SKKN Một số giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non

pdf 21 trang binhlieuqn2 07/03/2022 18133
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_mot_so_giai_phap_phat_huy_tinh_tich_cuc_chu_dong_sang_t.pdf

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số giải pháp phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho trẻ 5-6 tuổi ở trường Mầm non

  1. tôn trọng thì trẻ mới có thể gần gũi để thể hiện những gì trẻ biết, trẻ nói, trẻ mới mạnh dạn, tự tin trò chuyện với cô và bạn. Như vậy, từ việc tạo nhiều đồ dùng, đồ chơi phong phú, hấp dẫn cùng với cách bố trí, sắp xếp một môi trường học tập vừa gọn gàng, khoa học với nhiều màu sắc tôi thấy khả năng chú ý học tập của trẻ cao hơn, chủ động tham gia vào các hoạt tích cực hơn, khả năng sáng tạo của trẻ từ đó mà được phát huy hơn, từ đó trẻ mạng dạn tự tin tham gia vào các hoạt động. Giải pháp 3. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ thông qua các hoạt động. Trong chương trình GDMN gồm nhiều hoạt động như hoạt động học, hoạt động chơi, hoạt động ngoài trời Để phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của trẻ thì người giáo viên luôn là người hướng dẫn, gợi mở, hỗ trợ tạo mọi cơ hội cho trẻ hoạt động. Khuyến khích trẻ trao đổi, chia sẽ, trình bày ý kiến của mình. Quan tâm đến trẻ, tìm hiểu nhu cầu của trẻ, khơi gợi tính ham hiểu biết, tìm tòi, khám phá qua những câu hỏi mà trẻ thắc mắc. Tạo cơ hội cho trẻ tích cực chủ động tham gia các hoạt động. * Hoạt động học: Trong quá trình thực hiện giáo dục phải lấy trẻ làm trung tâm, vì vậy tôi luôn chú ý đến việc tạo tình huống và sử dụng các câu hỏi mở để kích thích sự tò mò, tư duy của trẻ. Khi tổ chức hoạt động học, cần lựa chọn nội dung phù hợp với chủ đề, phù hợp với độ tuổi và đặc điểm của từng trẻ. Ví dụ: Thay bằng lối kể, trình bày giáo viên cần đặt câu hỏi, tạo tình huống như: Con nghĩ như thế nào? Làm sao con biết? Tại sao con lại nghĩ như vậy? Nếu thì sao? Theo con thì điều gì/ cái gì sẽ xảy ra? Bên cạnh lựa chọn nội dung phù hợp tôi còn áp dụng phương pháp dạy học tích cực trong quá trình hoạt động của trẻ. Ví dụ: Trong hoạt động phát triển ngôn ngữ: Kể chuyện Tích Chu. Tôi cùng trẻ trang trí một “vườn cổ tích” với những hình ảnh về câu chuyện “Tích chu” như hình ảnh bà quạt cho Tích Chu, hình ảnh bà biến thành chim bay đi kiếm nước, hình ảnh Tích Chu lấy nước cho bà uống Bên cạnh đó còn trang trí ngôi nhà, cây, tảng đá như một khu rừng. Từ đó trẻ rất hứng thú khi được nghe 9
  2. kể chuyện cũng như nhớ câu chuyện rất nhanh và tự tin khi trả lời các câu hỏi mà cô đưa ra. Trẻ có thể mạnh dạn hơn khi đóng kịch lại câu chuyện vừa được học. Qua hoạt động đóng kịch đó càng giúp trẻ sáng tạo hơn trong lời nói, trong diễn xuất cử chỉ điệu bộ của mình. Từ đó giúp trẻ mạnh dạn tham gia một cách tích cực vào hoạt động. Luôn tạo ra các tình huống có vấn đề, kích thích trẻ suy nghĩ và tìm kiếm phương thức giải quyết: Biết cách lựa chọn câu hỏi, đặt ít câu hỏi nhưng câu hỏi phải khiến trẻ suy nghĩ, không hỏi tràn lan. Tôn trọng câu trả lời của trẻ, khuyến khích trẻ đặt câu hỏi. Ví dụ: Khi tìm hiểu về các loại “động vật trong rừng” nên xoay quanh các câu hỏi như: Loại “động vật trong rừng” nào các con biết? Con vật nào hiền lành? Vì sao con biết? Con vật nào hung dữ? Đối với các con vật hung dữ thì các con phải làm gì? Tại sao con lại nghĩ như vậy? Giáo viên động viên trẻ suy nghĩ, cùng tham gia xây dựng, bàn phương án tự tìm lấy câu trả lời hoặc cách giải quyết vấn đề. Khi trẻ đặt câu hỏi, giáo viên nên đưa thêm các câu hỏi dạng: “Vậy con nghĩ như thế nào? Chúng ta cùng nghĩ xem cần phải làm gì? ” nhằm thu hút trẻ trò chuyện để cùng nhau tìm kiếm câu trả lời. * Hoạt động ngoài trời: Thường xuyên tổ chức các hoạt động khám phá, trải nghiệm để trẻ tự giải quyết vấn đề. Ví dụ: Cho trẻ thí nghiệm vật chìm nổi, thí nghiệm chất hòa tan và không hòa tan Cho trẻ chơi với các nguyên liệu thiên nhiên và tạo ra các sản phẩm từ những nguyên vật liệu đó. Ví dụ: Cho trẻ chơi với những chiếc lá: trẻ có thể tạo ra con trâu từ lá mít; có thể xếp đồng hồ, vòng đeo tay, làm cái kính từ lá dừa; xếp ngôi nhà từ những viên sỏi; làm tranh con bướm, con chuồn chuồn từ những cánh hoa, lá. * Hoạt động góc: Các góc phải được sắp xếp linh hoạt để có thể thay đổi, di dời khi cần thiết. 10
  3. Ví dụ: Để có thể thay đổi sự tập trung của góc phân vai nội dung hoạt động thay đổi từ trò chơi đóng vai sang trò chơi Bác sỹ khám bệnh. Công tác chuẩn bị đồ dùng phải chu đáo, màu sắc đẹp, nội dung chơi phải hấp dẫn, cô là người động viện, gợi mở cho trẻ, tạo những tình huống nảy sinh có vấn đề cho trẻ tự tìm ra cách giải quyết. Ví dụ: Ở góc chơi Bé làm nội trợ, cô giáo có thể cùng chơi và trong vai một người khách khó tính đến ăn, khách đòi hỏi món ăn ngoài dự tính của bà chủ quán. Như vậy giáo viên có thể quan sát xem thái độ, cách giải quyết của các bé ở góc này như thế nào * Hoạt động vui chơi: Giáo viên cần tạo nhiều cơ hội cho trẻ lựa chọn học liệu, giáo viên cần trò chuyện và chia sẻ ý tưởng của trẻ kích thích trẻ tư duy, trẻ có thể chủ động tích cực vui chơi, tìm tòi khám phá trải nghiệm thực hành sáng tạo. Vì thế giáo viên cần phải suy nghĩ cẩn thận về những gì họ muốn trẻ em để học và làm thế nào để điều này có thể xảy ra tốt nhất thông qua quá trình tham gia và động viên trẻ. Giáo viên cần có suy nghĩ về những kinh nghiệm và tạo mọi cơ hội tốt nhất cho trẻ tham gia khám phá. * Hoạt động chiều: Tăng cường cho trẻ hoạt động nhóm, hoạt động cá nhân như: Tổ chức cho trẻ hoạt động nhóm 3-5 trẻ với hoạt động dán tranh, trẻ tự bàn bạc, thảo luận trong nhóm của mình để dán tranh theo đúng yêu cầu mà giáo viên đưa ra. Giáo viên chuẩn bị tranh cho trẻ, bảng dán, keo dán và đưa ra yêu cầu. Đối với những trẻ cá biệt, nhút nhát tôi luôn gần gũi, động viên và cùng thực hiện với trẻ tạo cho trẻ cảm giác tự tin, mạnh dạn như: cô chơi với trẻ ở góc chơi, cô cùng vẽ với trẻ, dần dần động viên trẻ tự thể hiện khả năng của mình như để trẻ tự mình hát một bài hát, tự mình đọc một bài thơ. Qua việc áp dụng thực hiện giải pháp này tôi thấy trẻ hứng thú hơn, sáng tạo hơn, linh động hơn, nhanh nhẹn hơn vào các hoạt động, thay vào sự nhàm chán bằng những sự hứng thú tập trung, giúp trẻ thể hiện được sự khéo léo, óc tưởng tượng, sự giao lưu với bạn bè. 11
