Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi Mẫu giáo 5-6 tuổi

doc 27 trang binhlieuqn2 07/03/2022 11592
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi Mẫu giáo 5-6 tuổi", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_hinh_thanh_tinh_tu_la.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp hình thành tính tự lập cho trẻ ngay từ lứa tuổi Mẫu giáo 5-6 tuổi

  1. Thời gian đầu năm tôi vừa làm mẫu kết hợp phân tích cách làm các kỹ năng cần thiết, sau đó tôi cho trẻ tự làm, chỉ nhắc nhở bằng lời đối với những trẻ nhút nhát, và tôi cho trẻ thường xuyên được thực hành các kỹ năng đó (Tự rửa tay, rửa mặt, xúc miệng nước muối, tự cởi và gấp quần áo, tự cất và lấy dép đúng nơi qui định ) Hình ảnh 4: Rửa tay trước giờ ăn. Hay ở giờ ăn khi đầu năm mới nhận lớp trẻ lớp tôi không làm hay nói cách khác là trẻ không tự giác kê bàn trước khi ăn, cất bàn sau khi ăn. Tôi đã thường xuyên động viên trẻ bằng cách quy định tổ trực nhật mỗi tổ trực nhật một hôm. Bắt đầu thứ hai là tổ 1 và nếu tổ nào làm tốt sẽ được thưởng vào cuối tuận ra bàn. Ban đầu trẻ không tự giác, nhưng tôi không tỏ ra sốt ruột mà thường xuyên dùng lời nói động viên trẻ, khuyến khích. Sau một thời gian tôi thấy các bạn tổ trưởng cứa đến hôm tổ mình trược nhật là tự biết đôn đốc các bạn tở mình đi kê bàn, lau bàn, chuẩn bị khan, cất bàn rất tự giác. Đến cuối tuần nếu tôi thấy tổ nào làm tốt sẽ thưởng cho tổ ấy bằng cách thưởng cờ. Khi trẻ có nguyện vọng tự lập, mong muốn được làm việc có khi còn tỏ ra bướng bỉnh. Những lúc đó tôi rất thông cảm và hiểu được “bướng bỉnh” ở lứa tuổi này và không kìm hãm ý muốn tự lập của trẻ. Khi trẻ thực hiện công việc đó mất rất nhiều thời gian, không theo mong muốn của tôi, đôi khi còn bừa bãi thậm chí còn hỏng việc. Song tôi vẫn luôn tạo điều kiện để trẻ tự làm, tự trải nghiệm công việc. VD: Tuần này cô thấy các bạn tổ 2 rất giỏi. Đến tổ phiên tổ 2 trực nhật cô thấy các bạn tổ trưởng đã biết đôn đốc các bạn tổ mình hoàn thành nhiệm vụ cô 11/25
  2. giao rất tốt. Cô thưởng cho các bạn tổ 2 một cờ và thưởng cho mỗi thành viên trong tổ them một bé ngoan nữa. Hình ảnh 3: Trẻ bê cơm cho bạn. Chính hình thức thưởng cờ thi đua như này nên tổ nào cũng muốn trong tuần này được cô thưởng them cờ để được them bé ngoan được bố mẹ khen. Bạn nào cũng muốn mình giỏi để được cô tuyên dương khen trước cả lớp. Vào trong các giờ ăn, một số trẻ rất lười xúc cơm mỗi lần như vậy tôi không tỏ ra khó chịu mà nhẹ nhàng đến bên trẻ cô luôn động viên trẻ kịp thời để trẻ vừa ăn nhanh, ăn hết xuất . Nắm được tâm được tâm lí của trẻ tôi luôn động viên trẻ bằng các hình thức khen thưởng kịp thời sau mỗi giờ ăn . Sau mỗi lần được tôi động viên, trẻ của tôi giờ làm rất thành thạo và trẻ nào cũng tự tay xúc cơm và ăn rất nhanh. Được tự tay làm những công việc tự phục vụ mình tôi thấy trẻ rất phấn khởi, có thể lần đầu trẻ làm rất lâu mới song, nhưng các lần sau đó tôi thấy các thao tác của trẻ thành thạo rất nhiều, trẻ mạnh dạn tự tin hơn. Qua đó những kiến thức tự trải nghiệm của trẻ sẽ được mở rộng và khắc sâu hơn rất nhiều. Cứ như vậy hằng ngày tôi đều quan sát trẻ làm. Thế là cả lớp tôi trẻ nào cũng thành thạo tất cả các kỹ năng cần thiết để tự phục vụ cho bản thân mình sau này. 5. Biện pháp 5: Tổ chức lồng ghép giáo dục tính tự lập vào hoạt động học, hoạt động vui chơi và mọi lúc, mọi nơi: Trong các tiết học cô luôn khuyến khích động viên trẻ, mạnh dạn, tự tin, biết hoạt động độc lậ và biết hoàn thành sản phẩm của mình. Cô giáo là người 12/25
  3. đẫn dắt trẻ hoạt động từ đó là nắm được vai trò nhiệm vụ của mình. Trẻ hứng thú và tích cực hơn hoạt động, vận động, nhanh nhẹn hoạt bát hơn, rèn luyện sự khéo léo của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, trẻ sẽ tự chủ động hơn, rèn sự khéo léo của đôi bàn tay. Phát triển năng lực hoạt động trí tuệ, trẻ sẽ chủ động trong mọi hoạt động không ỷ lại vào người khác. VD: Trong giờ tạo hình cô đưa ra đề tài “Cắt dán hoa”. Cô giáo là người hướng dẫn tỉ mỉ cho trẻ để trẻ cảm nhận được nhiệm vụ cô giáo. Khi nắm được yêu cầu trẻ biết tự mình hoàn thành một bức tranh theo ý tưởng của mình, không dựa dẫm ỉ lại vào cô giáo nữa. Hình ảnh: Giờ tạo hình trẻ cắt dán hoa . Ở lứa tuổi này trẻ nhanh nhớ nhưng cũng rất nhanh quên, vì vậy nên tính tự lập của trẻ được trải nghiệm trong các hoạt động, trong sinh hoạt hàng ngày ở gia đình và nhà trường. Đối với 5-6 tuổi trẻ đã có khả năng làm một số việc đơn giản, trẻ đã có ý thức về điều đó và luôn chứng tỏ khả năng của mình trong giờ học đối với các hoạt động cần đến đồ dùng của trẻ, tôi chỉ chuẩn bị đồ dùng đặt sẵn trên bàn sau đó cho trẻ tự lên lấy đồ dùng học tập về vị trí ngồi của mình, kết thúc tiết học cũng vậy tôi cho trẻ tự cất đồ dùng học tập đúng nơi qui định. VD: Trong giờ học chữ cái tôi đã chuẩn bị rổ đồ dùng cho mỗi trẻ nhưng tôi đặt chung vào một chỗ, tôi cho mỗi trẻ lên lấy một rổ về chỗ của mình để học. Sau khi học xong tôi cũng cho trẻ cất đồ dùng về đúng vị tri. 13/25
  4. Hình ảnh: Trẻ lấy rổ chữ cái. Hay trong giờ học tạo hình cần đến hộp màu tôi thường nhờ trẻ chuẩn bị bàn học và hộp màu cho các bạn. Được tự lấy đồ dùng học tập như vậy tôi thấy trẻ rất tích cực, hứng thú học và luôn muốn khám phá xem mình được học gì ở các đồ dùng đó, giờ học nào của lớp tôi đều thấy trẻ hứng thú từ đầu giờ học đến cuối giờ học. Qua đó tôi còn rèn luyện cho trẻ thói quen gọn gàng ngăn nắp, lấy đâu cất đấy. VD: Trong giờ âm nhạc: Cô dạy trẻ bài hát “ Vui đến trường” giáo dục trẻ biết đánh răng rửa mặt, thay quần áo, chuẩn bị đồ dùng trước khi đến lớp. VD : Giờ học khám phá chủ đề bản thân “ Các bộ phận cơ thể” giúp trẻ biết giữ gìn vệ sinh cơ thể biết rửa mặt, đánh răng, thay quần áo gọn gàng, sạch sẽ. Hình ảnh: Giáo dục trẻ biết giữ gìn cơ thể. 14/25
