SKKN Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng

pdf 73 trang Hoàng Trang 13/05/2023 2500
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_giao_duc_long_yeu_que_huong_dat_nuoc_cho_hoc_sinh_trong.pdf

Nội dung tóm tắt: SKKN Giáo dục lòng yêu quê hương đất nước cho học sinh trong giảng dạy lịch sử địa phương và truyền thống nhà trường tại trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng

  1. Ví chuyển điệu: Người ơi Trải qua bao năm một chặng đường lịch sử Bao thế hệ cha anh tô thắm đẹp mái trường Bồi hồi nhớ lại năm nao Vượt bao gian khó, Trường Huỳnh Thúc Kháng ta tự ơ hào Dẫn 1: Âm nhạc (tốp múa đi vào - tốp học sinh đi ra - hình ảnh thầy dạy học) Trường Trung học Phổ thông Huỳnh Thúc Kháng có tiền thân từ 2 trường Quốc Học Vinh và trường Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng. Trường Quốc học Vinh thành lập ngày 1/9/1920, đại bộ phận trường Quốc Học Vinh là con em những nhà nho vùng đất Cách mạng, yêu nước và trong trường lại có những nhà giáo tiến bộ nên nhiều học sinh của trường đã tham gia các phong trào yêu nước và đấu tranh cách mạng. Tiêu biểu là ngay từ khóa đầu tiên như các ông Nguyễn Xiển (nguyên Phó chủ tịch Quốc hội), Tôn Quang Phiệt (nguyên tổng thư ký Ủy ban Thường Vụ Quốc hội), Đặng Thai Mai (nguyên Chủ Tịch hội nhà văn Việt Nam). (Sử thi - Cảnh chiến tranh, Học sinh bị đàn áp) Dẫn 2: Năm 1943, trường Quốc học Vinh đổi tên là Trường Quốc học Nguyễn Công Trứ. Cuối năm 1946, cuộc kháng chiến chống Pháp bùng nổ trường sơ tán về huyện Nam Đàn, Nghệ An. Lúc này ở Huế, trường Quốc học Huế cũng chia ra một bộ phận đi theo kháng chiến thành lập trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng đóng ở huyện Đức Thọ rồi huyện Hương Khê, Hà Tĩnh. Năm 1950, trường Quốc học Nguyễn Công Trứ (tức là Quốc học Vinh) và trương Chuyên Khoa Huỳnh Thúc Kháng được sát nhập lại và lấy tên là Trường Phổ Thông cấp 3 Huỳnh Thúc Kháng và là trường phổ thông cấp 3 đầu tiên của Tỉnh Nghệ An (gồm học sinh Nghệ Tĩnh và hơn 200 học sinh miền Nam), đóng ở xã Bạch Ngọc tức là xã Lam Sơn, huyện Đô Lương, Tỉnh Nghệ An ngày nay. (Hình ảnh học sinh đội mũ rơm, vui vẻ đọc sách trốn bom đạn) Dẫn 1: Năm 1955, hòa bình đã được lập lại trên miền Bắc xã hội chủ nghĩa, vào năm 1956 trường trở về thành phố Vinh. Năm 1962, do Tỉnh Nghệ An đã bắt đầu có nhiều trường phổ thông cấp 3 ở các huyện, trường đổi tên là Trường Phổ Thông cấp 3 Vinh. Năm 1965, đế quốc Mỹ leo thang đánh phá miền Bắc, trường sơ tán về xã Hưng Tây huyện Hưng Nguyên. Đây cũng là thời kì gian khổ của trường, vừa tổ chức dạy học vừa phải phòng tránh bom đạn của giặc Mỹ. Thời kì từ năm 1955-1965, trường có nhiều học sinh đạt giải học sinh giỏi toàn miền Bắc và có nhiều học sinh sau này trở thành cán bộ lãnh đạo từ Tỉnh Nghệ An đến Trung Ương. (Hình ảnh học sinh vui vẻ nô đùa) Dẫn 2: Đến năm 1976 thành phố Vinh đã bắt đầu có nhiều trường cấp 3,