  4. Giải pháp 4. Tạo cơ hội để trẻ thể hiện khả năng của bản thân Để giúp trẻ phát huy được tính tích cực chủ động, sáng tạo, giáo viên cần tận dụng mọi hoàn cảnh để khơi gợi vốn kinh nghiệm, kỹ năng đã có của đứa trẻ ở mọi lúc mọi nơi. Khi trẻ thể hiện được khả năng của bản thân là lúc trẻ tự tin tham gia học tập tích cực. Muốn vậy, chúng ta cần tạo một môi trường học tập vui chơi thật sự gần gũi và thân thiện đối với trẻ, trường học, lớp học phải là ngôi nhà thứ 2 của trẻ. Có như vậy trẻ mới trở nên mạnh dạn, tự tin tham gia vào các hoạt động, tập cho trẻ có thói quen trao đổi trò chuyện, tự khám phá, suy nghĩ, đề xuất ý kiến, tranh luận, thảo luận với các bạn, với cô làm cho trẻ trở nên mạnh dạn, tự tin hơn trong các hoạt động. Vì vậy, chúng ta mới phát huy được tính tích cực, tự giác ở trẻ, giúp trẻ tự thể hiện được khả năng của bản thân. Với những cử chỉ, điệu bộ, ánh mắt, giọng nói ân cần và gần gũi cô có thể tạo cho trẻ một niềm tin, trẻ học tập tự nhiên, thoải mái. Đặc biệt có nhiều cháu còn bộc lộ khả năng của mình trước lớp như cháu biết quán xuyến lớp, phụ giúp cô chuẩn bị đồ dùng cho tiết học, biết chuẩn bị bát thìa trước khi ăn cơm, biết trải chiếu, xếp gối trước khi ngủ và sau khi ngủ dậy, nhiều cháu còn mạnh dạn hát, kể chuyện, đọc thơ để tặng cô và các bạn sau mỗi giờ học, giờ chơi. Bên cạnh việc tạo cơ hội để trẻ thể hiện khả năng của mình, các cô giáo cũng như các bậc phụ huynh cần phải biết khen thưởng trẻ đúng thời điểm và kịp thời. Ví dụ: Khi trẻ hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, cô có thể thưởng cho trẻ một lời khen ngợi, động viên, hoặc tặng cho cháu một món quà nhỏ hay chỉ là một cử chỉ nhìn trẻ với ánh mắt trìu mến, nở nụ cười thật tươi ngay trong lúc đó với trẻ để khích lệ tinh thần, tạo nguồn hứng thú cho trẻ tham gia hoạt động tích cực hơn và hiệu quả hơn. Từ đó tôi thấy trẻ lớp mình ngày càng trở nên mạnh dạn tự tin, chủ động hơn trong các hoạt động và ngày càng tham gia một cách tích cực và sáng tạo hơn. 12
  5. Giải pháp 5. Tăng cường sử dụng yếu tố chơi và trò chơi trong quá trình hoạt động nhằm phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của trẻ. “Học bằng chơi – Chơi mà học” là một phương châm được đề cao trong hoạt động dạy học do có tác dụng khơi dậy nhiều hứng thú cho người dạy lẫn người học đồng thời tạo ấn tượng sâu sắc về bài học, giúp việc học nhẹ nhàng mà hiệu quả. Trò chơi trong dạy học có nhiều cấp độ từ việc chơi cho vui trước khi học, đến việc học dưới hình thức trò chơi và đến mức độ cao hơn là học tập từ trò chơi. Sử dụng trò chơi khám phá tri thức trong dạy học đòi hỏi kĩ năng sư phạm thuần thục và khả năng sáng tạo cao của người dạy từ khâu xây dựng, lựa chọn, tổ chức thực hiện trò chơi đến việc hướng dẫn người học tư duy, phát hiện tri thức từ trò chơi. Những nỗ lực sử dụng trò chơi trong dạy học không chỉ khẳng định tính khoa học và nghệ thuật của hoạt động dạy học mà còn chứng tỏ tinh thần đam mê nghề nghiệp của giáo viên. Từ đó, làm tăng hứng thú, động cơ học tập của trẻ và góp phần nâng cao hiệu quả giảng dạy của giáo viên. Tăng dần