  5. VD: Trong giờ văn học, bài thơ “ Mèo đi câu cá” dạy trẻ biết chăm chỉ lao động tự phục vụ cho bản thân. Là một giáo viên mầm non chắc hẳn ai cũng biết mỗi khi đến giờ hoạt động hoạt động góc và hoạt động ngoài trời trẻ đều tỏ ra rất thích thú, phấn khởi, mong chờ nhất. Không những vậy hoạt động vui chơi là hoạt động quan trọng nhất nó giữ vai trò chủ đạo ở lứa tuổi này, qua hoạt động này làm biến đổi về chất trong toàn bộ đời sống tâm lý của trẻ. Vì vậy đối với trẻ ở lứa tuổi này, đồ vật không phải là thứ để trẻ nghịch như trước đây mà bây giờ qua chơi với đồ vật, đồ chơi giúp trẻ khám phá chức năng và phương thức sử dụng tương ứng (như cái thìa dùng để xúc cơm ăn và có cách cầm thìa nhất định ) Chính vì vậy tôi rất chú trọng việc tạo điều kiện cho trẻ được chơi với đồ vật, đồ chơi và chơi với bạn bè. Ngoài ra trong quá trình chơi với đồ vật trẻ còn bắt chước thao tác của người lớn. Trò chơi thao tác vai cuốn hút trẻ và làm xuất hiện nhu cầu có bạn cùng chơi trò chơi đóng vai đơn giản (trẻ bắt chước mẹ bé em, nấu ăn, bán hàng, phân công vai chơi .) Khi tổ chức cho trẻ chơi ở giai đoạn đầu năm tôi hướng dẫn tỉ mỉ, cẩn thận, không nôn nóng, chủ động tham gia chơi với trẻ trong các trò chơi, tạo tình huống cho trẻ chơi. VD: Trong góc chơi âm nhạc “ Các bạn hôm nay chơi ở góc âm nhạc hát được nhiều bài hát hay và có sử dụng dụng cụ âm nhạc?” Trước khi kết thưc trò chơi các con nên làm gì?” Bằng những câu hỏi gợi mở và tạo tình huống cho trẻ tôi đã làm tăng vốn hiểu biết của trẻ và làm giàu trì tưởng tượng sáng tạo của trẻ. Và còn hướng dẫn trẻ cất đồ dùng nào trước khi trò chơi đã kết thúc. Hình ảnh: Trẻ tự cất đồ dùng góc âm nhạc. 15/25
  6. Từ những giai đoạn sau khi tổ chức cho trẻ chơi tôi không can thiệp quá sâu vào trò chơi của trẻ để trẻ bộc lộ khả năng tự lập của mình. Khi trẻ tự chơi với các đồ chơi thì trẻ cũng lĩnh hội được những qui tắc hành vi ứng xử trong xã hội ẩn chứa trong quá trình hành động đó. Từ đó trẻ học được cách tự lập trong các thao tác hành động với đồ vật, giúp trẻ tự tin, tự lập hơn trong cuộc sống Ngoài ra tôi còn chú trọng rèn trẻ kỹ năng lao động tự phục vụ, kỹ năng vệ sinh môi trường thông qua hai buổi tổ chức hoạt động trong tháng. Hàng ngày tôi thường chú trọng dạy trẻ những hành vi văn hóa trong ăn uống qua đó rèn kỹ năng lao động tự phục vụ và kỹ năng giúp đỡ người khác như: Biết rửa tay sạch sẽ trước khi ăn, chỉ ăn uống tại bàn, biết cách sử dụng những đồ dùng vật dụng trong ăn uống một cách đúng đắn, biết mời trước khi ăn, ăn uống gọn gàng, không rơi vãi, nhai nhỏ nhẹ không gây tiếng ồn, ngậm miệng khi nhai thức ăn, ăn hết suất hoặc biết giúp người lớn dọn dẹp, ngồi ngay ngắn, .không làm ảnh hưởng đến người khác. Khi ra sân trong giờ hoạt động lao động phải biết nhặt rác bỏ vào thùng, tưới cây, nhặt cỏ, lau lá cây. Khi thực hiện các hoạt động này tôi cùng làm với trẻ và tôi thường giải thích cho trẻ hiểu ý nghĩa tác dụng của từng hoạt động. Từ đó trẻ sẽ hiểu và học tập theo cô, dần dần hoạt động có ý thức đó sẽ trở thành kỹ năng giúp trẻ thực hiện hoạt