SKKN Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ Mẫu giáo 3-4 tuổi trong trường Mầm non
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ Mẫu giáo 3-4 tuổi trong trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_mot_so_bien_phap_ren_thoi_quen_ve_sinh_ca_nhan_cho_tre.pdf
Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp rèn thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ Mẫu giáo 3-4 tuổi trong trường Mầm non
- 2. Phần nội dung: 2.1. Thực trạng đề tài, sáng kiến , giải pháp: Trong quá trình rèn kỹ năng vệ sinh cá nhân cho trẻ tôi đã gặp những thuận lợi và khó khăn sau: * Thuận lợi: Được sự quan tâm của ban giám hiệu nhà trường mua sắm đầy đủ các đồ dùng, dụng cụ phục vụ cho hoạt động vệ sinh của trẻ. Giáo viên nhiệt tình, năng động, yêu nghề, mến trẻ, có trình độ chuyên môn nghiệp vụ vững vàng, có tinh thần đoàn kết, nhất trí cao, luôn có ý thức phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Nhà trường duy trì được công tác bán trú, các cháu đi học cả ngày nên thuận lợi trong việc rèn trẻ. Các cháu đều ở cùng lứa tuổi, đặc điểm tâm sinh lý giống nhau nên dễ dàng trong việc giáo dục. * Khó khăn Một số cháu mới đến trường, lớp nên chưa quen nề nếp vệ sinh, chế độ sinh hoạt ở trường và một số cháu còn quá nhỏ. Một số cháu được cha mẹ cưng chiều quá mức, thường làm giúp trẻ nên khả năng tự phục vụ của trẻ trong hoạt động vệ sinh còn hạn chế. Một số phụ huynh chưa quan tâm đến việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ. * Kết quả khảo sát thực tế : Khi chưa thực hiện đề tài kết quả như sau: Khả năng Số trẻ KS Đạt Kỹ năng thao tác vệ sinh 10/22 45,5% Có ý thức việc mình làm 11/22 50 % Tình trạng sức khỏe 15/22 68,2% - Nhìn vào bảng khảo sát trên tôi thấy kết quả kỹ năng thao tác vệ sinh, ý thức, sức khỏe của trẻ là quá thấp. Vì vậy tôi đã suy nghĩ và mạnh dạn áp dụng những biện pháp hữu hiệu nhất trong việc thực hiện nâng cao hiệu quả cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi có thói quen vệ sinh cá nhân. 2.2. Nội dung đề tài, sáng kiến, giải pháp: Biện pháp 1: Chuẩn bị môi trường và điều kiện vật chất tối thiểu cần thiết cho hoạt động vệ sinh * Môi trường xã hội: Muốn trẻ hứng thú với hoạt động vệ sinh thì việc đầu tiên là phải gây được hứng thú cho trẻ khi đến lớp. Trẻ có thích đến lớp thì mới hứng thú tham gia vào các hoạt động khác. Chính vì vậy mà chúng ta cần xây dựng môi trường thân thiện giúp trẻ tích cực, hứng thú với các hoạt động vệ sinh. Môi trường chăm sóc - giáo dục trong trường mầm non cần đảm bảo an toàn về mặt tâm lý, tạo điều kiện thuận lợi cho việc giáo dục các kỹ năng xã hội cho trẻ. Hành vi, cử chỉ, lời nói, thái độ của giáo viên đối với trẻ và những người khác luôn mẫu mực để trẻ noi theo. * Môi trường vật chất:
