SKKN Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Vật lý ở trường THCS thị trấn Trần Văn Thời

docx 6 trang vanhoa 5741
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Vật lý ở trường THCS thị trấn Trần Văn Thời", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_gay_hung_thu_hoc_tap_cho_hoc_sinh_tron.docx

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Vật lý ở trường THCS thị trấn Trần Văn Thời

  1. MỘT SỐ BIỆN PHÁP GÂY HỨNG THÚ HỌC TẬP CHO HỌC SINH TRONG MÔN VẬT LÝ Ở TRƯỜNG THCS THỊ TRẤN TRẦN VĂN THỜI I. SỰ CẦN THIẾT, MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC THỰC HIỆN SÁNG KIẾN Năm học 2012 – 2013 là năm thứ 11 thực hiện chủ trương của ngành Giáo dục Đào tạo tỉnh nhà là: Đổi mới toàn diện phương pháp giảng dạy và học. Cũng như hầu hết thầy các thầy cô giáo khác trong năm học qua nhóm giáo viên dạy Vật lý trường THCS TT Trần Văn Thời chúng tôi cũng đã trăn trở, tìm tòi, từng bước thực hiện việc đổi mới phương pháp giảng dạy theo yêu cầu của ngành giáo dục đề ra chúng ta đều biết phương pháp giảng dạy là một trong những yếu tố cơ bản và quan trọng nhằm truyền đạt kiến thức tới học sinh đạt hiệu quả tốt nhất. Phương pháp giảng dạy phù hợp sẽ là con đường giúp học sinh tiếp thu kiến thức một cách hiệu quả, phát huy trí lực của người học, mỗi bộ môn đều phải có một phương pháp giảng dạy phù hợp và phải không ngừng đổi mới, hoàn thiện và đây cũng chính là một trong những yếu tố, động lực nhằm không ngừng nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho học sinh trường THCS thị trấn Trần Văn thời hiện nay. Trước yêu cầu cấp bách đó, giáo viên trường trung học cơ sở thị trấn Trần Văn Thời nói chung và đội ngũ giáo viên dạy Vật lí nói riêng, luôn học hỏi tìm ra các biện pháp giảng dạy tốt nhất giúp học sinh tham gia một cách tích cực chủ động vào học tập phát huy tính năng động, sáng tạo của học sinh. Từ đó học sinh thấy thích được học bộ môn Vật lý và ham muốn khám phá tri thức nhân loại. Kết quả học tập chỉ đạt được tối đa khi học sinh thực sự có hứng thú học môn học này chủ động tham gia vào các hoạt động tự lực giải quyết các nhiệm vụ học tập theo yêu cầu của giáo viên. Chính điều đó đã thôi thúc tôi nghiên cứu và viết đề tài này . II. PHẠM VI TRIỂN KHAI THỰC HIỆN Phạm vi thực hiện sáng kiến này dùng cho giáo viên dạy môn Vật lý cấp THCS để nâng cao chất lượng giảng dạy tạo điều kiện để học sinh nắm vững kiến thức cơ bản của bộ môn ở trường THCS thị trấn Trần Văn Thời. Sáng kiến này đã được ứng dụng triển khai thực hiện trong tổ Toán – Lý – CN – Tin trường THCS Thị Trấn Trần văn Thời huyện Trần Văn Thời được hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao. III. MÔ TẢ SÁNG KIẾN
  2. Đối với giáo viên có ý thức vận dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng kết quả chưa được như mong đợi, chưa đáp ứng được tinh thần thực sự “đổi mới”. Nguyên nhân của tình trạng trên đựơc thể hiện như: - Một phần giáo viên áp dụng chưa thật hợp lí các biện pháp hoặc máy móc không cải tiến hoặc áp dụng chưa thật phù hợp với bài dạy. - Trong phương pháp cụ thể nào đó giáo viên chưa xác định chính xác các bước đi, giáo viên chưa tận dụng triệt để đồ dùng dạy học. - Trong quá trình dạy giáo viên chưa thực