động một cách tự nguyện mà không có cảm giác ép buộc sai khiến. Trẻ còn cảm thấy vui vì đã làm được một việc nên làm giống như lời cô dạy. Không chỉ trong các giờ hoạt động chung mà trong các giờ hoạt động vui chơi tôi cúng dạy trẻ hình thành tính tự lập của mình. VD: Trong giờ hoạt góc tôi cho trẻ chơi xong rất nhiếu lần trẻ không tự giác cất đồ dùng. Thay vì việc quát mắng, hay phạt trẻ thì tôi đến bên cạnh hỏi trẻ “ Phương ơi con vừa chơi ở góc nào nhỉ? Con chơi xong thì con sẽ phải làm gì? Cô thấy nếu đồ chơi mà chơi xong cất gọn gàng thì lớp của chúng ta sẽ rất đẹp đấy! Như vậy sau khi chơi xong trẻ đã rất tự giác cất dọn đồ dùng của mình khi chơi xong. 16/25
  7. VD: Trong giờ hoạt động ngoài trời, khi cho trẻ chơi câu cá ở khu vui chơi xong. Tôi hướng dẫn trẻ cất đồ dùng, đồ chơi về đúng nơi quy định. Hay tôi cùng trẻ nhặt lá cây, nhổ cỏ, nhặt lá ngoài sân trường. Hình ảnh: Hình ảnh cô cùng trẻ nhặt lá khô, nhổ cỏ vườn trường. 17/25
  8. VD: Khi trẻ ăn xong thay vì việc cô tự chuẩn bị thì cô hướng dẫn trẻ cẩn thận cách chải chiếu vào giờ ngủ. Như vậy cứ đến giờ ngủ trẻ lại tự chải chiếu, lấy gối. Trong các hoạt động giáo dục trẻ tôi luôn tổ chức các hoạt động giáo dục cho trẻ theo hướng đổi mới, được tổ chức thường xuyên mọi lúc, mọi nơi, thể hiện được mối quan hệ hợp tác giữa cô với trẻ, giữa trẻ với nhau, chúng phù hợp với đặc điểm tâm sinh lí, đặc biệt là nhu cầu và hứng thú của trẻ trong hoạt động. Trong suốt thời gian trẻ tham gia hoạt động cần duy trì tính hấp dẫn của nhiệm vụ, tạo cho trẻ có hứng thú và niềm say mê khám phá thế giới thông qua các trò chơi và các hoạt động tìm tòi khám phá. Trẻ chủ động tích cức tham gia các hoạt động trải nghiệm, các tình huống khác nhau của cuộc sống. Dần dần trẻ trở nên tích cực chủ động, linh hoạt và tự tin trong mọi hoàn cảnh. Thì trong mọi hoạt động khác cô giáo cũng tạo cho trẻ một môi trường thân thiện, cô vừa là cô giáo, vừa là bạn của trẻ. Khi ra ngoài trời dạo chơi cô luôn khuyến khích, động viên trẻ tích cực tham gia hoạt động tự phục vụ. VD: Hàng tuần cứ đến ngày thứ sáu cô lại cùng trẻ lau dọn, cửa lớp, giá đồ chơi, sắp xếp giá đồ chơi, chăn chiếu gọn gàng ngăn nắp. Hoặc tôi cho trẻ ra ngoài góc thiên nhiên nhặt lá khô, lá kéo, nhặt cỏ, lau lá. 18/25
  9. Hình ảnh: Trẻ lao động cuối tuần “Lau cánh cửa”. 6.Biện pháp 6: Tuyên truyền, phối kết hợp với phụ huynh cùng giáo dục tính tự lập cho trẻ. Như chúng ta đã biết thời gian trẻ đến trường nhiều hơn rất nhiều so với thời gian ở nhà. Những bài học trẻ được học ở trường giúp trẻ phát triển đúng yêu cầu ở độ tuổi, giúp trẻ phát triển một cách toàn diện cả về thể chất lẫn tinh thần và nhận thức, giúp trẻ tự tin, mạnh dạn, tích cực và chủ động khi tham gia các hoạt động cùng cô và bạn. Tuy nhiên để công tác chăm sóc giáo dục trẻ ở trường đạt kết quả tốt nhất, tránh trường hợp cô giáo ở lớp thì giáo dục trẻ tính tự lập, còn về nhà cha mẹ lại luôn làm giúp trẻ mọi việc. Chính