- Môi trường cho trẻ hoạt động trong phòng, nhóm lớp: Giáo viên xây dựng góc “Rèn kỹ năng sống cho trẻ” với các hình ảnh mang nội dung giáo dục vệ sinh dưới dạng mở để trẻ được thỏa sức lựa chọn những hình ảnh đúng - sai theo khả năng nhận thức của trẻ. Làm tốt công tác vệ sinh môi trường nề nếp của lớp. Các cháu ở lớp mẫu giáo thời gian rất dài, nếu cô sắp xếp đồ dùng gọn gàng, sạch sẽ, mọi sinh hoạt của lớp có nề nếp làm cho lớp học vui tươi đầm ấm. Tất cả những cái đó ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành thói quen cho trẻ. Lớp học sạch đẹp cháu không nỡ vứt rác bừa bãi, cháu không vứt đồ chơi lung tung, khi mọi thứ trong lớp đều được sắp xếp theo đúng chỗ quy định. Ngoài ra giáo viên cần làm một số sách, tranh có nội dung giáo dục vệ sinh ở góc thư viện. Các hình ảnh trong sách, tranh phải rõ ràng, màu sắc tươi sáng, ngộ nghĩnh hấp dẫn với trẻ. Cô giáo cần tạo môi trường gần gũi, phong phú bằng các hình ảnh ngộ nghĩnh tại bồn rửa tay hay trang trí góc vệ sinh cho trẻ. * Đồ dùng, dụng cụ vệ sinh: Trong tất cả các hoạt động trong trường mầm non đặc biệt là hoạt động vệ sinh thì đồ dùng trực quan đóng vai trò quan trọng, góp phần không nhỏ vào việc nâng cao kết quả và ý thức vệ sinh cho trẻ. Ví dụ: Cô dạy các cháu úp ca cốc thì phải có giá để cốc và cốc cho trẻ thực hiện úp, có phương tiện lại được thực hiện thường xuyên ở lớp cũng như ở nhà, cháu sẽ nhanh chóng hình thành được thói quen vệ sinh đó. Cô cùng gia đình kết hợp dạy trẻ ở mọi lúc mọi nơi, nếu có điều kiện để rèn luyện những kỹ năng thực hành vệ sinh cho trẻ. Để đảm bảo đồ dùng phục vụ cho hoạt động vệ sinh cho trẻ ngay từ đầu năm học tôi đã thống kê đồ dùng, dụng cụ của lớp để kịp thời tham mưu với nhà trường bổ sung thêm đồ dùng, dụng cụ vệ sinh đảm bảo cho trẻ hoạt động. Biện pháp 2: Tự học tập, bồi dưỡng về kỹ năng thực hành thao tác chăm sóc - vệ sinh cho trẻ. Bản thân tôi luôn xác định muốn rèn luyện cho trẻ mẫu giáo bé có thói quen trong việc giữ gìn vệ sinh cá nhân thì việc làm đầu tiên là cô giáo phải có kiến thức chuẩn xác về kỹ năng thực hành , chính vì điều đó mà bản thân tôi luôn tìm tòi học hỏi các tài liệu có liên quan đến vấn đề vệ sinh để áp dụng vào dạy trẻ. Giáo viên phải nắm được yêu cầu rèn luyện và kỹ năng thực hành cho trẻ. Ngoài những thói quen vệ sinh ở lớp , giáo viên cần rèn luyện thêm cho các cháu những thói quen vệ sinh sau: Trẻ tự rửa mặt, rửa tay trước khi ăn, sau khi đi vệ sinh, chải đầu, đánh răng. Có ý thức giữ vệ sinh nơi công cộng, tôn trọng người khác như: không nhổ bậy, không vứt rác ra lớp học, nơi công cộng, biết sử dụng nước sạch Trẻ tự mặc quần áo, biết đòi hỏi người lớn phải cho mình ăn mặc gọn gàng sạch sẽ, biết giữ nhà cửa, đồ dùng đồ chơi gọn gàng sạch sẽ. Biết giúp cô lau bàn ghế, rửa đồ chơi, xếp lại giá đồ chơi gọn gàng ngăn nắp, khi ra nắng biết đội mũ nón và biết mặc áo mưa khi trời mưa.