độ khó của trò chơi và tình huống chơi, làm phức tạp hóa luật chơi, nội dung chơi, hành động chơi, đưa ra trò chơi mới. Ví dụ: Để hình thành kỹ năng phân loại đối tượng theo những dấu hiệu đặc trưng, cho trẻ chơi trò chơi “Hãy xếp nhanh thành nhóm” Khi trẻ đã chơi thành thạo trò chơi này, ta tổ chức cho trẻ chơi trò chơi mới. Tạo môi trường trò chơi thích hợp, không gian chơi rộng rãi, đảm bảo an toàn, đồ chơi phù hợp với từng loại hoạt động của trẻ và gợi ý cho trẻ chơi. Thiết lập không khí tự do, thoải mái không gò bó ép buộc trong quá trình chơi, phát huy tính chủ động, độc lập của trẻ, luôn đảm bảo vai trò chủ đạo của trẻ trong khi chơi. Tăng cường sử dụng yếu tố thi đua giữa các tổ, các nhóm, các cá nhân. Việc sử dụng các trò chơi thích hợp để kích thích trẻ hoạt động và mở rộng hiểu biết về môi trường xung quanh, điều này tốt cho sự phát triển về lời nói, sự tư duy của trẻ. Đặc biệt giúp trẻ biết: Xây dựng đội chơi; Cải thiện khả năng giao tiếp; Phát triển kỹ năng thuyết trình; Rèn luyện trí nhớ; Rèn luyện tính sáng tạo; Học những kỹ năng phán đoán; Học kỹ năng đánh lừa (đánh lạc hướng 13
  6. người khác); Học và rèn luyện hành vi có luật; Học cách làm chủ thái độ đối với thành công và thất bại; Cải thiện kỹ năng tự quản cho trẻ. Để sử dụng trò chơi trong dạy học đạt hiệu quả và đem lại nhiều tác dụng thì giáo viên khi sử dụng nó không nên quá lạm dụng, chỉ sử dụng trong thời gian ngắn như khởi động buổi học, giới thiệu một nội dung mới hoặc để củng cố một vấn đề. Nếu trong buổi học thấy tình trạng trẻ mệt mỏi cũng có thể sử dụng trò chơi học tập để giúp trẻ thay đổi trạng thái, lấy lại tinh thần học tập, việc sử dụng trò chơi trong dạy học vừa giúp trẻ thấy thoải mái, vừa phát huy tính tự lực của các em đồng thời vẫn có những điểm tựa để ghi nhớ kiến thức của bài học thông qua nội dung chơi. Giải pháp 6. Tạo cho trẻ cảm giác an toàn, thoải mái và tôn trọng trẻ. Đồng thời đánh giá, động viên, khen ngợi, nêu gương tốt kịp thời : Trong giáo dục mầm non với quan điểm “lấy trẻ làm trung tâm” trẻ tự phát triển kiến thức bằng quá trình nhận thức, trẻ phải có cơ hội để trẻ tự thực hành, tự khám phá và được trải nghiệm, tức là trẻ học cái mới từ cái mà trẻ đang làm. Do đó, giáo viên cần tạo một môi trường an toàn thoải mái, cho trẻ cảm thấy mình có thể tự do thực hiện ý tưởng và cách giải quyết của mình, có thể chưa đúng nhưng không sợ bị la mắng, phê bình hay trách phạt. Giúp trẻ hiểu rằng cô luôn sẵn sàng trả lời trẻ và phụ giúp khi cần. Giáo viên luôn tin tưởng vào khả năng của trẻ, vào sức mạnh của trẻ, là người bạn cùng trẻ trải nghiệm và luôn linh hoạt trước nhu cầu của trẻ để đặt ra những câu hỏi kích thích trẻ suy nghĩ tìm tòi cái mới, nhận thức cái chưa biết. Khi hướng dẫn trẻ cô luôn chú đến đặc điểm cá nhân để có biện pháp đối xử cá biệt, linh hoạt nhằm tạo sự công bằng và tôn trọng các ý tưởng của trẻ. Cô giáo luôn gần gủi, thương yêu, vui vẻ, cởi mở, nhẹ nhàng trong mọi hành vi, cử chỉ lời nói, trong giao tiếp với trẻ. Cô giáo phải làm sao để trẻ cảm nhận được nguồn hạnh phúc, sự ấm áp, được quan tâm, được yêu mến, cảm giác được an toàn và có thể xem mình là một thành viên trong gia đình nhỏ mà trẻ đang hoà nhập. Tình cảm của cô đối với trẻ giàu cảm xúc thân thiết như quan hệ mẹ - con. 14