  2. trường lại đổi tên là Trường phổ thông cấp 3 Vinh 1. Năm 1985, thể theo nguyện vọng của nhiều thế hệ cán bộ, giáo viên, học sinh và nhằm phát huy hơn nữa truyền thống lịch sử vẻ vang của trường, Ủy ban nhân dân tỉnh Nghệ Tĩnh đã quyết định đổi lại tên trường là Trường Phổ Thông Huỳnh Thúc Kháng cho đến ngày nay. (Hình ảnh cổng trường xuất hiện) Âm nhạc chuyển Tốp múa tạo hình Thơ trung: Nhớ những ngày đầu khai thiên lập địa Đặt những viên gạch hồng trong mưa nắng gian nan Ôi mái trường lịch sử sáng từng trang Dẫn lối em đi đến những chân trời Mỗi chuyến đò sang sông thầy cô là bến đợi Bụi phấn nhuộm mái đầu dáng thầy cô lầm lụi, mắt vẫn dõi theo những cánh chim không mỏi phía trời ơ xa Tứ hoa: Mái trường thân thương như một mái nhà Mà ngào ngọt bài ca nghề nhà giáo Chăm bón cây đời giữa nắng mưa giông bão Có tình mẹ cha và chữ đạo thầy cô Nét chữ câu văn lớp học từng giờ Trang sách mở trang đời thêm rộng mở Rộn rã bài ca dưới nhành phượng đỏ Để mỗi ngày đến trường ta có một niềm vui Khúc tự hào: Vang vang câu ca ta hát mừng ngày hội Trên quê Bác Hồ dệt bao yêu thương Non sông mai sau có sánh kịp năm châu Lời bác năm nào cùng nhau ghi lòng Bài ca Phượng Hồng Rộn rã mái trường Lời thầy cô - lời của Bác Là hành trang - cho ngày mai Xây đời.
  3. Phụ lục 4 GIÁO ÁN GIẢNG DẠY PHÒNG TRUYỀN THỐNG “MÁI TRƯỜNG XỨNG DANH ANH HÙNG” I. Mục đích yêu cầu 1. Về kiến thức: Giúp học sinh hiểu rõ: - Thân thế sự nghiệp của cụ Huỳnh Thúc Kháng. - 100 năm xây dựng và trưởng thành của trường THPT Huỳnh Thúc Kháng. - Những thành tích đạt được từ trước đến nay. 2. Về tư tưởng tình cảm: - Giáo dục truyền thống cho học sinh, giúp các em nhận thức được những giá trị truyền thống của nhà trường. - Giáo dục cho học sinh thấy được trách nhiệm và bổn phận của mình tiếp nối truyền thống tốt đẹp của các thế hệ đi trước và thắp sáng tương lai cho thế hệ mai sau. - Giúp học sinh vun đắp tình cảm, lòng biết ơn, tôn trọng và yêu quý đối với các thế hệ cha anh từ đó luôn học tập phấn đấu rèn luyện tu dưỡng bản thân 3. Về kỹ năng: Bồi dưỡng học sinh kỹ năng quan sát, phân tích, nhận xát và đánh giá của học sinh II. Thiết bị tài liệu dạy - học: - Tranh ảnh và các hiện vật trưng bày trong phòng truyền thống. - Sách báo viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng. - Lịch sử trường Quốc học Vinh - THPT Huỳnh Thúc Kháng (1920- 2010). III. Tiến hành tổ chức dạy học: 1. Bài cũ: Đã hướng dẫn học sinh về nhà tìm hiểu cuốn lịch sử trường và các tài liệu viết về cụ Huỳnh Thúc Kháng nên sẽ kiểm tra trong quá trình đọc bài. 2. Dẫn dắt và bài: 3. Tổ chức hoạt động dạy học trên lớp Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm Hỏi: Dựa vào những hiểu biết của I. Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Kháng mình em hãy trình bày về thân thế và (1876-1947): sự nghiệp của Cụ Huỳnh Thúc Kháng? - Huỳnh Thúc Kháng tên thật là