- Trẻ bắt đầu hình thành vững chắc các quy tắc vệ sinh cá nhân và nếp sống văn minh. Cô cũng cần nắm được các kỹ năng cần rèn cho trẻ như: Trẻ phải thành thạo các kỹ năng thực hành vệ sinh của lớp, ngoài ra cô cần rèn cho trẻ: Biết giúp cô giặt khăn, phơi khăn. Biết dùng tay - khăn che miệng khi hắt hơi, ho, ngáp, hỉ mũi Bản thân tích cực sưu tầm, nắm vững nội dung và nguyên tắc hướng dẫn thực hành thao tác vệ sinh: Rửa tay, rửa mặt Ví dụ: Khi hướng dẫn trẻ cách rửa tay bằng xà phòng phải hướng dẫn trẻ thực hiện theo đúng quy trình 6 bước: Bước1: Làm ướt tay dưới vòi nước, lấy xà phòng xoa 2 lòng bàn tay vào nhau Bước 2: Dùng ngón tay và lòng bàn tay này cuốn và xoay lần lượt từng ngón của bàn tay kia và ngược lại. Bước 3: Dùng lòng bàn tay này chà xát chéo lên mu bàn tay kia và ngược lại. Bước 4: Dùng đầu ngón tay của bàn tay này miết vào kẽ giữa các ngón của bàn tay kia và ngược lại. Bước 5: Chụm 5 đầu ngón tay của tay này cọ vào lòng bàn tay kia bằng cách xoay đi, xoay lại. Bước 6: Xả cho tay sạch hết xà phòng dưới vòi nước sạch. Lau khô tay bằng khăn. Bản thân luôn tìm tài liệu liên quan để nghiên cứu sau đó trao đổi với đồng nghiệp, manh dạn đăng kí hoạt động vệ sinh cho buổi thao giảng của trường để BGH, giáo viên góp ý kiến. Đây là một cách làm tạo động lực cho bản thân chú ý đến công tác chăm sóc- giáo dục vệ sinh cho trẻ. Nghiên cứu một số tài liệu do nhà trường cấp phát: Bé giữ vệ sinh, bé sạch, thực hành vệ sinh và các lô tô vệ sinh để tham khảo và hướng dẫn phụ huynh thực hành các thao tác vệ sinh cho trẻ. Đặc điểm của trẻ là hay bắt chước, có thể bắt chước cái đúng, cái tốt, nhưng cũng có thể bắt chước cái sai, cái xấu. Vì vậy cô giáo và mọi người xung quanh cần phải tự rèn bản thân và tuân thủ những yêu cầu vệ sinh của nhà trường, thực hiện triệt để lời nói phải đi đôi với việc làm để thực sự là tấm gương sáng cho các cháu noi theo. Biện pháp 3: Sưu tầm,vận dụng các bài thơ, truyện, bài hát và trò chơi vào hoạt động vệ sinh. Tổ chức các hoạt động vui chơi chứa đựng nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh: Chơi là quá trình trẻ học làm người, trải nghiệm những xúc cảm, tình cảm, hành vi của con người qua các vai khác nhau. Khi tổ chức cho trẻ chơi: Cho trẻ đàm thoại trước khi chơi, đàm thoại giúp trẻ có cơ hội độc lập chuyển tri thức và kỹ năng đã biết để đạt mục đích chơi, lập kế hoạch tổ chức thực hiện và xác định những điều kiện cần thiết. Trong quá trình tổ chức, điều khiển quá trình chơi của trẻ, giáo viên có thể tham gia trực tiếp vào trò chơi với trẻ, giúp trẻ phát triển mối quan hệ trong trò chơi bằng cách mở rộng nội dung chơi, vai chơi, đánh giá vai chơi trong những tình huống cụ thể, hướng dẫn trẻ, kịp thời giúp trẻ điều chỉnh