  7. Cô luôn tôn trọng và đồng cảm tạo nên không khí vui tươi, cởi mở, lôi cuốn trẻ hứng thú tham gia vào sinh hoạt một cách thoải mái và tự tin. Đánh giá, khen ngợi, động viên trẻ kịp thời là một trong những biện pháp gây hứng thú rất hữu hiệu cho trẻ khi trẻ tham gia vào hoạt động. Với những lời tán thưởng, ánh mắt đồng tình có tác dụng gây cho trẻ niềm tin, khuyến khích trẻ tiếp tục tham gia và vượt qua khó khăn mong muốn hoàn thành tốt nhiệm vụ làm thức dậy ở trẻ cảm giác của sự thành công. Cảm giác đó đánh thức trẻ đến hoạt động, duy trì hứng thú của trẻ trong suốt quá trình tham gia hoạt động. Việc khen ngợi giúp trẻ tích cực hơn khi tham gia các hoạt động lần sau. Khi động viên trẻ, tôi chú trọng đến các phương pháp như biểu dương, tán thưởng những thành tích trẻ đã đạt được và khuyên bảo tôi dùng lời lẽ khéo léo và thái độ tình cảm để thương lượng thuyết phục trẻ. Tỏ rõ lòng tin: Tôi tin là trẻ làm được công việc gì thì tôi kiên quyết hướng dẫn trẻ làm và cho trẻ thấy được là cô tin tưởng ở trẻ. Trẻ ở giai đoạn này hay tò mò, thích bắt chước do đó mà tôi thường xuyên nêu gương tốt thông qua các hoạt động của trẻ diễn ra trong ngày. Tôi luôn tôn trọng trẻ và hết sức công bằng khi khen trẻ. Khen và chê có tác dụng mạnh đến hành vi của trẻ, do vậy tôi thường khen những gương tốt để trẻ bắt chước. Ví dụ: Cô khen những trẻ hát đúng giai điệu, rỏ lời ca, nếu có trẻ hát chưa hòa giọng với các bạn thì cô có thể nói: “Lần sau con hát đồng đều, hòa giọng với bạn, không hát quá to để được cô khen giống bạn nhé! Cô thấy khi con hát đồng đều với bạn cô thấy con hát hay hơn đấy! Cô không nên chê trẻ trước tập thể lớp mà nên gần gũi để góp ý nhỏ với trẻ khi cần thiết trong hoàn cảnh phù hợp. Giải pháp này cũng đóng vai trò không nhỏ, giúp cho trẻ thêm tự tin, hy vọng và có lòng tin để nhìn thẳng vào hoàn cảnh, tăng thêm niềm tin, tính kiên trì và chủ động cho trẻ khi tham gia vào các hoạt động. Giải pháp 7. Làm tốt công tác phối hợp với phụ huynh. Thực hiện nghiêm túc theo sự chỉ đạo của nhà trường, đầu năm học tôi triển khai họp phụ huynh để bàn và thống nhất với cha mẹ trẻ về nội dung và hình 15
  8. thức, biện pháp giáo dục trẻ trong từng giai đoạn và cả năm. Lập kế hoạch phối hợp với phụ huynh cụ thể ngay từ đầu năm học. Ví dụ: Vào đầu năm học, cô giáo thông báo với phụ huynh của lớp về nội quy như sau: Động viên con đi học đều, đưa đón con đúng giờ quy định. Ghi rõ tên con vào các đồ dùng riêng, ba lô, dày dép, mũ quan tâm và dạy dỗ con những nề nếp, thói quen văn minh, lịch sự: Chào hỏi, biết cảm ơn, xin lỗi, biết vệ sinh thân thể, vệ sinh môi trường. Đóng góp các khoản kinh phí theo quy định. Tổ chức họp với cha mẹ của lớp theo định kỳ, trong buổi họp giáo viên thông báo cụ thể về nội dung hoạt động của lớp, trao đổi với cha mẹ về kinh nghiệm chăm sóc giáo dục trẻ, tuyên truyền kiến thức khoa học về nuôi dạy trẻ, giải đáp những thắc mắc cho cha mẹ trẻ khi cần thiết. Phối hợp trao đổi trực tiếp với cha mẹ trẻ hàng ngày