SKKN Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS

pdf 14 trang binhlieuqn2 07/03/2022 10432
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_to_chuc_cac_hoat_dong_day_hoc_theo_dinh_huong_phat_trie.pdf

Nội dung tóm tắt: SKKN Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn Lớp 9 ở trường THCS

  1. một trong những sự lựa chọn phù hợp và hiệu quả nhất. Bởi khi thảo luận bằng kĩ thuật khăn trải bàn thì mỗi cá nhân của nhóm đều phải thực hiện và ghi kết quả của mình vào bảng, sau đó cả nhóm thống nhất chọn lọc, tổng hợp kết quả để ghi vào kết quả của nhóm. Như vậy với hình thức thảo luận này thì cá nhân cũng làm việc, phải tư duy nhưng sau đó lại phải liên kết, thống nhất thông tin mà vấn đề giáo viên đặt ra. Phần cơ sở vật chất cho kĩ thuật này cũng đơn giản, không tốn kém. Cách thực hiện như sau: giáo viên giao nhiệm vụ thảo luận, nội dung, thời gian. Mỗi nhóm sẽ trình bày vào một tờ giấy được chia đều cho các thành viên trong nhóm, mỗi thành viên sẽ trình bày ý kiến của mình vào một góc, sau đó nhóm trưởng sẽ chắt lọc, lấy ý kiến của từng thành viên trong nhóm đi đến thống nhất. Có thể mô phỏng hình thức thảo luận nhóm theo kĩ thuật Khăn trải bàn như sau: (Nguồn: Tài liệu tập huấn chuyên môn dành cho vùng khó khăn nhất) Bên cạnh đó thì tùy vào điều kiện và thời gian giáo viên có thể lựa chọn các kĩ thuật dạy học tích cực khác. Để việc thảo luận nhóm đạt hiệu quả dạy học cao và quan trọng là phát huy được năng lực người học thì người thầy đóng vai trò quan trọng. Trong đó khâu đầu tiên là lựa chọn nội dung thảo luận và xác định những năng lực sẽ được thể hiện và phát huy qua hoạt động thảo luận này. Khi lựa chọn những nội dung thảo luận phải lựa chọn những vấn đề lớn, những vấn đề đòi hỏi sự hợp tác tư duy, trí tuệ tập thể; tránh lựa chọn những vấn đề đơn giản, thảo luận theo hình thức đối phó thì việc thảo luận không đạt hiệu quả. Với cách làm này, học sinh được rèn luyện phát triển nhiều năng lực của bản thân, nhất là năng lực hợp tác, giao tiếp, làm việc chung. Và đương nhiên, để thể hiện được ý kiến của mình, trả lời được câu hỏi, hoàn thành nhiệm vụ của cá nhân, của nhóm thì các em phải làm việc với văn bản, với tác phẩm, qua đó mà những năng lực 7
  2. cần thiết của bộ môn Ngữ Văn như năng lực giao tiếp tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mĩ được rèn luyện, phát triển. Ví dụ khi dạy đoạn trích Kiều ở lầu Ngưng Bích khi phân tích-tìm hiểu về nỗi nhớ của Thúy kiều giáo viên chọn câu hỏi: Dưới xã hội phong kiến chữ “hiếu” luôn đặt lên trên chữ “tình”, và ngay cả với Thúy Kiều phải đặt trong sự lựa chọn “bên tình bên hiếu bên nào nặng hơn” Kiều đã chọn bán mình cứu cha và gia đình mà phụ tình Kim trọng. Thế nhưng trong đoạn trích này khi diễn tả nỗi nhớ của Thúy Kiều dành cho người thân Kiều lại nhớ Kim Trọng trước, nhớ cha mẹ sau? Hoặc khi dạy bài thơ: Đồng chí của Chính Hữu khi phân tích- tìm hiểu khổ thơ cuối: “Đêm nay rừng hoang sương muối Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới Đầu súng trăng treo” Giáo viên có thể đặt câu hỏi để thảo luận nhóm như sau: Hình ảnh súng và trăng gợi ra những ý nghĩa liên tưởng nào? Với những nội dung câu hỏi thảo luận như vậy, đòi hỏi học sinh phải huy động sự hiểu biết của mình không chỉ ở nội dung văn bản đang học mà còn sự liên tưởng, suy luận kết hợp với sự liên kết kiến thức ở nhiều phương diện khác. Như vậy học sinh sẽ phát huy hết các năng lực tư duy như năng lực