sự là người điều khiển dẫn dắt kích thích cho học sinh yêu thích môn học để tự chiếm lĩnh kiến thức . Kết quả của sự dạy và học đó làm cho giáo viên không kích thích được học sinh thật sự yêu thích bộ môn Vật lý để được kết quả tốt hơn. Với những lý do trên Tôi đưa ra sáng kiến “ Một số biện pháp gây hứng thú học tập cho học sinh trong môn Vật lý ở THCS thị trấn Trần Văn Thời” 1. Gây hứng thú học tập cho học sinh từ việc xử lí các tình huống sư phạm Ngay từ đầu giáo viên phải tạo được niềm tin và tình cảm thực sự từ học sinh dành cho giáo viên. Qua cách ăn mặc, đi đứng , nói năng đúng chuẩn mực đạo đức. Khi vào lớp giáo viên phải tạo được bầu không khí tươi vui, thoải mái có thể chỉ bằng những câu nói tiếng cười, nét mặt vui vẻ của giáo viên. Giáo viên không nên gây căng thẳng nặng nề trong giờ học, kị nhất là giáo viên vào lớp, gắt gỏng hoặc vào lớp với khuôn mặt nặng nề. Giáo viên phải luôn tôn trọng ý kiến trả lời của học sinh, không nên gò ép học sinh vào khuôn phép cứng nhắc, tránh thái độ yêu cầu học sinh trả lời sắp xếp ngay theo thứ tự của mình . Khuyến khích cho điểm động viên học sinh một cách tế nhị, hợp lí khi học sinh trả lời đúng câu hỏi hoặc học sinh không trả lời được câu hỏi. Từ đó sẽ tạo cho học sinh có được niềm tin vào khả năng của bản thân. Giáo viên cần phải cải tiến và sáng tạo đồ dùng dạy học, thiết kế thí nghiệm phù hợp với điều kiện của trường mình, sử dụng phương pháp dạy học nhóm hoặc dùng phiếu học tập hợp lí. 2. Gây hứng thú cho học sinh bằng những thí nghiệm vật lí có tính kì dị * Khi dạy bài “Sự nở vì nhiệt nhiệt của chất rắn” (SGK Vật Lí 6 Tr 58) Trước khi học bài này giáo viên yêu cầu học sinh thả quả cầu kim loại chưa hơ nóng xem có lọt qua vòng kim loại hay không. Sau đó GV hơ nóng quả cầu kim loại bỏ qua vòng kim loại. GV: Tại sao khi chưa hơ nóng quả cầu kim loại thì nó bỏ lọt qua vòng kim loại?
  3. HS: Lúng túng sẽ không giải thích được tại sao lại có hiện tượng kì lạ này. Từ thí nghiệm đó giáo viên giới thiệu bài học mới. Làm như vậy sẽ kích thích ngay được tính tò mò, hiếu kì của học sinh mong muốn giải thích được hiện tượng thí nghiệm trên. Nên học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học. * Khi dạy bài “ Đối lưu – Bức xạ nhiệt ” (SGK Vật Lí 8 , Tr 80) GV: Theo em đèn nến có hút được khói không ? HS: Trả lời. GV: Dùng một ống tre cưa thật bằng ở hai đầu (Hai đầu thông nhau), bên hông có khoét một lỗ sao cho lỗ thấp hơn ngọn nến dự định đặt ở trong ống tre khoảng 5– 10 cm. Đốt một cây nến rồi dùng ống này úp ngọn nến vào bên trong tre tương đối kín, rồi đốt một vài que hương (nhang) đưa lại gần miệng lỗ. HS: Sẽ thấy khói bị hút vào trong ống tre. GV: Liệu có đúng đèn nến hút được khói hay không, Ta nghiên cứu vào bài học. Từ đó sẽ kích động được tính tò mò của học sinh, làm cho học sinh chú ý hơn vào bài học. * Khi dạy bài “ Dẫn nhiệt ” ( SGK Vật Lí 8 , Tr 77 ) GV: Theo các em khi thầy cho sợi tóc vào lửa thì hiện tượng gì xảy ra? HS: Tóc sẽ cháy. GV: Các em có tin rằng thầy dùng lửa đốt mà mà sợi tóc không cháy không ? HS: Nghi ngờ về khẳng định của giáo viên . GV: Dùng sợi tóc quấn chặt vào thanh kim loại đồng hình trụ tròn rồi hơ vào ngọn lửa cho học sinh quan sát. Sau đó tháo sợi tóc ra