  4. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm - HS trả lời Giáo viên kết luận: Huỳnh Hanh. + Huỳnh Thúc Kháng tên thật là Huỳnh - Sinh năm 1876 tại làng Thanh Hanh, tự: Đối Sanh, hiệu là Minh Viên; Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh có nhiều bút danh như: Sĩ Bình Tử; Xa Quảng Nam. Túc Tử sinh năm 1876 tại làng Thanh - Năm 1904 đỗ tiến sỹ nhưng không Bình, huyện Tiên Phước, tỉnh Quảng ra làm quan. Ông tham gia tích cực Nam trong một gia đình nho học. vao phong trào Duy Tân ở Trung Kỳ. - Năm 1908: ông bị Pháp bắt và đày ra Côn Đảo. - Năm 1921: được trả tự do và tiếp tục tham gia phong trào yêu nước. - Cách mạng tháng 8 thành công, => Huỳnh Thúc Kháng là tấm gương Chủ tịch Hồ Chí Minh mời Cụ tham tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung gia chính phủ liên hiệp, giữ chức Bộ với nước với dân. Cụ vừa là chiến sỹ trưởng Bộ Nội vụ (1946). cách mạng nhưng cũng là một nhà thơ - Tháng 6 → 10/1946 Cụ được giao lớn với thơ chữ Hán, chữ Nôm, chính trọng trách quyền Chủ tịch nước. luận. - Tấm gương tiêu biểu cho lòng yêu nước, tận trung với nước, là nhà thơ lớn. II. Lịch sử trường 1. Trường Quốc học Vinh (College De Vinh 1920 - 1945) - GV hỏi: Trường được thành lập vào * Ngày đầu thành lập: thời gian nào? Tên gọi khi mới thành - Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học lập là gì? Vinh (College De Vinh). Tiếp nhận - HS nghiên cứu lịch sử trường và trả học sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, lời: Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình. - GV kết luận * Mục đích: đào tạo lớp người có trình độ học vấn cao để phục vụ cho - Trường Quốc học Vinh được thành lập chính sách cai trị của thực dân Pháp trên mảnh đất địa linh nhân kiệt. Xứ và truyền bá văn hóa Pháp. Nghệ là đất phát tích của nhiều nhân tài kiệt xuất của đất nước. Đặc biệt là nơi => Đào tạo quan lại và tay sai người chôn rau cắt rốn của Chủ tịch Hồ Chí bản xứ. Minh. Trường ra đời trong khoảng thời - Trường được dạy bằng tiếng Pháp.
  5. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm gian mà phong trào yêu nước, phong Hiệu trưởng là người Pháp. Ông trào đấu tranh của nhân dân vung Nghệ hiệu trưởng đầu tiên là Surrugue Tĩnh được dâng cao. (1920) và hiệu trưởng cuối cùng là - Ngày 1/9/1920 Trường Quốc học Vinh Michel (1941). được thành lập theo cách gọi của người - Giáo viên: gồm người Pháp và Pháp là College De Vinh. Tiếp nhận học Việt Nam. sinh ở các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà - Sau khi tiếp thu nguồn tri thức mới Tĩnh, Quảng Bình. học sinh của trường đã phát huy Khi mới thành lập trường chưa có đại truyền thống yêu nước tích cực tham điểm riêng và học tạm ở trường tiểu học gia nhiều phong trào yêu nước như: Cao Xuân Dục và hội quan Trí Tri. Từ - 1924: biểu tình đội ân xá Cụ Phan năm 1922 trường chính thức học ở quán Bội Châu. Thầu đâu (gần bến xe Vinh). - 1927: Tham gia lễ truy điệu của cụ - HS trả lời: 37 học sinh Phan Chu Trinh. - Hỏi: Mục đích ban đầu của việc - 1929: Thành lập Chi bộ Cộng sản thành lập trường? Mục đích đó có đạt đầu tiên của trường và là 1 trong 3 được hay không? Vì sao? chi bộ đầu tiên ở Vinh. Đồng chí - HS: nghiên cứu trả lời Nguyễn Tiềm học sinh của trường là - GV kết luận: bí thư đầu tiên của Đảng bộ Nghệ An. - Giáo viên: Hỏi: Trong thời gian trường mang tên Quốc học Vinh từ 1920 - 1945 đã có + Người Pháp: Thầy hiệu trưởng những giáo viên và học sinh tiêu biểu Surrugue, thầy Hypolyte le Breton, nào? thầy Boulerand, cô giáo người Pháp cô Surrugue, cô Vlaveanos Trong thời gian mang tên trường Quốc học Vinh đã có nhiều giáo viên và học + Người Việt như: Lê Ấm; thầy Lê sinh tiêu biểu người Pháp và người Việt. Thước; thầy Nguyễn Hiệt Chi; thầy Trần Đình Đàn - Người Pháp: Thầy hiệu trưởng Surrugue rất điềm đạm, thầy Hypolyte le + Học sinh: Tôn Quang Phiệt; Đặng Breton có uy tín với giáo viên và học Thai Mai; Nguyễn Sỹ Sách; Nguyễn sinh, thầy Boulerand rất đôn hậu và cô Tiềm; Phạm Tiều; Hoàng Xuân giáo người Pháp đức độ, tận tụy với học Hãn, Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn sinh như cô Surrugue, cô Vlaveanos Mạnh Cầm - Thầy giáo người Việt như: Lê Ấm 2. Từ trường QHV đến trường phổ (1897-1976) thầy Lê Thước (1891 - thông cấp 3 HTK (1945- 1950) 1975); thầy Nguyễn Hiệt Chi (1970- * Thời kỳ chuyển tiếp trường QHV 1935); thầy Trần Đình Đàn đến trường TH Đinh Công Trứ
  6. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm - Học sinh tiêu biểu: Tôn Quang Phiệt (1945-1950) (1900-1937); Đặng Thai Mai (1902- - Hoàn cảnh nước ta sau CMT8 1997); Nguyễn Sỹ Sách (1907-1929); - Trong hoàn cảnh đó, trường QHV Nguyễn Tiềm (1912-1932); Phạm Tiều đổi thành tên trường TH Đinh Công (1904-1986); Hoàng Xuân Hãn (1908- Trứ. 1996), Nguyễn Cảnh Toàn; Nguyễn Mạnh Cầm - Sau ngày toàn quốc kháng chiến (19/12/1946) thực hiện tiêu thể - GV giới thiệu về hoàn cảnh đổi tên kháng chiến, trường dời lên Nam trường QHV thành tên trường TH Đinh Đàn. Công Trứ: - Năm 1947- 1948: dời về Tân Hợp - Năm 1950 Sở giáo dục liên khu IV - Nam Đàn quyết định sát nhập một phần của chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng lúc đó - Năm 1950: sát nhập một phần của đang đóng ở Đức Thọ (Hà Tĩnh) chuyên khoa HTK ở Đức Thọ và (Chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng có trương Nguyễn Công Trứ thành TH tiền thân là trường TH Khải Định- một Huỳnh Thúc Kháng. phần của quốc học Huế tản cư ra Hà * Trường phổ thông cấp III Huỳnh Tĩnh lấy tên nhà chí sỹ yêu nước là Thúc Kháng (1950 -1951 -> 1953- Huỳnh Thúc Kháng đặt tên cho trường) 1954) vào trường Nguyễn Công Trứ và đổi tên là TH Huỳnh Thúc Kháng chuyển lên xã Thời kỳ này trường đóng ở xã Bạch Bạch Ngọc - Đô Lương - Nghệ An). Ngọc, Đô Lương. - Thầy trò hăng say học tập dạy tốt, Hỏi: Thời kỳ này có những giáo viên học tốt, lao động sản xuất, tự túc sản tiêu biểu nào? xuất lương thực, tham gia vào kháng - Thời kỳ này có nhiều giáo viên tận tụy chiến chống Pháp với sự nghiệp giáo dục như thầy Lê Hải Châu, Nguyễn Trọng Di, Đào Đăng Hy, Lê Trí Viễn, Nguyễn Cảnh Toàn, Hà Thúc Chính - Học sinh là những giáo sư, phó giáo sư, tiến sỹ, thạc sỹ như Nguyễn Đình Tứ, Hà Học Trạc, Đinh Ngọc Lân, Vũ Ngọc Khánh - Giáo viên giải thích trường mang tên cấp III Huỳnh Thúc Kháng với những lý do sau: + Do yêu cầu của giáo dục triển khai chương trình cải cách lần thứ 2.