trong giờ đón và trả trẻ. Cô thông báo nhanh về tình hình của trẻ trong ngày, hỏi han về tình hình của trẻ ở nhà, nghe cha mẹ trao đổi những điều cần chú ý của mỗi trẻ. Trong lớp giáo viên chủ động xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên với cha mẹ và các thành viên khác trong gia đình, cung cấp các câu chuyện, bài thơ, trò chơi, chữ cái, chữ số có trong chương trình cho các bậc cha mẹ để họ cùng nhau dạy trẻ lúc ở nhà. Ví dụ: Tôi trao đổi với phụ huynh về một số biện pháp giáo dục trẻ như: Cha mẹ có thể làm nhiều cách để giúp bé tự tin và mạnh dạn hơn: như dẫn bé đi chơi, tham gia các buổi lễ hội, gặp gỡ bạn bè của cha mẹ và các bạn. Tuy nhiên, phụ huynh không nên ép trẻ phải trò chuyện với người lạ, mà nên động viên con, tạo hứng thú cho trẻ biết trò chuyện, dẫn dắt bé làm quen. Cha mẹ cần luôn khen ngợi những ưu điểm của trẻ, để trẻ cảm thấy tự tin hơn Ở mẫu giáo trẻ học bằng chơi, thông qua hoạt động vui chơi để trẻ được học được trải nghiệm, nên không gò bó áp đặt trẻ, không nhồi nhét kiến thức vào đầu trẻ. Phụ huynh cần nắm bắt khả năng, sở thích của con mình để động viên cho con sự tự tin, có động lực để phát triển. Cha mẹ nên quan tâm đến những gì con mình đang học ở trường, biết mỗi ngày trẻ cần tìm hiểu và chuẩn bị bài như 16
  9. thế nào cho ngày học kế tiếp. Phụ huynh càng tham gia nhiều hoạt động tại trường càng tốt. Những điều này sẽ có tinh thần khích lệ cao đối với trẻ. Điều quan trọng là, phụ huynh nên tạo cho con mình một sự hứng thú với việc học và thích được đến trường, thể hiện sự quan tâm tới những gì bé đang học, khuyến khích trẻ biết chia sẻ những gì trẻ đang học hàng ngày với mình, khen ngợi sự tiến bộ và sự cố gắng dù nhỏ của bé. * Hiệu quả của đề tài: Qua quá trình thực hiện với những giải pháp trên, trẻ ở lớp tôi đạt được những kết quả đáng phấn khởi, cụ thể: - Đối với trẻ: + Trẻ hứng thú tham gia vào các hoạt động. Từ chỗ trẻ tham gia hoạt động một cách rập khuôn giờ trẻ đã hứng thú tham gia một cách tích cực. Có nhiều trẻ còn đưa ra những câu hỏi mang tính sáng tạo. Biết vận dụng những kiến thức đã học vào bản thân mình. Trẻ yêu trường lớp, yêu cô giáo và bạn bè, ham thích đến trường. + Trẻ mạnh dạn, tự tin hơn vào khả năng của bản thân khi tham gia vào các hoạt động. Kết quả của trẻ sau quá trình thực hiện đề tài vào tháng 4/2021 như sau: Trẻ chưa Nội dung Trẻ đạt Tỷ lệ % Tỷ lệ % đạt Khả năng tập trung chú 31/33 94 2/33 6 ý trong giờ học Trẻ mạnh dạn, tích cực 32/33 97 1/33 3 tham gia các hoạt động Trẻ biết giải quyết các 33/33 100 0 0 tình huống Trẻ mạnh dạn, tự tin 32/33 97 1/33 3 trong giao tiếp. - Đối với giáo viên: Giáo viên linh hoạt, sáng tạo hơn trong việc tổ chức hoạt động cho trẻ và có thể lồng ghép nhiều bài học giáo dục, phù hợp trong các hoạt động. Có thêm nhiều kinh nghiệm trong việc lựa chọn đồ dùng đồ chơi và trang trí lớp học sinh động lôi cuốn, kích thích trẻ tham gia vào các hoạt động. 17
