại trẻ em là bất kỳ hành động nào có chủ ý làm tổn thương trẻ em gây ra những tổn thương nghiêm trọng cả về thể xác và tâm lý đối với nạn nhân. Những hậu quả đó cũng ảnh hưởng đến gia đình, cộng đồng và toàn xã hội. Để đảm bảo cho trẻ có những kiến thức cơ bản về vấn đề bảo vệ thân thể cũng như cách phòng tránh khi bị xâm hại cơ thể.
- -Với chủ đề "Bản thân" tôi dạy trẻ nhận biết các bộ phận trên cơ thể, giáo dục trẻ những bộ phận không ai được đụng đến ngoài bố, mẹ, anh chị em trong gia đình. Đối với trẻ 4-5 tuổi các cháu chưa thể hiểu được tên gọi các bộ phận thể hiện giới tính, tôi cũng không thể sử dụng tên gọi bộ phận sinh dục nam- nữ trong y khoa để nói với trẻ. Chính vì vậy trong quá trình giảng dạy tôi đã sử dụng búp bê trai , búp bê gái mặc đồ bơi, những bộ phận cơ thể được đồ bơi che là các bộ phận riêng tư, vùng kín là nơi con nên tôn trọng, giữ gìn vệ sinh không nên để mọi người thấy bộ phận riêng tư của mình và đặc biệt tuyệt đối không cho bất cứ ai động vào cũng như không được đụng chạm vào, bộ phận riêng tư, vùng kín của bất cứ ai, của bất cứ bạn nào trong lớp. (phụ lục 7) Bên cạnh đó tôi luôn quan tâm đến việc gần gũi, trò chuyện cùng trẻ giúp trẻ chia sẻ cách cháu giữ gìn vệ sinh thân thể vệ sinh bộ phận riêng tư( thường xuyên tắm rửa) cũng như mạnh dạn chia sẻ với cô về những hành động không nên của bạn cùng lớp đối với cơ thể mình( đặc biệt một số hành động của bé trai đối với bé gái khi ở lớp). Điều này trong quá trình giảng dạy đã có rất nhiều giáo viên từng gặp phải, mặc dù người lớn chúng ta thường quan niệm rằng trẻ nhỏ như tờ giấy trắng, trẻ chưa biết gì. Tuy nhiên với bản thân là một giáo viên cũng là một người mẹ tôi thiết nghĩ, nếu chúng ta không ngăn chặn những hành động này thì vô hình dung giáo viên chúng ta đã giúp trẻ nghĩ rằng hành động xâm hại cơ thể của bạn cùng giới hay khác giới là không có gì sai. Chính vì vậy song song việc giúp trẻ hiểu về giới tính của bản thân, về vùng riêng tư của trẻ, tôi còn đề ra một số qui định ở lớp như: Đi vệ sinh đúng nơi qui định( phòng vệ sinh nam-nữ riêng) Bạn trai không được nhìn bạn gái khi đi vệ sinh, khi thay đồ và ngược lại Không được nghịch, chơi đùa với bộ phận riêng tư của mình Ngoài ra, tôi còn dạy trẻ học cách tự bảo vệ bản thân theo quy tắc "Năm ngón tay" . Các nội dung trong quy tắc được viết thành bài hát “ Năm ngón tay xinh” - Quy tắc 5 ngón tay như sau: (phụ lục 8) Ngón cái - gần mình nhất tượng trưng cho những người thân ruột thịt trong gia đình như ông bà, bố mẹ, anh chị em ruột. Bé có thể ôm hôn những người này hoặc đồng ý để cho thành viên trong gia đình ôm hôn để thể hiện tình yêu, tắm rửa cho bé khi bé còn nhỏ. Nhưng khi đã lớn thì bé sẽ tự tắm và thay quần áo trong phòng. Ngón trỏ - tượng trưng cho thầy cô, bạn bè trong trường, lớp hoặc họ hàng trong gia đình những người này có thể nắm tay hoặc chơi đùa song chỉ dừng lại ở đó nhưng chạm vào "vùng đồ bơi" bé sẽ hét to và gọi mẹ. Ngón giữa - người quen biết nhưng ít khi gặp như hàng xóm bạn bè của cha mẹ, những người này bé chỉ cần bắt tay, cười, chào hỏi. Ngón áp út - người quen của gia đình mà bé gặp lần đầu với những người này bé chỉ cần dừng lại ở mức độ vẫy tay chào. Ngón út - ngón tay xa bé nhất thể hiện những người hoàn toàn xa lạ hoặc
- người có cử chỉ thân mật, khiến bé thấy lo sợ, bất an đối với những người này bé hoàn toàn có thể bỏ chạy hét to để thông báo với người xung quanh. Bên cạnh đó tôi xây dựng các bước phòng tránh xâm hại cơ thể giúp trẻ ghi nhớ và thực hiện bằng cách đưa ra tình huống nếu ai đó cố tình nhìn, nói, đụng chạm vào vùng kín của con hoặc yêu cầu con nhìn và đụng chạm vùng kín của họ thì các con sẽ làm gì? Bước 1: Phản đối nói “Không”, xua tay, cắn thật mạnh tay, vai kẻ xấu Bước 2: Bỏ chạy (chạy thật nhanh đến nơi đông người, đồng thời hô to để mọi người chú ý đến mình). Bước 3:Kể lại tất cả câu chuyện mà người xấu đã làm với con với bố mẹ và những người các con tin cậy để người lớn kịp thời can thiệp và bảo vệ các con được an toàn hơn. * Bước 5: Tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân. Ngoài việc giáo dục kỹ năng tự bảo vệ trên lớp, tôi còn kết hợp chặt chẽ với cha mẹ trẻ nhằm giúp các cháu có được kỹ năng tự bảo vệ tốt nhất, đảm bảo sự an toàn cho trẻ ở trường cũng như ở nhà, ở ngoài xã hội. Tôi dành thời gian phù hợp trong giờ đón, trả trẻ để trao đổi những thông tin, hoặc cung cấp thông tin cho phụ huynh liên quan đến sự an toàn của trẻ hàng ngày(phụ lục 9). Tuyên truyền ở bảng tuyên truyền ngoài lớp học cho phụ huynh hiểu không nên làm hộ con, phải dậy trẻ tính tự lập từ bé. Trẻ càng được hướng dẫn sớm về cách tự lập, tự bảo vệ bản thân, nhận biết những mối nguy hiểm từ xung quanh và cách xử lý thì trẻ sẽ vững vàng vượt qua những thử thách trong mọi tình huống (phụ lục 10) Thông qua các cuộc họp đầu năm, cuối kỳ tôi trao đổi thẳng thắn và đưa ra một số yêu cầu đối với phụ huynh như sau: (Phụ lục 11) Không để đồ vật, dụng cụ nguy hiểm gần nơi sinh hoạt của trẻ. Không rời mắt khỏi trẻ khi cho các cháu đến những nơi đông đúc, tuyệt đối không cho trẻ chơi một mình ở những nơi nguy hiểm: ngoài đường, ao, hồ, công trình xây dựng Hạn chế việc nhờ người quen, hàng xóm láng giềng đưa đón trẻ đi học. Tập cho trẻ gái có thói quen mặc quần lót khi còn bé. Cha mẹ hạn chế thể hiện tình cảm thái quá đối với con như thường xuyên nựng nịu bộ phận riêng tư của trẻ. Tuyệt đối không để cho con chứng kiến( nhìn thấy, nghe thấy) vấn đề riêng tư, tế nhị của cha mẹ. Gia đình tránh xem phim ảnh mang tính chất bạo lực trước mặt trẻ. Cha mẹ nên dành nhiều thời gian trò chuyện chia sẻ cùng con, không vội vàng, phê phán đúng - sai , luôn tin tưởng vào năng lực của trẻ. Đối với một số phụ huynh không có thời gian tham gia vào cuộc họp , đặc biệt là những cháu con em của gia đình khó khăn tôi đã tìm gặp trực tiếp trao đổi thông tin cần thiết đặc biệt là vấn đề phòng tránh xâm hại trẻ, tôi cẩn thận trao gửi một số tài liệu liên quan đến vấn đề này giúp phụ huynh bảo vệ con em mình, cùng với nhà trường xã hội nâng cao kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. c. Các điều kiện cần thiết để áp dụng:
- * Các văn bản chỉ đạo: - Căn cứ Nghị định số 13/2012/NĐ-CP, ngày 02/3/2012 của Chính phủ ban hành Điều lệ sáng kiến. - Căn cứ Thông tư số 18/2013/TT-BKHCN, ngày 01/8/2013 của Bộ khoa học và Công nghệ hướng dẫn một số quy định của Điều lệ sáng kiến được ban hành theo Nghị Định số 13/2012/NĐ-CP, ngày 02/3/2012 của Chính Phủ. - Căn cứ Thông tư 28/2016/TT-BGĐT ngày 30/12/2016 của Bộ giáo dục và đào tạo về việc sửa đổi, bổ sung một số nội dung của Chương trình giáo dục mầm non ban hành kèm theo Thông tư 17/2009/TT-BGDĐT ngày 25/7/2009 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. - Hướng dẫn số 153/HD-UBND, ngày 01/02/2018 của Ủy ban nhân dân huyện Cát Hải hướng dẫn xét công nhận sáng kiến cấp cơ sở trên địa bàn huyện Cát Hải. - Căn cứ công văn 924/PGD-ĐT ngày 12/11/2020 thông báo về việc nộp sáng kiến cấp cơ sở của ngành giáo dục và đào tạo năm học 2020–2021. * Các điều kiện thực tế tại đơn vị áp dụng sáng kiến: - Điều kiện cơ sở vật chất: + Nhà trường có cở sỏ vật chất khang trang, sạch sẽ. + Nhà trường có đầy đủ các trang thiết bị phục vụ cho việc dạy học của giáo viên. - Điều kiện về phụ huynh: + Phụ huynh quan tâm và lắng nghe các nội dung cô giáo tuyên