- hành vi phù hợp. Sau khi kết thúc trò chơi, giáo viên với tư cách là người điều khiển trò chơi đánh giá hành động của trẻ, giao nhiệm vụ cho trẻ tiếp tục luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày để củng cố hành vi. Với mỗi đề tài tôi luôn nghiên cứu tìm hiểu kĩ trước khi dạy để xây dựng bài theo chủ đề một câu chuyện để kích thích sự tò mò và hứng thú ở trẻ. Ví dụ: Ở hoạt động vệ sinh với nội dung “Đánh răng” ở chủ đề bản thân tôi sử dụng truyện “Gấu con bị đau răng”, cô dẫn dắt cho trẻ biết vì Gấu con hay ăn kẹo, bánh mà lại lười đánh răng nên bị sâu răng. Ngoài các câu chuyện tôi còn sử dụng một số bài thơ, bài hát để gây hứng thú, phát huy tính tích cực của trẻ khi tham gia hoạt động. Ví dụ: Trước giờ ăn cơm để rèn luyện thói quen ăn uống vệ sinh sạch sẽ tôi cho trẻ đọc bài thơ: “Bé ơi” “Bé ơi nhớ nhé Giờ ăn đến rồi Rửa tay sạch sẽ Trước khi ăn cơm Bé ngồi ngay ngắn Mời cô, mời bạn Cùng bé xơi cơm Nếu có hắt hơi Bạn ơi nhớ nhé Quay ra đằng sau Tay che miệng mũi Nếu không như thế Sẽ mất vệ sinh Bạn bè cười chê Chẳng đẹp tí nào Bé ơi nhớ nhé”. Đồng thời cũng có thể kết hợp một số bài hát như “ Khám tay”, “Tập rửa mặt”, “Thật đáng yêu” qua đó trẻ vui vẻ mạnh dạn và hứng thú hơn với giờ học. Biện pháp 4: Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua các hoạt động giáo dục Giáo dục vệ sinh cho trẻ thông qua hoạt động vệ sinh: Tổ chức hoạt động vệ sinh là cách thức tác động trực tiếp đến nhận thức và hành vi của trẻ. Mục đích là trang bị cho trẻ những tri thức chủ yếu về vệ sinh, giúp trẻ nắm được các thao tác thực hiện trong từng hành động vệ sinh một cách chính xác, đúng đắn, làm cơ sở để luyện tập trong sinh hoạt hàng ngày. Các tiết vệ sinh có thể tổ chức theo từng nhóm nhỏ từ 5 – 7 trẻ vào các thời điểm làm vệ sinh cá nhân, trước khi ăn cơm, trước khi ngủ trưa Trong quá trình tổ chức tiết học vệ sinh cá nhân, giáo viên có thể sử dụng các dụng cụ trực quan như tranh ảnh hoặc các dụng cụ vệ sinh cá nhân (vật thật) để giúp trẻ dễ dàng nắm được cách thức thực hiện, có hứng thú với việc thực hiện hành vi văn hoá vệ sinh. Các cháu mẫu giáo bé tuy còn nhỏ nhưng cũng có khả năng tiếp thu được những kiến thức thông thường, vì vậy cô cần phải hướng dẫn cho các cháu biết những điều cần thiết của từng yêu cầu vệ sinh và những tác hại của việc không
- thực hiện đúng yêu cầu đó, lời hướng dẫn của cô phải đơn giản, rõ ràng, chính xác, dễ hiểu. Để thực hiện tốt hoạt động vệ sinh thì cô phải chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và động tác mẫu. Các cháu có thể thực hiện các công việc tự phục vụ bản thân, vì vậy đối với những việc có thể làm mẫu được cô cần chuẩn bị tốt lời hướng dẫn và làm thành thạo động tác mẫu, vừa làm vừa giải thích, cô có thể tập truớc cho một cháu để cháu đó làm mẫu cho các cháu khác làm theo. Nhắc nhở các cháu thực hiện thường xuyên. Muốn hình thành một thói quen vệ sinh ngoài việc làm cho trẻ hiểu được ý nghĩa có kỹ năng cần phải làm cho trẻ được thực hành thường xuyên, có như vậy mới ăn sâu vào nếp sống của trẻ. Hành động sẽ trở thành thói quen khi đứa trẻ có nhu cầu từ bên trong. Lồng ghép vào các hoạt động học có chủ đích: Trong quá trình tổ chức các hoạt động học tập cho trẻ, thông qua những môn học, bài học cụ thể như: Khám phá khoa học; Khám phá xã hội; Làm quen với tác phẩm văn học Giáo viên có thể tiến hành tích hợp nội dung giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ. Tuy nhiên khi tiến hành lồng ghép giáo viên cần chú ý đảm bảo tính tự nhiên, hợp lý, khách quan của tri thức môn học; đảm bảo tính hệ thống, trọn vẹn của nội dung hoạt động học tập; đảm bảo tính vừa sức cho trẻ. Để lồng ghép nội dung giáo dục hành vi văn hoá cho trẻ thông qua các hoạt động học tập có hiệu quả, khi tiến hành tích hợp giáo viên cần nghiên cứu kỹ nội dung bài học, lựa chọn phương pháp, phương tiện dạy học phù hợp, từ đó xác định nội dung giáo dục thói quen hành vi văn hoá cụ thể cần lồng ghép, thời điểm lồng ghép và yêu cầu cần đạt được. Ví dụ: Qua giờ kể chuyện: Truyện “Gấu con bị đau răng” cô giáo dục trẻ biết vệ sinh răng miệng sạch sẽ vào buổi sáng sau khi ngủ dậy và buổi tối trước khi đi ngủ. Hay ở hoạt động khám phá khoa học đề tài “Tìm hiểu một số loại quả” cô giáo dục trẻ trước khi ăn phải biết rửa tay, rửa hoa quả, gọt vỏ trước khi ăn và biết bỏ rác đúng nơi quy định. Biện pháp 5: Giáo dục vệ sinh thông qua các hoạt động trong ngày Tổ chức cho trẻ luyện tập trực tiếp, thường xuyên trong sinh hoạt hàng ngày: Trẻ lứa tuổi mầm non có đặc điểm mau nhớ, chóng quên, vì vậy mỗi hành vi văn hoá vệ sinh đã hình thành cho trẻ cần phải được luyện tập củng cố một cách thường xuyên. Cho trẻ thực hành thường xuyên trong các thời điểm sinh hoạt hàng ngày (khi đón, trả trẻ, khi tổ chức cho trẻ ăn, ngủ, chơi học ), đó là cách luyện tập tốt nhất để giúp trẻ biến những kỹ năng đã hình thành trở thành kỹ xảo, thói quen. Ví dụ khi tổ chức cho trẻ ăn cô giáo hướng dẫn trẻ rửa tay, lau miệng trước và sau khi ăn; dạy trẻ trước khi ăn phải mời mọi người, khi ăn phải nhai kỹ, không được ngậm thức ăn trong miệng, không được dùng tay bốc thức ăn, không vừa ăn vừa nói chuyện; Trong giờ chơi cô giáo hướng dẫn trẻ cách chơi với đồ vật, đồ chơi, cách giao tiếp, giúp đỡ bạn trong quá trình cùng chơi; không được tranh giành đồ chơi với bạn, không được đập, phá làm hỏng đồ chơi Khi trẻ thực hiện các hành động cô giáo cần giám sát, kiểm tra, đánh giá, động viên khen ngợi kịp thời những trẻ làm đúng, làm tốt, hướng dẫn, uốn nắn, điều chỉnh những trẻ làm chưa đúng. Thông qua việc luyện tập thường xuyên, hàng ngày, với sự giúp đỡ và giám sát chặt chẽ của giáo viên, trẻ sẽ có