vì không muốn tình trạng đó xảy ra nên tôi thường xuyên trao đổi với phụ huynh trong những giờ đón trả trẻ, trong các buổi họp phụ huynh về mọi vấn đề có liên quan đến trẻ ở trường và đặc biệt là giáo dục tính tự lập cho trẻ. Bởi không phải phụ huynh nào cũng có nhận thức đúng đắn về vấn đề đó. Không những vậy tôi còn tuyên truyền bằng cách lấy phiếu chưng cầu ý kiến phụ huynh, tôi đã đặt ra các câu hỏi có liên quan đến tầm quan trọng của việc giáo dục tính tự lập cho trẻ và các phương pháp phụ huynh thường sử dụng 19/25
  10. để giáo dục tính tự lập cho con mình. Có tới 90% phụ huynh hiểu được rằng việc giáo dục trẻ hình thành tính tự lập ngay từ đầu là rất quan trọng. Một số phụ huynh có nhiều vướng mắc khi giáo dục tính tự lập cho trẻ là do thời gian dành cho trẻ còn hạn chế, trong nhiều gia đình thì không thống nhất được quan điểm giáo dục trẻ, bố, mẹ thì muốn con tự làm những công việc vừa sức, nhưng ông, bà sợ cháu mệt thì làm hộ trẻ dẫn đến kết quả của việc rèn tính tự lập cho trẻ chưa thành công. Một số phụ huynh khác thì có ý kiến hoàn toàn nhờ cô giáo chủ nhiệm, chứ về nhà bố, mẹ nói trẻ không nghe lời. Tôi luôn tuyên truyền với phụ huynh hiểu thế nào là cho trẻ tự lập, tự làm những việc trong khả năng của trẻ, bố mẹ chỉ là người làm mẫu và hướng dẫn trẻ làm không nên làm giúp trẻ, hay khi trẻ đã biết làm rồi thì người lớn nên khuyên khích động viên trẻ, cho trẻ rèn luyện tính tự lập đó nhiều lần để trở thành các kỹ năng cần thiết trong cuộc sống của trẻ. VD: Tôi thấy một số trẻ lớp tôi rất được bố mẹ nuông chiều không bao giờ tự làm một việc gì, đến lớp thì đợi cô và bạn làm giúp đỡ như cháu Lan Anh, Việt Hưng, Quỳnh Trang, Trang Anh. Tôi đã trò chuyện với phụ huynh để họ nắm bắt được tình hình của con mình và tôi tuyên truyền cho họ các phương pháp về giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ nhỏ để phụ huynh có thể áp dụng tại gia đình. Tôi có thể gợi ý cho họ về cách giáo dục trẻ tự lập “Anh chị cứ để trẻ tự đi lên cầu thang mỗi khi tới lớp vì mỗi ngày ở trường trẻ phải tự lên xuống cầu thang mấy lần mà, hay các bé tự đi dép được đấy chị ạ, chị cứ để bé tự lấy và tự đi thử xem .” Hình ảnh: Cô giáo trao đổi với phụ huynh . 20/25
  11. Tôi cũng tuyên truyền với phụ huynh quan sát ý thức của trẻ trong các điều kiện và tình huống hàng ngày như quan sát xem trẻ có biết tự đi rửa tay bằng xá phòng khi thấy tay bẩn chưa, hay sau khi đi vệ sinh đã biết xả nước chưa, sau khi chơi xong có biết tự đi cất đồ chơi gọn gàng hay cần bố mẹ nhắc nhở, giúp đỡ, khi người lớn nhờ trẻ lấy giúp ly nước, bật ti vi, hay tắt quạt thì biểu hiện của trẻ ra sao. Trẻ có thích tự xúc cơm, tự mặc chuẩn bị quần áo khoác, khẩu trang khi đi ra đường hay không .để từ đó có những biện pháp rèn luyện và giáo dục trẻ thêm. Trong gia đình việc tạo môi trường tự lập cho trẻ là rất cần thiết. Vì vậy người lớn trong gia đình cần tạo ra các tình huống để thu hút trẻ làm nhiều hơn như: Dọn đồ chơi, nhặt rau cùng mẹ, tự xúc cơm ăn. Khi làm một việc gì cùng trẻ nên phân tích, giảng giải cho trẻ biết lý do và cách thức hành động. Tạo điều kiện cho trẻ tham gia vào bất kỳ việc gì trẻ muốn (phơi quần áo mẹ nhờ bé đưa dần cho mẹ tất, quần áo của bé để mẹ phơi lên dây .) Tuy có mất thời gian một chút, nhưng sự kiên nhẫn của người lớn là chìa khóa thành công của trẻ, dần dần sẽ hình thành trẻ tính tự giác, tính tự quyết định, khả năng tự xoay sở của mình. Nhờ có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa giáo viên với cha mẹ trẻ mà tôi thấy trẻ của lớp tôi luôn có tính tự lập cao, trẻ mạnh dạn tự tin, các kỹ năng tự phục vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ người khác luôn thành thạo và rất vui vẻ nhiệt tình khi được tự lập Từ những cố gắng nghiên cứu tài liệu, kinh nghiệm của bản thân, sự ủng hộ tích cực của các bậc cha mẹ đã giúp tôi đạt được một số kết quả trong giáo dục tính tự lập cho trẻ mầm non nhắm giúp trẻ phát huy khả năng tự lập, làm cơ sở cho sự hình thành nhân cách của trẻ sau này, trẻ biết được những điều nên làm và những điều không nên làm, giúp trẻ tự giác, tự tin thể hiện được khả năng, năng lực của mình. IV. Kết quả đạt được: Qua việc thực hiện những biện pháp trên, tôi đã đạt được một số kết quả trong quá trình thực hiện giáo dục tính tự lập cho trẻ. Cuối năm tôi đã tiến hành khảo sát trên trẻ và đạt được kết quả như sau:1. Về phía giáo viên và nhà trường: KẾT QUẢ KHẢO SÁT TRẺ CUỐI NĂM. STT Nội dung giáo dục Tổng Đạt Chưa đạt Số trẻ Tỉ lệ Số trẻ Tỉ lệ 1 Kỹ năng tự phục vụ bản thân 54 50 93 4 7 2 Kỹ năng giữ gìn vệ sinh 54 51 94 3 6 3 Kỹ năng hỗ trợ người khác 54 49 91 5 9 21/25
  12. Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ tôi thấy học sinh lớp tôi rất hứng thú tham gia các hoạt động của lớp, và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng tự phụ vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ mọi người trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự nguyện và thích thú. VD: Các hoạt động: Tự gấp quần áo và cất đúng nơi qui định, tự rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, biết tự xả nước sau khi đi vệ sinh và biết rửa tay bằng xà phòng, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, nhặt rác bỏ vào thùng rác tích cực tham gia vào các hoạt động của tập thể, của lớp. Từ đó những thói quen tốt của trẻ được hình thành và sẽ phát triển bền vững. 1. Về phía giáo viên: Sau khi thực hiện những biện pháp trên tôi thấy trẻ đã có tính tự lập, đã có những kỹ năng cần thiết phù hợp với độ tuổi. Trẻ tự tin, mạnh dạn khi tham gia các hoạt động giúp cho việc tổ chức các hoạt động giáo dục của cô giáo đạt kết quả tốt. Qua các buổi dự giờ, các buổi tổ chức kiến tập, và trong các buổi đón đoàn về thẩm định chất lượng giáo dục và đón đoàn thanh tra, kiểm tra thi đua của trường đều đánh giá trẻ lớp tôi có tính tự lập rất cao, trẻ luôn nhanh nhẹ, linh hoạt trong mọi hoạt động. 2. Kết quả trên trẻ: Bằng các biện pháp khác nhau trẻ được thực hành, trải nghiệm, được tự thỏa mãn nhu cầu tự lập của trẻ tôi thấy học sinh lớp tôi rất hứng thú tham gia các hoạt động của lớp, và đặc biệt trẻ mạnh dạn, tự tin hơn trong mọi hoạt động, các kỹ năng tự phụ vụ, kỹ năng giữ gìn vệ sinh, kỹ năng giúp đỡ mọi người trở nên tốt hơn, không cần cô giáo phải nhắc nhở nhiều mà trẻ thực hiện một cách tự nguyện và thích thú. VD: Các hoạt động: Tự gấp quần áo và cất đúng nơi qui định, tự rửa tay, rửa mặt trước khi ăn, biết tự xả nước sau khi đi vệ sinh và biết rửa tay bằng xà phòng, chuẩn bị bàn ăn, giường ngủ cùng cô, nhặt rác bỏ vào thùng rác tích cực tham gia vào các hoạt động của tập thể, của lớp. Từ đó những thói quen tốt của trẻ được hình thành và sẽ phát triển bền vững. 3. Về phía phụ huynh: Phụ huynh luôn hưởng ứng và thường xuyên trao đổi với cô giáo về những phương pháp để cùng rèn tính tự lập cho trẻ và rất tin tưởng cô giáo bởi họ nhận thấy sự tiến bộ rõ rệt của con mình. 22/25
  13. Một số phụ huynh trước đây thường chiều con, sẵn sàng làm hết mọi việc cho trẻ, không muốn con mình phải làm gì vì họ cho rằng con họ còn nhỏ nay họ rất nhiệt tình phối hợp và yên tâm mỗi khi đưa con tới lớp. Có phụ huynh còn đến nói với chúng tôi “Chị ơi em không ngờ con em lại làm được nhiều việc thế, mới lên ba mà gấp quần áo khéo ghê mà còn biết cất đúng ngăn tủ của từng người chị ạ, còn các phụ huynh khác thì nói về nhà con nhà em cứ đòi mẹ phải cho con tự xúc cơm, cô giáo con bảo thế mới là bé ngoan” 23/25
  14. C. KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ 1. Kết luận: Trẻ 5-6 tuổi được coi là tự lập khi trẻ tỏ ra vui vẻ, không sợ người lạ, biết cách nói lên suy nghĩ của mình, biết hành động hợp lí trong mọi hoàn cảnh chứ không nhất thiết là cái gì cũng tự làm một mình mới là tự lập. Người lớn cần hiểu biết một cách khoa học về giáo dục tính tự lập cho trẻ. Sự cần thiết phải giáo dục tính tự lập cho trẻ ngay từ ba tuổi. Tin tưởng vào khả năng tự lập của trẻ, căn cứ vào đặc điểm riêng của từng trẻ để có bài tập rèn luyện tính tự lập phù hợp với trẻ. Có như vậy mới giúp trẻ trở thành người năng động, tự tin khi trưởng thành. 2. Đề xuất kiến nghị: Tổ chức nhiều buổi kiến tập các lớp làm tốt việc giáo dục tính tự lập cho trẻ, để chúng tôi có cơ hội học hỏi chị em đồng nghiệp trong trường. Mặc dù chỉ là sáng kiến nhỏ của riêng tôi nhưng tôi mong rằng qua bản, SKKN này tôi sẽ nhận được nhiều sự góp ý động viên của các cấp, các ngành, BGH đóng góp ý kiến cho tôi để tôi có hường tiếp thu phấn đầu và làm tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ mầm non thế hệ tương lai của đất nước. 24/25
  15. D. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Cẩm nang năng lực, phẩm chất đội ngũ giáo viên. 2. Một số vấn đề về lối sống, đạo đức chuẩn giá trị xã hội. 3. Giaos trình hình thành tính tự lập cho trẻ 0-6 tuổi. 4. Trên mạng internet và bạn bè đồng nghiệp. C 25/25