truyền để chăm sóc và giáo dục trẻ. + Phụ huynh quan tâm phối hợp cùng các cô trong việc chăm sóc và giáo dục trẻ. - Điều kiện về giáo viên: + Lớp học có 2 cô nhiệt tình. Có trình độ đạt trên chuẩn, có đầy đủ chứng chỉ tin học và ngoại ngữ, năng động chịu khó tìm tòi, học hỏi, có nhiều sáng tạo trong công tác giảng dạy. + Bản thân là một giáo viên trẻ, nhiệt tình, năng động, sáng tạo, bản thân cũng rất thiên nghiên cứu và tìm tòi các biện pháp giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ. - Điều kiện về học sinh: + Trẻ lớp tôi đa số đều là con út và nhiều trẻ là con một trong gia đình nên được bố mẹ và người thân nuông chiều, bao bọc, bảo vệ kỹ, chưa quan tâm đến việc rèn kỹ năng cho trẻ nên các kỹ năng bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm còn hạn chế. + Trẻ trong giai đoạn 4-5 tuổi, lứa tuổi luôn hiếu kì, ham thích tò mò, khám phá những điều mới lạ và cũng là lứa tuổi mà trẻ dễ gặp phải nhiều mối nguy hiểm nhất bởi
- trẻ chưa có kỹ năng để thu thập thông tin, phán đoán những mối nguy hiểm có thể xảy ra đối với bản thân. Vì vậy bản thân tôi là giáo viên trực tiếp phụ trách tại lớp đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp bằng cách cùng phối hợp với phụ huynh lớp tìm tòi các phương pháp giáo dục kĩ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với nguy hiểm khi trẻ gặp phải .Từ đó giúp cho trẻ tự tin, chủ động và biết cách xử lý các tình huống trong cuộc sống, khơi gợi khả năng tư duy sáng tạo của trẻ. d. Nội dung đã cải tiến, sáng tạo để khắc phục nhũng nhược điểm của giải pháp đã biết Hiện nay, xã hội phát triển mạnh đồng nghĩa với việc trẻ em đứng trước nhiều mối nguy hiểm bất ngờ có thể xảy ra với trẻ khi ở trường, ở nhà hay ngoài xã hội. Vì vậy, giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ thật sự rất cần thiết.Trang bị cho trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân cũng chính là trang bị cho trẻ hành trang để trẻ có thể sống an toàn, lành mạnh hơn, giúp ứng phó với những nguy hiểm gặp phải một cách có hiệu quả. Chính vì vậy tôi đã lựa chọn giải pháp sáng tạo “Giải pháp đổi mới nâng cao giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ lớp 4 tuổi A trường mầm non Sơn Ca, thị trấn Cát Bà, huyện Cát Hải” Có thể khẳng định đây là giải pháp sáng tạo mới, rất ít giáo viên mạnh dạn đưa các nội dung, phương pháp này vào giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân cho trẻ. Đề tài nghiên cứu này giúp giáo viên có được những biện pháp, tình huống cụ thể và cách hướng dẫn trẻ cụ thể có các kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi gặp phải các tình huống nguy hiểm trong gia đình, trường học và ngoài xã hội. Từ đó, giúp trẻ tự tin hơn và làm chủ được cuộc sống của mình. e. Chứng minh khả năng áp dụng của sáng kiến: Sáng kiến “Giải pháp đổi mới nâng cao giáo dục kỹ năng tự bảo vệ bản thân nhằm giúp trẻ có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm cho trẻ lớp 4 tuổi A trường mầm non Sơn Ca- thị trấn Cát Bà” đã được áp dụng vào thực tế từ tháng 9/2020 đến nay tại trường mầm non Sơn Ca– một Trường điểm trong khối mầm non ở huyện đã thu được các kết quả như sau: - Đối với lớp 4TA do tôi chủ nhiệm sau khi áp dụng sáng kiến: + Trẻ lớp tôi mạnh dạn, tự tin, hoạt bát có các kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm. + Phụ huynh quan tâm con em mình hơn, thường xuyên trao đổi với cô giáo về các tình huống và cách giáo dục trẻ tại nhà. - Các lớp học khác trong trường tôi đều áp dụng các bước thực hiện của sáng kiến đều thu được các kết quả như mong đợi: Trẻ trường tôi mạnh dạn, tự tin hơn, có kỹ năng ứng phó với các tình huống nguy hiểm trong cuộc sống.