- được những kỹ năng thực hiện hành động có văn hoá vệ sinh, dần dần những kỹ năng đó sẽ trở thành thói quen, thành nhu cầu bên trong của trẻ. Rèn trẻ thông qua các hoạt động của lớp trong ngày. Ví dụ: Lúc đón trẻ vào lớp phải chào cô, cô hướng dẫn trẻ xếp mũ nón vào giá, chải đầu, đi dép đúng chân. Trong giờ trò chuyện cô có thể gợi hỏi: “Mỗi sáng thức dậy các con thường làm gì? + Khi đánh răng các con cầm bàn chải bằng tay nào? + Chải răng xong các con làm gì? + Sau khi chải răng, rửa mặt xong các con làm gì? + Khi ăn các con có làm rơi vãi cơm không? - Giờ ăn trưa: Dạy trẻ rửa tay lau mặt, mời cô, các bạn, cầm thìa đúng tay, ăn nhai từ tốn, không nhai nhồm nhoàm và nuốt vội, không ngậm thức ăn lâu trong miệng không vừa ăn vừa chơi, vừa nói chuyện, đi lại lung tung, không bỏ dở suất ăn, biết nhặt cơm rơi vào đĩa riêng - ăn xong lau miệng. - Uống nước: Phải từ từ, không làm đổ, không làm vỡ cốc, không rót nước quá đầy, thò tay vào bình nước, không uống nước lã. - Mặc: Trang phục quần áo gọn gàng sạch sẽ - không mặc quần áo bẩn, rách, đứt cúc, không ngồi lê trên sàn đất hoặc bôi bẩn vào quần áo - thường xuyên tắm rửa, thay quần áo. - Với bạn bè: Biết nhường nhịn bạn khi chơi và cùng chơi không đánh cãi nhau gây gổ bắt nạt bạn yếu. - Với thiên nhiên môi trường: Biết yêu quý bảo vệ cảnh đẹp của thiên nhiên, không hái hoa ngắt lá, bẻ cành cây ở trường, lớp vườn hoa. Chăm tưới cây, nhổ cỏ, dọn vệ sinh. - Giờ chơi phản ánh sinh hoạt: Dạy trẻ biết rửa chén, bát, đĩa, xoong, chảo; Dạy trẻ biết tôn trọng yêu kính người lớn tuổi, người trong gia đình biết giúp đỡ lẫn nhau. - Giờ vẽ: Dạy trẻ ngồi đúng tư thế không nói chuyện. - Giờ trả trẻ: Cô nhắc nhở phụ huynh cùng với cô, giáo dục các cháu theo yêu cầu của lớp học. Biện pháp 6: Tích cực đẩy mạnh công tác tuyên truyền và phối hợp với phụ huynh trong công tác rèn thói quen vệ sinh cho trẻ Để phối hợp với gia đình trong việc giáo dục thói quen văn hoá vệ sinh cho trẻ, giáo viên cần tiến hành trao đổi thường xuyên với phụ huynh trẻ thông qua giờ đón và trả trẻ hàng ngày, qua đó nắm bắt những đặc điểm, hành vi của trẻ ở gia đình. Đồng thời thông báo cho gia đình biết tình hình, những biểu hiện của trẻ ở lớp, những nội dung, yêu cầu giáo dục của cô đối với trẻ. Từ đó có cách thức tác động, phối hợp giữa gia đình và nhà trường trong việc giáo dục, rèn luyện hành vi văn hoá cho trẻ. Phối hợp với gia đình trong quá trình giáo dục trẻ. Hàng ngày trẻ chỉ sinh hoạt ở trường mầm non với thời gian nhất định, còn lại trẻ sống ở gia đình, chịu sự giáo dục của gia đình. Vì thế, nếu có sự kết hợp chặt chẽ giữa gia đình và nhà trường để thống nhất về nội dung, phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục tác động đến trẻ một cách đồng bộ, sẽ tạo