  10. Tạo cơ hội để giáo viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm cùng nhau và có ý tưởng sáng tạo trong việc tổ chức các hoạt động. - Đối với phụ huynh: Phụ huynh tin tưởng nhà trường hơn, vì thấy trẻ trở nên thông minh nhanh nhẹn tự tin hơn, đa số các phụ huynh đều ủng hộ các nguyên vật liệu cho cô giáo ở lớp để bố trí môi trường cho trẻ hoạt động. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1. Ý nghĩa của đề tài: Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho trẻ mầm non có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của trẻ một cách toàn diện. Những phương pháp, biện pháp và hình thức mà tôi đã vận dụng trên đây tại lớp đã giúp tôi cũng như giáo viên trong trường linh hoạt, chủ động hơn khi tổ chức các hoạt động giáo dục và mong rằng có thể sử dụng rộng rãi đối với các trường Mầm non trên địa bàn toàn huyện. Phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo đã tạo cơ hội cho trẻ được chia sẽ, giải bày tâm tư nguyện vọng, mong ước của trẻ với cô, với bạn, giúp cho trẻ ngày càng mạnh dạn và tự tin hơn với chính bản thân mình. Không chỉ có vậy, việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo đã nhận được sự đồng tình ủng hộ, tham gia đóng góp từ phía phụ huynh cả vật chất lẫn tinh thần để thỏa mãn mong đợi của họ đối với sự phát triển của trẻ. Nhận thấy được tầm quan trọng qua việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo, tôi đã tìm tòi, học hỏi nhằm tổ chức hoạt động một cách linh hoạt sáng tạo, cung cấp phương tiện, học liệu và những hoạt động đa dạng, những tình huống có vấn đề và ngày càng phức tạp hơn, có tác dụng kích thích tư duy, lôi cuốn trẻ tham gia tích cực vào hoạt động tự tìm tòi, giải quyết vấn đề một cách sáng tạo, trẻ học mà chơi, chơi mà học một cách vui vẻ; qua đó trẻ trực tiếp lĩnh hội được tri thức, giúp trẻ phát triển hài hòa các lĩnh vực: Thể chất, nhận thức, ngôn ngữ, thẫm mỹ, tình cảm và kỹ năng xã hội. Mặt khác việc phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo cho trẻ mầm non đã đáp ứng được mục tiêu xây dựng trường học giáo dục lấy trẻ làm trung tâm. 18
  11. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: * Đối với nhà trường: - Làm tốt công tác xã hội hóa giáo dục, tham mưu với các cấp, ban ngành, đoàn thể, các tổ chức và cá nhân để huy động có nguồn kinh phí mua sắm các loại đồ dùng, đồ chơi, trang thiết bị phù hợp phục vụ các hoạt động trong nhóm, lớp mở rộng diện tích lớp học cũng như khuôn viên của nhà trường để cho trẻ có một sân chơi thật thoải mái. - Tạo điều kiện cho giáo viên được tham dự các lớp tập huấn do Phòng giáo dục tổ chức. Chỉ đạo xây dựng một số tiết dạy mẫu cho giáo viên cùng dự. * Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo: - Mở các lớp bồi dưỡng cho giáo viên mầm non để nâng cao năng lực chuyên môn. - Cần quan tâm hơn nữa về bậc học mầm non để đáp ứng nhu cầu cơ sở vật chất. Trên đây là một số giải pháp mà bản thân đã đưa ra nhằm "Phát huy tính tích cực chủ động sáng taọ của trẻ 5- 6 tuổi ở trường mầm non" góp phần nâng cao hiệu quả chất lượng giảng dạy cho trẻ ở lứa tuổi mầm non. Tôi rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của lãnh đạo cấp trên và đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn! 19
  12. XÁC NHẬN CỦA HĐKH – SK NHÀ TRƯỜNG 20
  13. XÁC NHẬN CỦA HĐKH – SK PHÒNG GD&ĐT LỆ THỦY 21