cho học sinh quan sát lại. HS: Sẽ rất ngạc nhiên khi sợi tóc bị đốt mà không bị cháy. GV: Đặt vấn đề: Em nào cho thầy biết vì sao sợi tóc bị đốt mà không cháy? Từ đó kích thích được tính tò mò của học sinh, học sinh sẽ chú ý ngay vào bài học. 3. Gây hứng thú cho học sinh bằng những câu hỏi có vấn đề * Khi dạy bài “Trọng lực – Đơn vị lực” (SGK Vật Lí 6, Tr 27) Trước khi vào học bài này giáo viên gọi học sinh trả lời câu hỏi: Trái đất có hình dạng gì? HS: Trái đất có dạng hình tròn. GV: Tại sao người ở phía bên kia trái đất không bị rơi ra khỏi trái đất? HS: Lúng túng không trả lời được. GV: Để trả lời câu hỏi trên chúng ta cùng nghiên cứu bài học “Trọng lực – Đơn vị lực”. HS: Sẽ chú ý vào bài học để tìm cách trả lời câu hỏi mà giáo viên đặt ra. * Khi dạy bài “Ứng dụng định luật truyền thẳng của ánh sáng” (SGK Vật Lí 7, Tr 9) Trước khi học bài này giáo viên yêu cầu học sinh về nhà quan sát thật kĩ bóng
  4. của mình khi đi ngoài trời nắng hoặc bóng của người khác, bóng của bàn tay khi bị bóng đèn điện chiếu in lên tường vào ban đêm, (chú ý quan sát sự đậm nhạt của viền ngoài so với bên trong). Khi vào tiết dạy giáo viên yêu cầu 1 – 2 học sinh nêu kết quả quan sát. GV: Tại sao lại có hiện tượng đó? HS: Lúng túng không biết trả lời thế nào. GV: Để giải thích được vấn đề trên, ta cùng nghiên cứu vào bài mới. HS: Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên. * Khi dạy bài “ Sự nổi ” (SGK Vật Lí 8, Tr 43) GV: Tại sao tàu làm bằng kim loại vừa to lại vừa nặng nhưng lại nổi trong nước còn kim vừa nhỏ, vừa nhẹ lại chìm trong nước ? HS: Cố gắng suy nghĩ để tìm câu trả lời, có thể chưa giải thích được. GV: Để giải thích được vấn đề trên, ta cùng nghiên cứu vào bài mới. HS: Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên. * Khi dạy bài “ Thấu kính hội tụ ” (SGK Vật Lí 9, Tr 113) GV: Một nhóm các nhà thám hiểm Bắc cực, khi đi quên mang theo lửa. Họ đã nghĩ ra một cách dùng những tảng băng để lấy lửa. Liệu rằng họ có lấy được lửa từ những tảng băng lạnh giá đó không? HS: Bỡ ngỡ vì có thể chưa nghe thấy bao giờ và tự đặt ra câu hỏi: Băng nó lạnh như thế thì lấy lửa làm sao được? GV: Để giải thích được vấn đề trên, ta cùng nghiên cứu vào bài mới. HS: Sẽ chú ý vào bài mới để tìm cách trả lời câu hỏi trên. Những hiện tượng trên hoặc quá gần gũi hoặc quá xa lạ, lâu nay ta cho nó là những hiện tượng hiển nhiên không cần giải thích hoặc giải thích chưa được hoặc mới nghe lần đầu. Từ đó sẽ kích thích được tính tò mò, ham hiểu biết của học sinh, học sinh sẽ chú ý hơn vào bài học . Như vậy, tất cả các tiết dạy bài mới chúng ta đều có thể chọn ra một hiện tượng gần gũi mà học sinh chưa giải thích được, để đặt câu hỏi nêu vấn đề vào bài. Ngoài ra trong mỗi tiết dạy đặt câu hỏi có vấn đề trước khi chuyển mục cũng gây hứng thú học tập cho học sinh. IV. KẾT QUẢ, HIỆU QUẢ MANG LẠI Trước khi nghiên cứu vấn đề này tôi cũng đã có nhiều trăn trở, làm thế nào để môn học của mình có nhiều học sinh yêu thích, có nhiều học sinh học tốt. Qua nghiên cứu về tâm lí học lứa tuổi học sinh THCS và các tài liệu đổi mới phương pháp dạy học môn Vật lý, Tôi đã chọn phương án là tìm cách gây hứng thú học tập cho học sinh. Trong quá trình giảng dạy tại trường THCS TT Trần Văn Thời, Tôi đã áp dụng đề
  5. tài này và thấy hiệu quả đạt được tương đối khả quan như : Tỉ lệ học sinh yêu thích môn học tăng lên, số học sinh yếu kém giảm, học sinh khá giỏi tăng cụ thể như sau. Khi chưa áp dụng HS không thích HS thích học HS khá, giỏi HS yếu,kém Khối Số HS SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 6 288 146 50.69 142 49.31 32 11.11 105 36.46 7 215 157 73.02 58 26.98 24 11.16 97 45.12 8 181 126 68.61 55 30.39 22 12.15 95 52.49 9 183 127 69.40 56 30.60 25 13.66 83 45.36 Áp dụng đến cuối năm học 2012 – 2013 HS không thích HS thích học HS khá giỏi HS yếu kém Khối Số HS SL TL% SL TL% SL TL% SL TL% 6 288 25 8.68 263 91.32 60 20.83 10 3.47 7 215 21 9.77 194 90.23 64 29.77 4 1.86 8 181 17 9.39 164 90.61 67 37.02 2 1.10 9 183 13 7.10 170 92.90 58 31.69 0 0 - Tỉ lệ học sinh thích học môn Vật Lí tăng thêm khoảng 35% - Số học sinh nắm bài ngay tại lớp tăng thêm khoảng 39% - Số học sinh khá , giỏi tăng thêm 25% - Số học sinh yếu , kém về môn Vật Lí hầu như không đáng kể . Để đạt được kết quả tốt trong môn Vật Lí yếu tố quan trọng là người học phải có hứng thú học tập. Môn Vật Lí mỗi sự vật hiện tượng đều thể hiện một yếu tố, một bản chất nào đó của quy luật tự nhiên. Những hiện tượng Vật Lí đó có thể rất quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày của mỗi chúng ta như: Gió thổi, nước sôi, mây trôi, vật nổi, những hiện tượng tưởng chừng như hiển nhiên đó, để nghiên cứu và trả lời được câu hỏi vì sao lại thế thường gây được ấn tượng mạnh vào tâm lí, sự hiếu kì của học sinh. Nhưng trong quá trình dạy học giáo viên không được quên rằng xử lí các tình huống sư phạm một cách hợp lí, tế nhị sẽ tạo được ấn tượng sâu sắc với lứa tuổi học sinh THCS, từ đó gây được hứng thú học tập cho học sinh. V. ĐÁNH GIÁ VỀ PHẠM VI ẢNH HƯỞNG CỦA SÁNG KIẾN Đề tài này có thể sử dụng cho giáo viên dạy vật lí cấp THCS làm tài liệu tham
  6. khảo, phục vụ cho việc giảng dạy môn Vật Lí tại trường THCS, hy vọng được chia sẻ phần nào những khó khăn, vất vả của giáo viên dạy môn vật Lí THCS theo hướng đổi mới phương pháp dạy học và chương trình sách giáo khoa hiện nay và góp phần nâng cao hiệu quả bài giảng của mình, góp phần thực hiện tốt mục tiêu giáo dục và đào tạo trong giai đoạn hiện nay và góp phần đưa nền giáo dục của huyện nhà ngày càng phát triển. Đề tài này được hội đồng khoa học nhà trường THCS Thị Trấn Trần Văn Thời đánh giá cao và được ứng dụng thực tế trong trường. VI. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT Đề nghị đối với các cấp lãnh đạo cho đề tài này được triển khai rộng rãi trong huyện nhà để kết quả giáo dục được nâng lên trong thời gian tới. Đối với giáo viên khi áp dụng sáng kiến này cần thực hiện tốt cách thức và phương pháp nêu trong sáng kiến để đạt được kết quả cao nhất trong giảng dạy góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành giáo dục huyện Trần Văn Thời nói riêng và tỉnh Cà Mau nói chung. Trong thời gian ngắn, khối lượng công việc nhiều nên trong quá trình biên soạn đề tài chắc chắn còn nhiều thiếu sót mà tôi chưa phát hiện ra. Để nội dung đề tài thêm phong phú và đầy đủ hơn, rất mong được sự góp ý của quý thầy cô đồng nghiệp, các cấp lãnh đạo và hội đồng khoa học. Tôi xin chân thành cảm ơn !