- điều kiện thuận lợi cho sự phát triển, hình thành hành vi văn hoá vệ sinh cho trẻ. Muốn trẻ hình thành được các thói quen vệ sinh thì nhà trường và gia đình phải thống nhất yêu cầu giáo dục vệ sinh đối với trẻ. Nhà trường và giáo viên thông báo, yêu cầu biện pháp giáo dục vệ sinh cho phụ huynh biết, yêu cầu phụ huynh cần theo dõi giúp đỡ và cho biết tình hình thực hiện ở nhà để cùng phối hợp giáo dục rèn luyện cho trẻ. 3. PHẦN KẾT LUẬN 3.1: Ý nghĩa, phạm vi áp dụng của đề tài, sáng kiến, giải pháp: Như chúng ta đã biết, xã hội ngày càng phát triển với tốc độ không ngừng, cuộc sống con người cũng không ngừng được nâng cao. Các xí nghiệp mọc lên nhanh chóng và hoạt động không mệt mỏi, đi đôi với sự phát triển ấy thì cũng kéo theo vô vàn thách thức: không khí ô nhiễm, nguồn nước ô nhiễm, bệnh tật gia tăng Sức khoẻ là vốn quý nhất của con người. Ngoài yếu tố di truyền, chăm sóc sức khỏe chế độ dinh dưỡng hợp lý thì phần lớn sức khỏe phụ thuộc vào yếu tố chăm sóc vệ sinh. Vì vậy việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ là một việc làm thiết thực nhằm giúp trẻ khỏe mạnh, có thói quen vệ sinh và phòng tránh bệnh tật một cách tốt hơn với thời điểm cao trào phòng dịch bệnh covid - 19 hiện nay. * Phạm vi áp dụng đề tài: Việc rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ thì bất kì nơi đâu, bất kì lúc nào và ở lĩnh vực nào chúng ta cũng có thể áp dụng được, nhưng bản thân tôi là một giáo viên đang dạy lớp 3-4 tuổi nên tôi muốn tập trung khai thác thế mạnh của trẻ trong phạm vi trường mầm non. Vì thế phạm vi đề tài của tôi áp dụng cho trẻ 3- 4 tuổi ở trường mầm non. * KẾT QUẢ: Sau khi áp dụng một số biện pháp rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi tôi thấy đạt một số kết quả như sau: - Kết quả trên trẻ: Đa số các cháu đã thực hiện được những kỹ năng như: Tự rửa mặt, rửa tay, chải đầu, thay quần áo sử dụng thành thạo dụng cụ vệ sinh, biết giữ nhà cửa, đồ dùng, đồ chơi sạch sẽ, bỏ rác vào giỏ, không vứt rác bừa bãi, đi tiêu tiểu đúng nơi quy định, không ăn quả xanh, uống nước lã, khi ăn cơm trẻ không làm rơi vãi, trẻ đã thể hiện được nếp sống văn minh lịch sự, giữ vệ sinh lịch sự nơi công cộng, không khạc nhổ bừa bãi, khi ho, ngáp, hắt hơi đã biết lấy tay che miệng. Tỉ lệ sức khỏe: Các bệnh về mắt, răng, miệng giảm dần. Kết quả cụ thể như sau: Khả năng Số trẻ KS Đạt Kỹ năng thao tác vệ sinh 20/22% 91 % Có ý thức việc mình làm 21/22% 95,4 % Tình trạng sức khỏe 21/22% 95,4 % - Kết quả từ phía các bậc cha mẹ:
- Các bậc cha mẹ đã có thói quen liên kết phối hợp chặt chẽ với cô giáo trong việc rèn luyện thói quen vệ sinh cho trẻ, trao đổi với giáo viên bằng nhiều hình thức thông qua bảng thông tin dành cho cha mẹ, bảng đánh giá trẻ ở lớp, sổ bé ngoan; Giao tiếp giữa cha mẹ và con cái tốt hơn, đa số cha mẹ dịu dàng, ít la mắng trẻ, thay đổi trong cách rèn kỹ năng cho trẻ, phân việc cho trẻ, không cung phụng trẻ thái quá, không còn hình ảnh ba bế con, mẹ đi sau xách cặp cho con, tranh thủ đút cho con ăn, ngược lại xuất hiện khá nhiều hình ảnh trẻ tự đeo ba lô, tự vào lớp, tự xúc cơm Cha mẹ cảm thấy mãn nguyện với thành công của trẻ, tin tưởng vào kết quả giáo dục của nhà trường, chia sẻ những khó