  7. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm + Do việc sát nhập trường TH Nguyên Công Trứ với trường chuyên khoa Huỳnh Thúc Kháng từ năm học 1950- 1951. 3. Trường THPT Huỳnh Thúc Kháng (những năm 1955-1975) - Nhiều học sinh sau đó trở thành những người có tên tuổi như: Phan Hữu Dật, * Giai đoạn 1955-1965: Trọng Bằng, Trần Thanh Đạm, Nguyễn - 1955 trường chuyển từ Bạch Ngọc Minh Châu, Đào Trọng Đức về Vinh đóng ở xã Hưng Thủy. - GV giới thiệu quá trình chuyển từ Bạch - 1957 dời về đóng ở khu trường Sư Ngọc về Vinh: phạm cấp 1. + Năm 1955 trường chuyển từ Bạch - Năm 1960: trường dời về cơ sở Ngọc về Vinh đống ở xã Hưng Thủy mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình (nay là Bến Thủy, Trườn Đại học Vinh sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh. ngày nay), học sinh khắp nơi trong tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh xin vào học, học sinh Bình Trị Thiên vượt tuyến ra Bắc * Giai đoạn từ 1965-1975: học. - Năm 1965 Mĩ ném bom Miền Bắc, + Năm 1957 trường chuyển về trường sư trường sơ tán nhiều nơi phạm cấp 1. Hội đồng giáo viên được + 1965 lên Hưng Tây tăng cường thêm từ từ các trường về và giáo viên vừa tốt nghiệp đại học sư phạm. Phương pháp giảng dạy thay đổi, học sinh chăm lo và tự giác trong học tập. - Năm 1960: trường dời về cơ sở mới xóm Trường Tiến, Hưng Bình. Năm học 1959- 1960 ở Đô Lương và Diễn Châu thành lập trường cấp 3 nên học sinh rút về học và sau đó đổi tên là trường cấp 3 Vinh. Trường có nhiều học sinh đạt giải miền Bắc, có tỷ lệ đậu tốt nghiệp cao, liên tục + 1968 chuyển lên nông trường 1/5 đạt danh hiệu trường tiên tiến nhiều học ở Nghĩa Đàn sinh được cử đi học nước ngoài, nhiều em tình nguyện vào nam tham gia chiến đấu. - Năm 1965 Mĩ ném bom bắn phá, trường bị hư hại nhiều và học sinh phải
  8. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm sơ tán về xã Hưng Tây. Thầy và trò đào + 1970 trường chuyển về Vinh lán lợp, đào hầm hào để đảm bảo an toàn cho các lớp học. Việc dạy học được thực hiện trong các căn hầm chữ A nửa nổi nửa chìm chứa được 50 học sinh. Trong những năm trường sơ tán lên Hưng Tây giặc Mỹ đã hơn 20 lần ném bom đạn gây + 1971 sơ tán về Hưng Tây và Hưng nhiều thương vong cho trường, 05 em Thái học sinh và một nhân viên của trường bị thiệt mạng. - Năm 1968 giặc Mỹ ném bom bắn phá trường sơ tán từ Hưng Tây lên nông trường 1/5 ở Nghĩa Đàn. Thầy trò ở đan xen trong nhà công nhân, làm lán tre + Năm học 1971-1972 sơ tán lên xã nứa, làm hầm chữ A. Học kỳ II năm Thanh Hà - Thanh Chương 1968-1969 trường chuyển từ nông trường 1/5 về tạm học ở Hưng Tây. - Năm 1970 trường từ Hưng Tây về Vinh, cơ ngơi của trường lại bị giặc Mỹ - Vượt qua mưa bom bão đạn nhưng phá tan tành, thầy trò từng bước khắc thầy trò vẫn hăng say học tập và đạt phục xây dựng lại trường lớp, nhà nhiều thành tích. trường phải đặt lớp học và nhà công vụ rải rác ở nhiều nơi trong đó có khoa sinh - Năm 1973 trường chuyển về Vinh Trường Đại học Vinh ở Hưng Bình. - Năm 1971 địch đánh phá thành phố Vinh trường lại sơ tán về Hưng Tây và Hưng Thái. - Học kỳ I năm học 1971 - 1972 địch bắn phá thành phố Vinh và các vùng lân cận thầy trò vượt Sông Lam đến xã Nam Phúc huyện Nam Đàn. Nhưng trước bom đạn của giặc Mỹ ngày càng ác liệt và căng thẳng hết học kỳ I của năm học 4. Trường THPT Huỳnh Thúc 1971-1972 trường rời xã Nam Phúc sơ Kháng (Những năm 1975 - 2010). tán lên xã Thanh Hà, huyện Thanh Chương. * Những năm 1975 - 1985. - Sau khi hiệp định Pari được ký kết vào ngày 27/1/1973 Mỹ chấm dứt chiến tranh và rút quân khỏi Việt Nam.
  9. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm Trường được lệnh chuyển về Vinh. Năm 1976 do học sinh tăng lên nên - Về Vinh trường được tọa lạc trên một chia làm hai trường cấp III Vinh I và mảnh đất rộng rãi trên đường Lê Hồng cấp III Vinh II Phong (nay là trường Chính trị Nghệ Trong thời gian từ năm 1976 - 1985 An) hệ thống lớp học được mở rộng, học trường mang tên là cấp III Vinh I sinh tăng lên, cơ sở vật chất tăng lên, giáo viên và nhân viên cũng được tăng lên. Thầy và trò hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng GV Hỏi: Trong thời gian từ năm 1955 dạy và đạt được nhiều thành tích tốt đến 1975 trường Huỳnh Thúc Kháng đẹp đã có những giáo viên và học sinh tiêu biểu nào? - Trong thời gian này có nhiều thầy giáo tiêu biểu như: Nguyễn Cửu Cúc, Hoàng * Những năm 1986 - 2010 Kim Hải, Hoàng Triều, Nguyễn Đức Bính, Lê Trung Thuận, Nguyễn Tài Đại, Từ năm học 1986 - 1989 trường được xây dựng cơ sở mới ở phường Phạm Nhượng là nhưng thầy giáo hiệu trưởng của nhà trường từ năm 1955- Hưng Bình 1975. Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về đặt điểm ngày nay, cơ sở vật chất Thầy Nguyễn Văn Đàn, Hoàng Thiệu Khang, Nguyễn Văn Bàng, Ninh Viết từng bước được xây dựng khang Giao, Tôn Gia Các trang Thầy trò thi đua lập nhiều thành Nhiều học sinh trong thời kỳ này đã nhận được những trọng trách ở nhiều tích: lĩnh vực khác nhau: Hồ Tế (Bộ trưởng + Liên tục đạt danh hiệu trường Bộ Tài chính), Nguyễn Chí Vu (Bộ TTXS của tình: trưởng Bộ công nghiệp nhẹ + Tỷ lệ đậu TN, ĐH cao, có nhiều Sau khi thắng Mỹ năm 1975, Miền học sinh giỏi quốc gia; nam hoàn toán giải phóng, tổ quốc Việt + Năm 1995: Huân chương lao động Nam đã hoàn toán thống nhất. Cuối năm hạng 3 1975 hợp nhất 2 tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh thành một tỉnh. Từ trong đổ nát của chiến tranh, Nghệ Tĩnh phải vượt qua thử thách nặng nề. Trong hoàn cảnh ấy Trường PTTH Huỳnh Thúc Kháng cùng với toàn ngành giáo dục tiếp tục phấn đấu vượt lên.Từ năm học 1976-1977 trường được mang tên mới là trường cấp III Vinh I, co 28 lớp với các thầy giáo và