- Các bước thực hiện giải pháp đã được áp dụng tại trường mầm non Sơn Ca có thể áp dụng thực hiện đối với tất cả các trường mầm non trong toàn Huyện. Đối với các trường có điều kiện cơ sở vật chất, số lượng học sinh tương đương như trường Mầm non 3/2, mầm non thị trấn Cát Hải, mầm non Phù Long mầm non Sao Mai có thể áp dụng triển khai thực hiện tại đơn vị với các bước thực hiện như trong đề tài. Còn những trường nhỏ như Mầm non Xuân Đám, mầm non Trân Châu, mầm non Đồng Bài, Mầm non Hoàng Châu có thể căn cứ vào thực tế tại đơn vị để lựa chọn, tổ chức các hoạt động phù hợp các bước như: Bước 2: Xây dựng các tiết học dạy trẻ những kỹ năng cơ bản; Bước 5: Tuyên truyền với các bậc cha mẹ cách dạy trẻ kỹ năng tự bảo vệ bản thân. 4. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: Sáng kiến được áp dụng vào thực tế từ tháng 9/2020 đến nay. Bán thân tác giác đánh giá sáng kiến không chỉ giúp giáo viên có nhiều kinh nghiệm hơn trong việc giáo dục trẻ ứng phó với các tình huống nguy hiểm mà còn giúp trẻ thấy tự tin hơn có kinh nghiệm ứng phó với các tình huống nguy hiểm trong cuộc sống. Từ đó, tạo điều kiện cho trẻ phát triển một cách toàn diện. 5. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử: a. Hiệu quả kinh tế: Các giải pháp này không phải mua nhiều đồ dùng mà là các tình huống giả định cô đưa ra, nên tiết kiệm chi phí. b. Hiệu quả về xã hội: * Đối với giáo viên: + Bản thân tôi là một giáo viên được trau dồi kiến thức và có thêm những kinh nghiệm trong việc giáo dục trẻ ứng phó với các tình huống nguy hiểm trong cuộc sống. * Đối với trẻ: + Trẻ đã có nhận thức khá rõ ràng cụ thể về những nguy hiểm có thể xảy đến với mình, có ý thức tốt trong việc tránh xa các đồ vật sắc nhọn, đồ dễ cháy nổ, tránh xa những nơi nguy hiểm như nước sôi, đường giao thông, ao hồ + Trẻ ngày càng mạnh dạn, tự tin hơn nhận thức được giới tính của bản thân, biết bảo vệ bản thân trước những nguy cơ xâm hại cơ thể, có các kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm. * Đối với phụ huynh: + Các bậc phụ huynh quan tâm con mình nhiều hơn, biết tự đặt tình huống cùng bàn luận với trẻ, để trẻ tự nói lên những hiểu biết của mình về các tình huống đó. c. Các giá trị làm lợi khác:
- Đề tài không chỉ giúp trẻ có kỹ năng tự bảo vệ bản thân khi gặp nguy hiểm mà còn giúp trẻ thấy hứng thú hơn khi tham gia các tiết học, giúp cho việc tiếp thu các kiến thức và kỹ năng tự bảo vệ bản thân không bị nhàm chán. Đề tài còn giúp giáo viên sáng tạo hơn trong công tác giảng dạy cũng như tổ chức các hoạt động học theo quan điểm giáo dục lấy trẻ làm trung tâm, giúp phụ huynh có cách dạy con em mình tốt hơn, phong phú hơn để trẻ được trải nghiệm qua các tình huống. Hãy giúp trẻ lớn lên là chính nó một cách an toàn, tự lập. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật. Cát Hải, ngày 16 tháng 01 năm 2021 Người nộp đơn (Ký và ghi rõ họ tên) Nguyễn Thị Quỳnh Mai