khăn của cô giáo, cung cấp vật liệu, phụ giúp giáo viên trang trí lớp, làm đồ chơi. - Về phía giáo viên: Nắm được mục đích, yêu cầu của hoạt động vệ sinh cho trẻ trong trường mầm non. Khai thác sâu nôi dung vệ sinh cho trẻ, xây dựng kế hoạch giáo dục vệ sinh cho trẻ theo chương trình GDMN phù hợp với trẻ ở nhóm lớp. Nắm vững các phương pháp giáo dục vệ sinh cho trẻ, lồng ghép, tích hợp một cách sáng tạo nhằm rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. Giáo viên tự tin hơn khi thực hiện các hoạt động vệ sinh cho trẻ. Xây dựng nội dung, cách thức tuyên truyền với các bậc phụ huynh một cách phù hợp, làm chuyển biến nhận thức của phụ huynh trong việc rèn thói quen vệ sinh cho trẻ. Thu hút được sự quan tâm của phụ huynh với nhà trường: Hợp tác cùng giáo viên rèn thói quen vệ sinh cho trẻ, ủng hộ một số đồ dùng, dụng cụ vệ sinh. 3.2. Kiến nghị, đề xuất: Từ những việc làm cụ thể và kết quả đạt được như vậy để nâng cao chất lượng rèn luyện thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ ở các trường mầm non nói chung và lớp tôi giảng dạy nói riêng. Tôi xin mạnh dạn đề xuất cụ thể như sau: *Đối với Ban Giám hiệu: - Ban Giám hiệu luôn tổ chức các buổi thao giảng về chuyên đề vệ sinh cá nhân để giáo viên được trao đổi những vướng mắc trong việc dạy trẻ. * Đối với giáo viên: Cô giáo dành thời gian, chú ý nhiều hơn đến những cháu cá biệt để có biện pháp giáo dục phù hợp, phải động viên khen thưởng sửa lại kịp thời cho trẻ nhằm kích thích những việc làm tốt, và hạn chế những hành vi xấu của trẻ. Cô giáo phải hết lòng yêu thương các cháu, với tinh thần là người mẹ thứ hai của các cháu, cô giáo phải nhạy bén trước những diễn biến của các cháu, hiểu được đặc điểm tâm sinh lý của các cháu, hiểu được hoàn cảnh sống của từng gia đình. Tuyên truyền với phụ huynh về công tác giáo dục rèn luyện vệ sinh văn minh cho trẻ. Do đó muốn giáo dục chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống nhất phương pháp giáo dục của 2 cô giáo trong lớp cũng như phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. Tuyên truyền với phụ huynh về công tác giáo dục rèn luyện vệ sinh văn minh cho trẻ. Do đó muốn giáo dục chăm sóc trẻ đạt kết quả tốt thì phải có sự thống nhất phương pháp giáo dục của 2 cô
- giáo trong lớp cũng như phải có sự phối hợp chặt chẽ giữa nhà trường, gia đình và xã hội. * Đối với phụ huynh: Gia đình phải thật sự là mái ấm tình thương của trẻ, bố mẹ phải là tấm gương sáng để trẻ noi theo, phải quan tâm, yêu thương trẻ, có trách nhiệm giáo dục trẻ ngay từ khi mới chào đời. Trên đây là một số kinh nghiệm trong việc dạy trẻ có những thói quen vệ sinh cá nhân cho trẻ mẫu giáo 3-4 tuổi, bản thân tôi đã áp dụng tại trường mầm non. Tôi rất mong được sự đóng góp ý kiến của hội đồng khoa học để đề tài của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin chân thành cảm ơn! RELATED POSTS: