SKKN Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

doc 20 trang vanhoa 6032
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_giao_duc_ky_nang_song_cho_tre_mau_giao.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi

  1. A. PHẦN MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP: “Trẻ em hôm nay là thế giới ngày mai”, trẻ em sinh ra có quyền được chăm sóc và bảo vệ, được tồn tại, được chấp nhận trong gia đình và cộng đồng. Vì thế giáo dục con người ở lứa tuổi mầm non vừa là quyền lợi, vừa là nghĩa vụ của mỗi con người đối với xã hội, đối với cộng đồng. Trẻ em là công dân của xã hội, là thế hệ tương lai của đất nước nên ngay từ thưở lọt lòng mẹ chúng ta cần chăm sóc giáo dục trẻ thật chu đáo. Đối với trẻ mầm non cuộc sống còn rất non nớt, rất cần sự chăm sóc của người lớn, đó là sự chăm sóc không chỉ là vật chất mà còn cả về tinh thần vì đây là giai đoạn trẻ học, tiếp thu, lĩnh hội những giá trị sống để phát triển nhân cách, đồng thời trẻ rất dễ bộc lộ cảm xúc, chưa có nhiều kỹ năng ứng phó với căng thẳng và cảm xúc, vốn hiểu biết về thế giới xung quanh còn nhiều hạn chế do đó nhiều trẻ còn thụ động, không biết ứng phó với các tình huống nguy cấp, không biết tự bảo vệ mình trước nguy hiểm hoặc tìm kiếm sự giúp đỡ từ người khác. Hiện nay tình trạng trẻ em vô tư, thờ ơ, trầm cảm, tự kỷ chưa có cách xử lý phù hợp với những tình huống diễn ra hằng ngày như: Thưa – gởi, cảm ơn – xin lỗi, thăm hỏi, giúp đỡ, hay những hành vi gây hại với môi trường: Hái hoa, bẻ cành, dẫm lên thảm cỏ, không thích chăm sóc cây cối xung quanh, hoặc việc làm gây hại đến chính bản thân trẻ: xem ti vi khoảng cách gần, ngủ không đúng giờ, là nỗi trăn trở của người giáo viên trong công tác chăm sóc giáo dục trẻ. Đối với những trẻ có một số vấn đề về hành vi và khả năng tập trung trong những năm tháng trẻ đến trường. Đơn giản là vì những trẻ này thường không có khả năng chờ đến lượt, không biết chú ý lắng nghe và làm việc theo nhóm, điều này làm cho trẻ không thể tập trung lĩnh hội những điều cô giáo dạy. Vì vậy, giáo viên phải tốn rất nhiều thời gian vào đầu năm học để giúp trẻ có được những kỹ năng sống cơ bản ở trường mầm non giúp trẻ ổn định nề nếp nhóm lớp và có các thói quen tốt trong sinh hoạt hàng ngày. Để có một đất nước phồn vinh, văn minh, giàu mạnh, đầy ắp những con người biết chia sẻ, cảm thông, yêu thương. Luôn sẵn sàng giúp đỡ mọi người khi gặp khó khăn, luôn có thái độ, hành vi ứng xử đúng với tình huống đã, đang và có thể sẽ xảy ra 1
  2. trong thực tế. Ngay từ lứa tuổi mầm non, quan trọng là trẻ 5 tuổi chúng ta cần hình thành “kỹ năng sống” phù hợp, để giúp trẻ khám phá thế giới tâm hồn mình một cách có định hướng, hình thành những kỹ năng sống tích cực trong trẻ, giúp trẻ cân bằng cuộc sống trên 4 lĩnh vực: Thể trạng, tâm hồn, trí tuệ, tinh thần. Từ đó xây dựng cho trẻ những kỹ năng sống hòa nhập với thế giới xung quanh. Với trách nhiệm là giáo viên chủ nhiệm lớp 5 tuổi, tôi đã trăn trở rất nhiều về việc làm sao phải giáo dục cho trẻ biết ứng xử tốt với mọi tình huống mọi hoàn cảnh trong cuộc sống đời thường một cách văn minh và hồn nhiên đúng với độ tuổi của trẻ. Một tập thể trẻ có kỹ năng sống tốt sẽ tạo nên môi trường sống ấm áp, hoà thuận, vui vẻ và phát triển ở nhóm lớp. Nếu thực hiện tốt việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ cũng đồng nghĩa với việc thực hiện tốt nhiệm vụ chuyên môn bởi 2 yếu tố này hỗ trợ lẫn nhau và không tách rời nhau. Vì vậy tôi chọn đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi”. II. ĐIỂM MỚI CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP Đề tài sáng kiến đã từng có nhiều người nghiên cứu song ở mỗi độ tuổi, mỗi trường, mỗi vùng miền lại mang một đặc điểm riêng. Do vậy các giải pháp đưa ra áp dụng cũng không thể giống nhau. Và thực tế ở trường mầm non n¬i t«i c«ng t¸c, giáo dục kỹ năng sống cho trẻ được tổ chức lồng ghép ở lớp thông qua mọi hoạt động tại thời điểm trong ngày, thế nhưng giáo viên chưa thực sự chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động giáo dục kỹ năng đó sao cho phù hợp, hấp dẫn, lôi cuốn và đưa lại hiệu quả giáo dục cao. Chính vì thế giáo dục kỹ năng sống vẫn còn thể hiện một cách hình thức, chưa thể hiện hết hiệu quả của nó đối với sự phát triển toàn diện của trẻ. Vì lẽ đó tôi đã mạnh dạn chọn đề tài này nhằm mục đích: Phát huy tính tích cực, năng động, sáng tạo, mạnh dạn, lễ phép, tự tin của trẻ thông qua các hoạt động trong ngày như ( hoạt động học, chơi,ăn, ngũ, lao động .) nhằm củng cố, rèn luyện cho trẻ những kỹ năng sống cơ bản. Từ đó, giúp trẻ có thái độ, hành vi đúng đắn, tích cực đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được điều nên làm và không nên làm để thích ứng với cuộc sống hiện tại và trong tương lai. Ví dụ: trẻ nói lời “cảm ơn” khi được được lớn hay 2
  3. bạn bè cho quà, hay thấy cộng rác là trẻ tự nhặt bỏ vào thùng rác, hành động “cảm ơn”; “nhặt rác” đã trở thành “ý thức” của trẻ chứ không phải vì người khác sai bảo. III. PHẠM VI ÁP DỤNG ĐỀ TÀI: Trong quá trình nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi”, tôi đã vận dụng những kiến thức, hiểu biết cơ bản của mình chuyễn tải đến trẻ nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ đạt được kết quả khá mỹ mãn. Được hội đồng khoa học nhà trường đánh giá cao và khuyến khích cần nhân rộng đề tài ở các trường MN trong toàn huyện, tỉnh và đăng trên Web, giáo án điện tử. B. PHẦN NỘI DUNG I. THỰC TRẠNG NỘI DUNG CẦN NGHIÊN CỨU: Kỹ năng sống là khả năng thích nghi và hành vi tích cực cho phép cá nhân có khả năng đối phó hiệu quả với nhu cầu và thách thức của cuộc sống hàng ngày. Lứa tuổi mầm non là giai đoạn học - tiếp thu - lĩnh hội giá trị sống để phát triển nhân cách. Kỹ năng sống là những kỹ năng nền tảng để hình thành nhân cách trẻ. Phát triển về các mặt thể chất, tình cảm - xã hội, về giao tiếp, về ngôn ngữ, nhận thức , giúp trẻ sẵn sàng đi học lớp một ở trường phổ thông sau này. Cụ thể là: Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ được an toàn , khỏe mạnh, nhanh nhẹn, khéo léo bền bỉ, tháo vát, có khả năng thích ứng được với những điều kiện sống thay đổi. Giúp trẻ biết kiểm soát cảm xúc, thể hiện tình yêu thương và lòng biết ơn, đồng cảm với mọi người xung quanh. Giáo dục kỹ năng sống giúp trẻ mạnh dạn, tự tin, tự trọng và tôn trọng người khác, có khả năng giao tiếp tốt với mọi người. Giúp trẻ ham hiểu biết, linh hoạt sáng tạo, có những kỹ năng thích ứng với hoạt động học tập ở lớp một như : sẵn sàng hòa nhập, vượt qua khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ Các nhóm kỹ năng có thể dạy cho trẻ mầm non như : Kỹ năng chào hỏi, Kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng hoạt động nhóm, kỹ năng mạnh dạn, kỹ năng nhận thức, kỹ năng vận động, kỹ năng thích nghi, kỹ năng vệ sinh . Từ đó, chương trình giáo dục mầm non đã đưa ra các nội dung đơn giản và hết sức gần gũi với trẻ như: Dạy trẻ có kỹ năng hợp tác với mọi người, kỹ năng nhận và hoàn thành nhiệm vụ , kỹ năng tự phục vụ, kỹ 3
  4. năng kiểm soát cảm xúc các kỹ năng này không tách rời nhau mà có liên quan chặt chẽ với nhau, được thể hiện đan xen vào nhau, có thể thực hành trong bất cứ tình huống nào xảy ra hàng ngày. Cho nên việc giáo dục và vận dụng tốt sẽ giúp trẻ có nhân cách tốt. Khi giáo dục kỹ năng sống còn góp phần mở rộng nhận thức, phát triển trí tuệ, giáo dục đạo đức, giáo dục thẩm mĩ, phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non đã triển khai được một số năm học, tuy nhiên kết quả đạt trên trẻ chưa cao và chưa đồng đều giữa các trẻ. Nếu giáo viên thực hiện chuyên sâu và có phương pháp giáo dục phù hợp thì kết quả trên trẻ sẽ có bước tiến bộ nhanh chóng. 1. Thuận lợi: Năm học 2016 -2017 tôi được nhà trường phân công chủ nhiệm nhóm lớp 5- 6 với số lượng là 39 cháu, trong đó 19 cháu nữ, 20 cháu nam, tất cả đều đã qua lớp mẫu giáo nhỡ nên đã có một số kỹ năng sống cơ bản. Đa số trẻ ngoan ngoãn, mạnh dạn, hồn nhiên, đạt yêu cầu về phát triển thể chất, phát triển nhận thức, phát triển ngôn ngữ, và tình cảm xã hội, biết cảm thụ cái hay cái đẹp trong cuộc sống xung quanh trẻ. Líp häc có đủ diện tích, sạch sẽ, thoáng mát có đầy đủ ánh sáng để trẻ học tập. Mặt khác lớp được đầu tư đầy đủ trang thiết bị điện tử, CNTT, giúp giáo viên dễ dàng hơn trong việc chuyển tải kiến thức, tiết học cũng trở nên sinh động và hấp dẫn. Nhà trường luôn tạo điều kiện giúp đỡ về trang thiết bị dụng cụ, đồ dùng dạy học. Luôn nhận ®­îc sù quan t©m chØ ®¹o s¸t sao về chuyên môn cña ban gi¸m hiÖu nhµ tr­êng đã tạo điều kiện cho giáo viên được đi tập huấn, học hỏi thêm kinh nghiệm của các trường bạn. Bản thân tôi luôn có tinh thần trách nhiệm cao, yêu nghề mến trẻ, luôn quan sát, nắm bắt được đặc điểm tâm sinh lý, hình thành nề nếp thói quen của từng trẻ trong lớp. Bản thân trình độ chuyên môn đại học, được tập huấn về nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ mầm non do Phòng giáo dục tổ chức và qua các buổi bồi dưỡng chuyên môn tại trường, tích cực nghiên cứu tài liệu về giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mầm non. Trường, lớp có không gian hoạt động an toàn cho trẻ, có đủ đồ dùng đồ chơi cần thiết trong các hoạt động giáo dục. 4
  5. Trẻ khoẻ mạnh và rất hào hứng , sôi nổi với các hoạt động do cô tổ chức, lĩnh hội nhanh các kiến thức cô giáo truyền đạt. Phụ huynh quan tâm đến trẻ, tích cực tham gia vào các hoạt động của nhà trường, của nhóm lớp. Tài liệu hướng dẫn sử dụng bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi có các chỉ số, hướng dẫn cách đánh giá trẻ rõ ràng và cụ thể nên việc dạy trẻ các kỹ năng và đánh giá kết quả trên trẻ rất thuận lợi, chính xác, từ đó biết trẻ nào đạt được và chưa đạt được để tiếp tục rèn trẻ vào các chủ đề tiếp theo. MÆc dï cã nh÷ng thuËn lîi nh­ vËy song trong quá trình thực hiện vẫn gặp phải những kh¨n sau: 2. Khó khăn Trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều, do đó cùng một thời gian và biện pháp dạy trẻ các nội dung kỹ năng sống nhưng kết quả trên trẻ đạt chưa tương đương với nhau. Một số trẻ nhút nhát nên không tự tin khi tham gia vào các hoạt động ,một số trẻ lại quá hiếu động nên khi hoạt động chưa chú ý vào sự hướng dẫn của cô, kỹ năng sống của trẻ còn nhiều hạn chế. Sự quan tâm của gia đình dành cho các cháu là không đồng đều, 100% phụ huynh là nông thôn . Một số phụ huynh đi làm ăn xa để các cháu ở nhà với các anh chị hoặc ông bà đã già, thời gian phụ huynh quan tâm đến trẻ còn ít, không dành thời gian trò chuyện để tìm hiểu tâm tư nguyện vọng của trẻ để giáo dục trẻ mà chỉ biết chiều theo mọi đòi hỏi của trẻ, trẻ được đáp ứng quá đầy đủ về nhu cầu trẻ cần. Ví dụ: trẻ chỉ cần đòi mua đồ dùng nào đó là được đáp ứng ngay mà không biết điều đó có phù hợp với hoàn cảnh kinh tế của bố mẹ hay không, khi được món đồ chơi đó trẻ cũng không biết cảm ơn bố mẹ .Đây cũng là một trong những nguyên nhân làm cho trẻ thiếu kỹ năng sống. Mặc dù nhà trường đã hỗ trợ và đầu tư, tuy nhiên kinh phí trong việc tổ chức một số các hoạt động ngoại khoá vào các ngày lễ, ngày tết nhằm dạy kỹ năng sống cho trẻ còn hạn chế và chưa thường xuyên. 5
  6. Một số năm học trở lại đây, riêng nội dung giáo dục trẻ 5 tuổi có ban hành bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi thông qua 4 lĩnh vực - 28 chuẩn- 120 chỉ số với yêu cầu giáo viên lồng ghép các chỉ số này vào mục tiêu từng chủ đề sao cho phù hợp để qua đó dạy trẻ các kiến thức và kỹ năng cần thiết, chuẩn bị về tâm thế và thể chất cho trẻ 5 tuổi lên lớp một. Đa số giáo viên đã lồng ghép chỉ số vào mục tiêu phù hợp nhưng một số chỉ số chưa đạt được ở chủ đề trước giáo viên thường bỏ qua mà không rèn tiếp trẻ hoặc đưa tiếp vào mục tiêu của chủ đề sau cho nên nhiều trẻ bị bỏ qua các kỹ năng của chỉ số đó. 3. Khảo sát thực trạng: * Về phía trẻ: Vµo ®Çu th¸ng 9, t«i tiÕn hµnh kh¶o s¸t ®Ó ®¸nh gi¸ vÒ thùc chÊt vµ kh¶ n¨ng cña trÎ, xem kü n¨ng sống của trẻ thông qua các mặt đạt được như thế nào. T«i ®¸nh gi¸ 2 møc ®é ( Đạt và chưa đạt), ®Ó tõ ®ã cã kÕ ho¹ch båi d­ìng cô thÓ: Đạt Không đạt Mức độ nội dung khảo sát SL % SL % Kỹ năng giao tiếp chào hỏi 20 51% 19 49% Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 19 49% 20 51% Kỹ năng hợp tác hoạt động cùng nhóm 13 33% 26 67% Trẻ mạnh dạn, tự tin 10 26% 29 74% Kỹ năng nhận thức 10 26% 29 74% Kỹ năng vận động 15 38% 24 62% Kỹ năng thích nghi 13 33% 26 67% Kỹ năng vệ sinh 14 36% 25 64% Qua bảng khảo sát, thống kê ở trên thì chúng ta biết được rằng kỷ năng sống của trẻ ở lớp tôi các mặt còn hạn chế. Tỷ lệ trẻ đạt được quá thấp * Về phía giáo viên. Giáo viên đã tích cực thực hiện lồng ghép nội dung dạy kỹ năng sống cho trẻ vào các hoạt động trong ngày , đã đưa các chỉ số phát triển trẻ 5 tuổi vào mục tiêu của chủ đề 6
  7. để rèn một số kỹ năng qua các chỉ số đó nhưng hình thức tổ chức chưa linh hoạt, chưa sáng tạo, còn lung túng nên chưa lôi cuốn trẻ tham gia hoạt động một cách hứng thú. Chưa mạnh dạn, tự tin, chưa chú trọng sâu vào việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. * Về phía phụ huynh. Một số phụ huynh chưa có nhận thức đúng đắn trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Qua khảo sát từ phụ huynh cho thấy, có một số ít trẻ khi ở lớp thì thực hiện các kỹ năng sống tốt do trẻ rất nghe lời cô giáo nhưng khi về nhà được bố mẹ và người thân chiều chuộng thì trẻ lại không thực hiện một số kỹ năng sống trẻ có mà luôn phụ thuộc vào người khác( vd: trẻ không kiềm chế cảm xúc mà có thể lăn ra và khóc bất cứ lúc nào nếu người thân không đáp ứng nhu cầu của trẻ ). Phụ huynh còn nuông chiều và làm thay trẻ 4. Nguyên nhân của thực trạng Qua khảo sát, đánh giá kết quả tôi tìm ra một số nguyên nhân dẫn tới tỷ lệ đạt được của trẻ còn thấp đó là: Do trình độ nhận thức của trẻ không đồng đều. Do trẻ còn nhút nhát không giám thực hiện theo yêu cầu của cô. Hình thức tổ chức các hoạt động chưa linh hoạt, chưa kích thích hứng thú cho trẻ hoạt động. Đồ dùng trực quan còn ít, chưa đẹp, chưa hấp dẫn. Công tác phối kết hợp với phụ huynh của giáo viên còn hạn chế. Qua kết quả khảo sát thực trạng trên, bản thân tôi rất băn khoăn, lo lắng để tìm ra các biện pháp nhằm đưa chất lượng của giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả cao hơn. Vì vậy tôi đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5-6 tuổi ” ở lớp mình phụ trách. II. CÁC GIẢI PHÁP THỰC HIỆN: *Giải pháp 1: Nâng cao nhận thức tìm tòi để tự bồi dưỡng cho bản thân. Để thực hiện tốt “ Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ 5 – 6 tuổi” trước hết giáo viên không chỉ nghiên cứu nắm vững, mục đích, yêu cầu của hoạt động, 7
  8. mà còn cần phải nắm chắc được các phương pháp và biện pháp thực hiện giúp trẻ lĩnh hội kiến thức một cách nhẹ nhàng, không gò bó, áp đặt. Giúp trẻ hiểu bài sâu hơn, và vận dụng những điều đã học vào thực tế hằng ngày của trẻ. Năm học 2016 – 2017 bản thân tôi được Ban giám hiệu nhà trường quan tâm cho tham gia lớp tập huấn tại phòng giáo dục với chuyên đề dạy kỹ năng sống cho trẻ từ đó giúp tôi càng nắm chắc, khắc sâu hơn kiến thức về dạy kỹ năng sống cho trẻ như: mục đích, nội dung, phương pháp để truyền thụ kiến thức cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Tìm đọc tham khảo biện pháp dạy kỹ năng sống cho trẻ trên sách báo, tạp chí mầm non, xem ti vi Cụ thể là: + Sách hướng dẫn các hoạt động phát triển ngôn ngữ và giao tiếp cho trẻ mầm non theo bộ chuẩn phát triển trẻ 5 tuổi. + Sách giáo dục giá trị sống và kỹ năng sống cho trẻ mầm non{ nhà xuất bản đại học quốc gia}. + Sách bé thực hành các tình huống giáo dục kỹ năng sống dành cho trẻ mẫu giáo. + Sách các hoạt động phát triển kĩ năng xã hội dành cho trẻ mẫu giáo. Sách phương pháp giáo dục giá trị kỹ năng sống + Xem các chương trình truyền hình như quà tặng cuộc sống, cuộc sống quanh ta trên các kênh truyền hình như VTV3 vào tối chủ nhật hàng tuần Tôi mạnh dạn trao đổi, chia sẽ, thảo luận với đồng nghiệp trong trường và trường bạn về thực trạng và giải pháp mà tôi đã thực hiện và tham khảo thêm ở các bạn đồng nghiệp để từ đó tôi lĩnh hội được vốn kiến thức tốt nhất trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống cần thiết. Để dạy trẻ được những kỹ năng sống thì việc đầu tiên cô giáo phải là tấm gương để trẻ soi vào, để trẻ học làm người. Chính vì vậy, không phương pháp nào hiệu quả bằng phương pháp “ Dùng nhân cách để giáo dục nhân cách”. Những người dạy nội dung giá trị và kỹ năng sống càng cần là tấm gương mẫu mực về hành vi, lời ăn, tiếng nói, cách ứng sử, cách giải quyết vấn đề. Đây là những yêu cầu rất cao và đòi hỏi các cô 8
  9. giáo cũng luôn phải tự rèn luyện mình để công tác giáo dục trẻ hiệu quả hơn. Và tôi đưa ra những điều mà giáo viên nên và không nên trong việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ đó là: Không nói dài và nói nhiều; Không đưa ra lời đáp có sẵn mà để trẻ tự tìm tòi; Không vội vàng phê phán đúng, sai như một quan tòa nhưng kiên trì giúp trẻ tranh luận và kết luận; Không làm thay, làm hộ trẻ; Không bắt trẻ phục tùng theo ý người lớn ngay lập tức, vì sự phục tùng một cách thái quá không có sự thỏa thuận giữa các bên, không tạo điều kiện phát triển tính tự lập ở trẻ. * Giải pháp 2: Hình thành kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. . Hình thành thói quen tốt trong giờ đón, trả trẻ: Trong xã hội hiện nay với công nghệ tiên tiến phát triển không ngừng về mọi mặt, thì những kỹ năng giao tiếp chào hỏi tối thiểu lại mất dần đi. Và tôi quyết định đưa kỹ năng chào hỏi và kỹ năng giao tiếp vào những giờ đón trả trẻ. Thời gian đầu nhiều trẻ chưa có kỹ năng chào hỏi và giao tiếp vơi cô cùng bạn bè, tôi chủ động chào trẻ trước “ Cô chào bạn Lan” thì lúc đó trẻ sẽ biết đáp lại câu “ Con chào cô ạ” và tôi nhắc trẻ con chào bố, mẹ để đi vào lớp nào. Hoặc khi trẻ đang chơi nếu có khách đến thì tôi nhắc trẻ “ Các con chào bác, cô, dì đi nào” cứ như vậy dần dần trẻ sẽ có thó quen chào cô, chào bố mẹ và chào khách. Còn với trẻ chưa có kỹ năng giao tiếp với cô, với bạn tôi thường xuyên gần gũi với trẻ hơn, trò chuyện với trẻ nhiều hơn, về những người thân của trẻ, thế giới xung quanh từ đó trẻ mạnh dạn hơn, khi tiếp xúc và giao tiếp với cô, với bạn bè và người khác. Tôi sử dụng phương pháp thực hành, trải nghiệm, hình thức nêu gương, đánh giá để trẻ thấy và thực hiện tốt hơn. Cụ thể ngay từ đầu năm tôi đã tập cho trẻ ý thức tự cất đồ dùng gọn gàng, ngăn nắp lúc vào lớp cũng như lúc ra về. Và tôi phân công nhóm trưởng sẽ kiểm tra xem bạn nào thực hiện chưa đạt, cuối ngày tôi sẽ đánh giá và nêu gương bạn thực hiện tốt, đồng thời cũng khích lệ động viên cá nhân có cố gắng. Sau đó tôi có thể đưa ra hình thức khen thưởng khác (cắm cờ, kẹo, tặng quà, ) để trẻ thực hiện tốt hơn. Từ đó việc cất đồ dùng không còn là “hành động” mà trở thành “ý thức”, trẻ tự thực hiện không cần phải đợi nhắc nhở hay kiểm tra. 9
  10. . Hình thành kỹ năng sống thông qua hoạt động học: Tôi luôn chú ý bồi dưỡng cho trẻ kinh nghiệm sống, nhân cách tốt đẹp qua những câu chuyện, bài thơ, tục ngữ, ca dao, đồng dao, bài hát, Được nghe kể chuyện là điều trẻ rất thích, do đó tôi lựa chọn câu chuyện phù hợp để lồng ghép giáo dục. Chẳng hạn chủ đề bản thân, với câu chuyện “Giấc mơ kì lạ” có nội dung giáo dục “ăn uống đầy đủ để các giác quan hoạt động”, khi đó cô chuyển tải những thông điệp quý báu “kỹ năng tự nhận thức bản thân”, hãy biết giữ gìn và bảo vệ chính cơ thể mình. Trong bài thơ “Thỏ bông bị ốm” với nội dung “Bạn Thỏ bị đau bụng với lý do ăn thức ăn còn sống, uống nước ngoài ao” nhằm lồng ghép giáo dục kỹ năng an toàn, tự bảo vệ (không ăn thức ăn chưa được nấu chín, không ra gần bờ ao dễ xảy ra tai nạn). Thông qua hoạt động âm nhạc kích thích trẻ bộc lộ những suy nghĩ tình cảm, khả năng tưởng tượng, và tính sáng tạo của mình. Ví dụ: Tiết múa “ Cô mẫu giáo miền xuôi” trẻ nói “ Dạ thưa cô cháu không múa được” Cô động viên trẻ thế con có yêu cô giáo của mình không? À vậy thì con hãy múa cùng cô để tặng cô giáo của mình nha. Từ những lời động viên khích lệ đó trẻ sẽ hứng thú hơn và tự tin hơn trong hoạt động. Thông qua hoạt động làm quen với toán: “ Sắp xếp theo quy tắc” tôi sử dụng trò chơi gắn các dụng cụ của nghề sắp xếp theo quy tắc, đội nào gắn đúng, nhanh, thì đội đó sẽ chiến thắng. Như vậy buộc trẻ phải thảo luận với nhau, hợp tác hoàn thành bài tâp. Trong giờ học nào tôi cũng sưu tầm những đồ dùng đồ chơi sáng tạo Thông qua hoạt động môi trường xung quanh: Chủ đề gia đình tôi cho trẻ chia sẻ những thông tin về gia đình, những việc mà trẻ hay làm ở nhà, qua đó giáo dục kỹ năng giao tiếp, lắng nghe ý kiến người khác. Đối với các hoạt động khác diễn ra trong hoạt động học cũng vậy, giáo viên lựa chọn nội dung phù hợp, kết hợp với phương pháp dùng lời, trẻ được nghe, được đọc cùng với sự giảng giải của cô, trẻ sẽ thấm nhuần ý nghĩa của cuộc sống xung quanh, từ đó tích lũy cho mình những bài học kinh nghiệm. . Hình thành kỹ năng sống thông qua hoạt động vui chơi. 10
  11. Như chúng ta đã biết trẻ mẫu giáo “Học bằng chơi chơi mà học” , thông qua hoạt động vui chơi trẻ sẽ bộc lộ rõ nét những hành vi tốt và không tốt, vì vậy tôi luôn lồng ghép tích hợp nhiều kỹ năng sống cần thiết. Ví dụ “nhìn ngắm hoa đẹp” trẻ thể hiện cảm xúc vui vẻ, thoải mái, từ đó trẻ yêu thích cái đẹp, không được hái hoa vì hoa làm đẹp cho thiên nhiên. Hoặc tôi sử dụng tình huống để trẻ giải quyết “đang đi dạo chơi cùng trẻ thì trẻ bị ngã”, lúc này trẻ sẽ dựa vào cách giải quyết của trẻ mà rèn cho trẻ “kỹ năng giúp đỡ chia sẻ”, phải biết đỡ bạn bị ngã, không những vậy mà khi đi bất cứ đâu nếu có gặp người lớn tuổi, em nhỏ, người tàn tật thì giúp đỡ, cảm thông với hoàn cảnh của họ. Giáo viên cho trẻ dạo chơi sân trường, tận dụng nhiều tình huống ví dụ “cơn gió làm lá cây rơi xuống sân”, sân trường không còn sạch đẹp, vậy làm thế nào để sân trường sạch đẹp ? (nhặt lá cây rơi, nhặt rác bỏ vào thùng rác) Hình thành được kỹ năng ứng xử văn minh cho trẻ, không những ở trường mà trẻ sẽ thực hiện việc giữ vệ sinh ở nhà, ở lớp, ở nơi công cộng Hoạt động vui chơi là hoạt động chủ đạo của trẻ mẫu giáo, trẻ 5 tuổi càng hứng thú và tích cực hơn bởi đáp ứng được nhu cầu. Trẻ được chơi với đồ vật, được trải nghiệm thực tế, là cơ sở vững chắc để hình thành và phát triển, rèn luyện và giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Trong chủ đề “nghề nghiệp” ở góc phân vai có trò chơi “bác sĩ”, bác sĩ khám bệnh cho bệnh nhân với thái độ vui vẻ, niềm nở, y tá cấp phát thuốc và dặn bệnh nhân uống thuốc đúng giờ, bệnh nhân bốc số thứ tự và ngồi chờ khám theo lượt, lúc này tôi giả bộ đóng vai bà lão đi khám bệnh, bà lão đi sau cùng nhưng được cô y tá dẫn đi khám trước, tình huống xảy ra là các bệnh nhân kia không đồng ý, bác sĩ mới ra giải thích: bệnh nhân vui lòng đợi tí, ưu tiên cho người già và trẻ nhỏ. Có thể nói trẻ đóng vai bác sĩ đã có kinh nghiệm sống rất tốt và trẻ đã áp dụng ngay trong quá trình chơi, kỹ năng giao tiếp và ứng xử văn minh được thể hiện. Ở chủ đề “Giao thông” có góc chơi “ba chở con đi học bằng xe máy”, yêu cầu trẻ phải đội mũ bảo hiểm, cô dạy trẻ cách đội, cách gài dây, thao tác lặp đi lặp lại 2- 3 lần, từ đó hình thành kỹ năng an toàn và rèn luyện một cách tự nhiên. 11
  12. Đối với chủ đề “Gia đình” dạy trẻ kỹ năng chia sẻ, thể hiện sự quan tâm lẫn nhau giữa các thành viên trong gia đình, ví dụ như: gọi điện thoại hỏi thăm, chăm sóc ông bà, gia đình cùng nhau đi du lịch, thăm hỏi lẫn nhau lúc ốm đau Thông qua hoạt động vui chơi tôi đưa kỹ năng sống hợp tác cho trẻ: Ở độ tuổi này trẻ bắt đầu quan tâm đến bạn trong nhóm, trẻ sẳn sàng chia sẽ với bạn, và tình bạn trở nên cần thiết đối với trẻ Ví dụ: Với góc chơi xây dựng trong chủ đề giao thông, trong khi xây thì tất cả các thành viên trong nhóm phải cùng nhau thảo luận, phân công công việc cho nhau, và cùng làm công việc được giao. Cuối cùng trẻ hoàn thành công trình đã xây dựng. Đó là cách hợp tác cùng làm việc Hoạt động vui chơi diễn ra trong thời gian tương đối dài, có rất nhiều tình huống xảy ra, giáo viên cần bao quát và kịp thời can thiệp để điều chỉnh hành vi, giúp trẻ có thói quen tốt, biết được cái nào nên làm, cái nào không nên làm. Lâu dần những thói quen tốt, những hành vi đẹp sẽ được tích lũy và trở thành kỹ năng sống đối với trẻ. . Kỹ năng sống khi ăn, khi ngủ, khi vệ sinh Trong giờ ăn, ngủ, vệ sinh tôi luôn dành thời gian cho trẻ tự thực hiện các kỹ năng tự phục vụ, luôn chờ đợi trẻ không nóng vội không làm hộ trẻ. Chẳng hạn trẻ biết trước khi ăn là phải rửa tay, tự lấy ghế vào bàn ăn, ăn xong phải đánh răng, tự thay quần áo, xếp quần áo gọn gàng, tự lấy gối ngủ dậy tự cất đồ dùng. Trong giờ ăn tôi lồng ghép các bài thơ “ Giờ ăn” “ Bé ơi nhớ nhé” để dạy lồng ghép kỹ năng vệ sinh cho trẻ. Cứ như thế ngày này qua ngày khác, trẻ tự thực hiện mà không cần giáo viên phải nhắc nhở. Dạy trẻ trước khi ăn phải biết mời cô, mời bạn, lịch sự trong ăn uống từ tốn, không khua thìa bát, ăn sạch sẽ , nói năng lễ phép Kỹ năng sống ấy không những được trẻ thực hiện ở trường mà còn thực hiện ở nhà, hay ở bất cứ đâu khi trẻ đi đến. *Giải pháp 3: Sử dụng các tình huống có vấn đề để hình thành một số kỹ năng sống cần thiết. Một trong những kỹ năng cần hình thành, thì kỹ năng an toàn, tự bảo vệ là một trong những số đó, giúp trẻ có khả năng biết từ chối, xử lý những tình huống khi thấy không 12
  13. an toàn. Tôi tự đặt ra một số tình huống để trẻ tự giải quyết vấn đề, và những tình huống khác, có liên quan cũng được áp dụng trong suốt quá trình chăm sóc trẻ. Ví dụ: Tôi kể cho trẻ nghe câu chuyện: Bạn An được mẹ hứa rướt về sớm, nhưng mẹ bận họp đột xuất, chờ mãi mà không thấy mẹ. An đi ra cổng để đón mẹ, bỗng có một người phụ nữ cho bạn An kẹo và nói “Hôm nay mẹ bận không đón con được, mẹ nhờ cô chở con về, con ngoan ăn kẹo đi rồi lên xe cô chở con về”. Tôi dừng lại và hỏi trẻ : bạn An có về với người phụ nữ đó không ? Nếu con là bạn An con sẽ xử trí như thế nào ? Cho trẻ thảo luận và đưa ra câu trả lời. Sau đó cô kể tiếp: Bạn An không chịu lên xe, nói là đợi mẹ đón về, bạn An đi trở vào lớp, người phụ nữ nắm lấy áo bạn An, bạn An đã kêu lên thật to “cứu con với, có người định bắt con”, chú bảo vệ chạy tới Qua câu chuyện tôi rèn cho trẻ biết “không đi theo người lạ dù người lạ có cho bất cứ gì”. tôi có thể cho trẻ đóng vai các nhân vật trong câu chuyện cô vừa kể để khắc sâu hơn kỹ năng. Ngoài ra tôi có thể đặt ra nhiều tình huống khác và tổ chức lồng ghép mọi lúc mọi nơi để trẻ có cơ hội giải quyết và xử lý tình huống như: khi ở nhà một mình (không được mở cửa cho người lạ vào), đi lạc đường (đứng ở nơi trống và kêu thật to), khi bị côn trùng cắn (nói liền với người lớn), Rèn luyện giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mọi lúc mọi nơi: Kỹ năng sống của trẻ được tiếp nhận và rèn luyện mọi lúc mọi nơi trong môi trường gia đình và nhà trường. Ở trường tôi tận dụng bất cứ khi nào có thể để hình thành, rèn luyện kỹ năng cho trẻ. * Giải pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin đưa vào các chủ đề để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Để dạy tốt kỹ năng sống cho trẻ tôi đã xây dựng kế hoạch giáo dục kỹ năng sống cho trẻ thông qua việc ứng dụng công nghệ thông tin. Tôi tìm tòi các đoạn phim, video phù hợp để đưa vào các chủ đề nhằm hình thành kỹ năng sống cho trẻ một cách tốt nhất. Ở chủ đề: “Trường mầm non” Tôi đã lựa chọn kỹ năng giao tiếp như: Chào hỏi, tạm biệt, cảm ơn, xin lỗi, lễ phép với người lớn, tôn trọng bạn bè, vui vẻ thân thiện, lắng nghe ý kiến, chia sẻ thông tin, hòa thuận với các bạn, giúp đỡ bạn khi cần thiết, cùng bạn hoàn thành công việc 13
  14. Ở chủ đề “ Bản thân” để trẻ biết được cách chăm sóc bản thân và các kỹ năng tự phục vụ thì tôi đã cho trẻ xem một đoạn video từ đó trẻ sẽ hiểu rỏ hơn về bản thân, cách vệ sinh, cách mặc quần áo và các khả năng tự phục vụ khác. Ở chủ đề gia đình tôi cho trẻ xem một đoạn phim nói về tình cảm của các thành viên trong gia đình, trẻ biết được cách ứng xử đối với các thành viên trong gia đình. Biết lế phép với người lớn, biết yêu thương quan tâm chăm sóc lẫn nhau. Từ đó các kỹ năng tốt sẽ được hình thành ở trẻ. Ở chủ đề nghề nghiệp tôi lồng ghép hình ảnh chú bộ đội vào các hoạt động để giúp trẻ biết công lao to lớn của các chú bộ đội, từ đó trẻ biết yêu thương các chú bộ đội và luôn dành những tình cảm tốt đẹp nhất cho các chú . Ngoài ra tôi đã tìm tòi và đã đưa các chương trình trên tivi như “quà tặng cuộc sống”, vào cho trẻ xem để hình thành ở trẻ những kỹ năng sống cần thiết Trẻ hứng thú hơn khi được xem trực tiếp các đoạn video, phim, bởi các hình ảnh đẹp, sống động, kích thích sự tò mò, khám phá của trẻ, trẻ cùng nhau chia sẻ, tìm tòi lĩnh hội được nhiều kinh nghiệm quý báu hơn từ đó các kỹ năng sống tốt sẽ được khắc sâu hơn cho trẻ. *Giải pháp 5: Tuyên truyền phối hợp với các bậc phụ huynh cùng giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Hiểu rỏ được vai trò của các bậc phụ huynh cũng góp phần không nhỏ vào việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Vì vậy ngay từ đầu năm, khi tổ chức họp phụ huynh tôi đã đưa ra sáng kiến và ý tưởng giáo dục kỹ năng sống của mình áp dụng vào trẻ. Và thống nhất với các phụ huynh biện pháp giáo dục ở nhà. Đặc biệt đối với phụ huynh ít quan tâm đến con, tôi tìm gặp và trao đổi về tình hình học tập của cháu ở lớp và hỏi nề nếp, sinh hoạt sở thích của cháu khi ở nhà. Chính vì vậy cha mẹ có thể giúp trẻ phát triển kỹ năng cảm xúc bằng cách tạo mối lên kết giữ cô và gia đình và bạn bè. Vì vậy việc giáo dục kỹ năng sống đạt kết quả tốt thì mỗi một giáo viên phải biết kết hợp hài hòa các biện pháp trên. Và không thể thiếu một trong những biện pháp đó. bên cạnh đó không thể thiếu là tình yêu thương, ý thức, trách nhiệm và tình yêu thương của cô giáo đối với trẻ. 14
  15. IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN: Sau một thời gian thực hiện các giải pháp nêu trên, lớp tôi đã đạt được những kết quả như sau: * Về phía học sinh 100% trẻ đều được cô giáo và cha mẹ tạo mọi điều kiện khuyến khích khơi dậy tình tò mò, phát triển trí tưởng tượng, năng động, mạnh dạn, tự tin, 100% trẻ 5 tuổi được rèn luyện khả năng sẵn sàng học tập ở trường tiểu học sau này. 100% trẻ có thói quen lao động tự phục vụ, được rèn luyện kỹ năng tự lập; kỹ năng nhận thức. Trẻ đi học đều đạt tỷ lệ 98% trở lên, trẻ chăm ngoan đạt từ 99% trở lên và ít gặp khó khăn khi ở lớp, trẻ có kỹ năng lao động tự phục vụ, trực nhật, sắp xếp bàn ăn, tự xếp khay để khăn ăn, tự chuẩn bị khăn ăn, bát, thìa .trong các giờ ăn, tự xếp chăn và gối trước và sau khi ngủ Trẻ được rèn luyện kỹ năng xã hội, kỹ năng gia tiếp chung Đa số trẻ có các kỹ năng học tập tốt, biết cố gắng hoàn thành công việc của mình đến cùng, biết kết hợp với nhóm bạn trong các hoạt động hàng ngày 100% trẻ khỏe mạnh, sạch sẽ, mạnh dạn, hồn nhiên. Trẻ có ý thức học tập tốt, biết lao động tự phục vụ bản thân, có thói quen vệ sinh ở mọi lúc, mọi nơi. Với việc áp dụng các giải pháp vào tình hình thực tế ở lớp kết quả đạt được khá mĩ mãn, cụ thể như sau: * Bảng kết quả so sánh có đối chứng: Đầu năm Cuối năm Nội dung và mức độ khảo sát Đạt Đạt SL % SL % Kỹ năng giao tiếp chào hỏi 20 51% 39 100% Kỹ năng tự lập, tự phục vụ 19 49% 39 100% Kỹ năng hợp tác hoạt động cùng nhóm 13 33% 39 100% Trẻ mạnh dạn, tự tin 10 26% 39 100% 15
  16. Kỹ năng nhận thức 10 26% 39 100% Kỹ năng vận động 15 38% 39 100% Kỹ năng thích nghi 13 33% 39 100% Kỹ năng vệ sinh 14 36% 39 100% * Về phía giáo viên Bản thân tôi nắm rất chắc nội dung, phương pháp để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Tự tin sáng tạo hơn trong việc dạy kỹ năng sống cho trẻ Kết hợp chặt chẽ với phụ huynh, tạo được uy tín, tiềm năng đối với phụ huynh. Qua các đợt thanh tra, kiểm tra định kỳ, đột xuất của ngành, lớp được xếp loại Tốt. * Về phía phụ huynh : Phụ huynh thấy được tầm quan trọng của việc giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, luôn quan tâm đến sự phát triển sau này của con em mình. Phụ huynh thường xuyên phối hợp chặt chẽ với cô trong việc dạy trẻ các kỹ năng sống, trao đổi với giáo viên thông qua nhiều hình thức Giao tiếp giữa bố mẹ và con gần gũi hơn, ít la mắng hơn, hướng dẫn trẻ để trẻ tự đi lây đồ dùng phục vụ bản thân. . C. PHẦN KÕt luËn I.Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP Việc áp dụng các biện pháp trong quá trình nghiên cứu đề tài sáng kiến kinh nghiệm như: Nâng cao nhận thức tìm tòi để tự bồi dưỡng cho bản thân. Hình thành kỹ năng sống thông qua một số hoạt động trong ngày, sử dụng tình huống có vấn đề, phối hợp với phụ huynh nhằm mục đích giúp trẻ có thái độ, hành vi đúng đắn, tích cực đối với môi trường tự nhiên, môi trường xã hội, có kinh nghiệm trong cuộc sống, biết được điều nên làm và không nên làm để thích ứng với cuộc sống hiện tại và trong tương lai Với những kết quả đạt được như hôm nay, tôi rất phấn khởi và tự tin hơn khi tổ chức thực hiện các họat động giáo dục kỹ năng sống trên lớp . Từ đó tôi rút ra những bài học kinh nghiệm. 16
  17. Để làm tốt nội dung giáo dục kỹ năng sống cho trẻ, giáo viên phải có lòng yêu nghề, mến trẻ, có tinh thần trách nhiệm cao trong công việc. Đặc biệt giáo viên phải biết tự bồi dưỡng để có vốn kiến thức chuyên môn, có kinh nghiệm, biết xây dựng và sử dụng linh hoạt những phương pháp, biện pháp, thủ thuật đề ra trong tiết học. Giáo viên dạy kỹ năng sống cho trẻ thông qua các hoạt động trong ngày. Chú trọng dạy trẻ theo hướng lấy trẻ làm trung tâm, luôn hướng trẻ vào hoạt động một cách tích cực nhất. Cô chỉ là người gợi mở, và hướng dẫn thêm cho trẻ khi cần thiết. Thông qua ứng dụng công nghệ thông tin xây dựng đoạn vi deo, Clip trình chiếu trẻ xem để trẻ học tập những hành động tốt bắt chước. Phối kết hợp với phụ huynh để hình thành kỹ năng sống cho trẻ ở nhà. Người lớn phải tạo điều kiện cho trẻ tiếp xúc với thế giới xung quanh, tắm mình trong thế giới đó để rồi từ đó trẻ có những hiểu biết nhất định về thế giới bên ngoài từ đó hình thành ở trẻ tính tự lâp, kiên trì từ đó phát triển toàn diện nhân cách cho trẻ. II. KIẾN NGHỊ, ĐỀ XUẤT: Để giáo dục kỹ năng sống cho trẻ Mầm non trong giai đoạn hiện nay thông qua việc thực hiện các biện pháp trên đã phần nào đạt được một số kết quả như đã nêu. Bản thân xin có một số đề xuất sau : 1. Đối với phòng giáo dục và đào tạo: Tạo điều kiện bổ sung những tài liệu tham khảo, trang thiết bị và đồ dùng phục vụ trong công tác giáo dục kỹ năng sống cho trẻ. Cần tăng cường hơn nữa các lớp tập huấn, bồi dưỡng để giáo viên có nhiều cơ hội học tập và rút kinh nghiệm cho bản thân. Cung cấp các tiến bộ khoa học kỹ thuật như: Học tập qua băng hình, đĩa ghi hình để cung cấp thêm tư liệu cho giáo viên. 2. Đối với nhà trường: Ban giám hiệu nhà trường thường xuyên dự giờ, tổ chức thao giảng, hội thảo về chuyên đề giáo dục kỹ năng sống để các giáo viên có thể trao đổi , học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau. 17
  18. Tạo điều kiện cho chị em giáo viên được dự giờ đồng nghiệp để cùng trao đổi kinh nghiệm giảng dạy. Ban giám hiệu cần có kế hoạch bồi dưỡng cho giáo viên về kiến thức chăm sóc giáo dục trẻ trong qua trình giáo dục kỹ năng sống và có những biện pháp hữu hiệu để giáo viên thực hiện được tốt hơn. Cần tạo môi trường thuận lợi về các yếu tố cho trẻ học tập như: yếu tố về thiên nhiên, yếu tố vệ sinh để trẻ có một sân chơi bổ ích. Trên đây là “Một số biện pháp giáo dục kỹ năng sống cho trẻ mẫu giáo 5- 6 tuổi”. Rất mong được sự góp ý của hôị đồng khoa học để bản sáng kiến được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn 18
  19. ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG ĐÁNH GIÁ CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC PHÒNG GD & ĐT 19