  10. Hoạt động của giáo viên và học sinh Kiến thức cần nắm cô giáo tận tâm với nghề như thầy Phạm Nhượng, Phạm Nguyên Lượng, Nguyễn Xuân Phong, Đặng Văn Luyện, Ngô Quát, Nguyễn Cảnh Đính, Mai Xuân Bình, Đời sống của giáo viên và học sinh còn gặp nhiều khó khăn, vất vả nhưng thầy và trò vẫn hăng say xây dựng trường mới, hăng say học tập giảng dạy và đạt nhiều thành tích tốt đẹp. Tỷ lệ đậu tốt nghiệp hàng năm từ 92% - 100%. Tỷ lệ đỗ Đại học, Cao đẳng từ 48% - 62%. Học sinh giỏi tỉnh hằng năm từ 12 - 56 em. Trường liên tục đạt danh hiệu trường tiên tiến, nhiều năm đạt tiên tiến xuất sắc của tỉnh. Đặc biệt trường luôn là đơn vị dẫn đầu về chất lượng dạy và học thể hiện ở kết quả thi đại học và học sinh giỏi hằng năm. Tiếp nối thời kỳ trước từ năm học 1985 - 1986 thầy và trò tiếp tục dạy và học ở cơ sở cũ tại phường Hưng Dũng. Từ năm 1986 - 1989 cơ sở mới được xây dựng tại phường Hưng Bình. Từ năm 1989 - 1990 trường chuyển về địa điểm ngày nay và đi vào ổn định. + Năm 2000 được tặng huân chương Thầy và trò tập trung vào nhiệm vụ độc lập hạng 3 giảng dạy học tập. Cơ sở vật chất từng + Năm học 2007 - 2008 trường được bước được xây dựng khang trang trong công nhận là trường đạt chuẩn quốc khuôn viên mới với diện tích 16.000 m2 gia giai đoạn 2001 - 2010; với 42 trường học, các thực hành Lý, + Năm 2010 trong dịp kỷ niệm 90 Hoá, Sinh, Tin, nhà đa chức năng phục năm thành lập trường, trường đã vụ cho các hoạt động tập thể, vinh dự đón nhận danh hiệu anh - GV hỏi: Từ năm 1986 đến nay hùng lao động trong thời kỳ đổi mới thầy và trò trường THPT Huỳnh Thúc do chủ tịch nước Nguyễn Minh Kháng đã đạt được những thành tích Triết phong tặng tiêu biểu nào?
  11. 4. Củng cố: - Qua những buổi học Truyền thống các em nắm được + Tiểu sử cụ Huỳnh Thúc Khàng; + Các giai đoạn của nhà trường; + Các thành tích đạt được. 5. Bài tập thu hoạch Câu 1: Mục đích của việc học tập phòng truyền thống? Câu 2: Suy nghĩ của em khi được tìm hiểu phòng truyền thống và lịch sử trường? Câu 3: Các giai đoạn phát triển của nhà trường và thành tích đạt được? Câu 4: Em hãy kể tên một số giáo viên và học sinh tiêu biểu của trường qua các thời kì? Câu 5: Là học sinh của trường, em sẽ làm gì để viết tiếp những trang sử vàng của THPT Huỳnh Thúc Kháng?
  12. Phụ lục 5 MỘT SỐ HÌNH ẢNH HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP TẠI TRƯỜNG THPT HUỲNH THÚC KHÁNG Tiết mục Sử thi nghệ thuật: Cuộc đời và sự nghiệp nhà chí sỹ yêu nước Huỳnh Thúc Kháng và quá trình phát triển của nhà trường Chương trình chào đón K98: RADIO 196X
  13. Chương trình chào đón K99: EPOCH Tuổi trẻ trường THPT Huỳnh Tháng Kháng tham gia “Lễ thắp nến tri ân”
  14. Tham quan học tập tại di tích lịch sử Truông Bồn Hoạt cảnh “Cô dân quân làng Đỏ”
  15. Phụ lục 6 MỘT SỐ BÀI THU HOẠCH CỦA HOẠT ĐỘNG NGOÀI GIỜ LÊN LỚP