giao tiếp và sử dụng tiếng Việt, năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực hợp tác vv. 3.4. Tích hợp kiến thức. Chương trình Ngữ văn THCS hiện hành gồm 03 phân môn: Văn bản - Tiếng Việt - Tập làm văn. Nội dung của chúng được biên soạn theo nguyên tắc đồng tâm, trên cơ sở lấy 06 kiểu văn bản - sáu phương thức biểu đạt chính: tự sự, miêu tả, biểu cảm, lập luận, thuyết minh, điều hành làm trục đồng quy với một sự tiếp nối, kế thừa và phát triển nâng cao rất lôgíc và hợp lí. Vì thế, một trong những yêu cầu quan trọng của bộ môn Ngữ văn là dạy học tích hợp. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn không nằm ngoài mục đích giúp học sinh nắm vững, hiểu sâu và biết vận dụng kiến thức trong học tập cũng như trong hoạt động giao tiếp hằng ngày. Tích hợp trong dạy học Ngữ văn gồm có một số hình thức sau: -Tích hợp dọc. Tích hợp dọc là sự tích hợp kiến thức giữa ba phân môn Văn (Phần văn bản) - Tiếng Việt - Tập làm văn lớp trong cấu tạo chương trình của lớp học trên với lớp dưới, và ngược lại của lớp dưới và lớp trên. - Tích hợp liên môn: Tích hợp liên môn là sự tích hợp những kiến thức có liên quan ở các bộ môn khác có liên quan đến nội dung văn bản. Đó là những hình thức tích hợp có thể vận dụng dễ dàng trong dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên, tích hợp trong dạy học Ngữ văn không những đòi hỏi giáo viên phải nắm vững và có cái nhìn bao quát nội dung chương trình mà còn có sự hiểu biết nhất định về nội dung các môn học khác (Lịch sử, Địa lý, GDCD, Âm nhạc, Mĩ thuật, ) để chủ động lựa chọn và linh hoạt hướng dẫn học sinh liên hệ, đối chiếu, vận dụng kiến thức của các môn học đó vào quá trình phân tích, tìm hiểu và giải quyết các vấn đề liên quan trong quá trình học tập phần văn bản. Ví dụ khi dạy bài thơ Viếng lăng Bác - Lớp 9 8
  3. Đối với tích hợp ngang. Khi dạy bài này, GV tích hợp với văn tự sự có sử dụng yếu tố miêu tả, biểu cảm. Vì thế, giáo viên cần hướng dân HS tìm hiểu yếu tố tự sự, miêu tả và nghị luận trong bài thơ. Sự kết hợp nhuần nhuyễn các yếu tố đó đã giúp tác giả thể hiện sâu sắc hơn niềm xúc động thiêng liêng, tấm lòng thành kính vừa tự hào vừa đau xót của tác giả khi vào lăng viếng Bác. Từ đó giúp HS có thêm kinh nghiệm để viết bài văn tự sự có hiệu quả. Đối với tích hợp dọc, giáo viên chủ động, linh hoạt hướng dẫn HS liên hệ, đối chiếu bài thơ “Viếng lăng Bác” với bài thơ “Đêm nay Bác không ngủ” của Minh Huệ về đề tài: Lãnh tụ. Nhưng cách thể hiện của mỗi lại khác nhau cho nên tuy giống nhau về chủ đề nhưng cách thể hiện không lại không trùng lặp. Điều này vừa cho thấy sự sáng tạo của các nhà thơ khiến cho mỗi tác phẩm đều có một sức lôi cuốn, hấp dẫn riêng. Tích hợp liên môn. Nguyên tắc dạy học Ngữ văn là phải đặt tác phẩm trong hoàn cảnh phát sinh, vì bất kì tác phẩm văn chương nào cũng mượn những vật liệu có ở thực tại để phản ánh cuộc sống. Nói như vậy có nghĩa là dạy học tác phẩm văn chương có mối quan hệ mật thiết với kiến thức lịch sử và địa lí. Bài thơ “Viếng lăng Bác” được Viễn viết năm 1976 khi cuộc kháng chiến chống Mĩ vừa kết thúc, đất nước thống nhất, lăng Bác cũng vừa được khánh thành, cho nên giáo cần hướng dẫn học sinh tìm hiểu một số nét nổi bật về hoàn cảnh lịch sử Việt Nam trong giai đoạn này để hiểu bài học được bền vững và sâu sắc hơn. Ngoài ra, giáo viên cũng có thể liên hệ kiến thức Giáo dục công dân, môn Mĩ thuật để vừa giáo dục tình cảm, thái độ sống tích cực, vừa rèn luyện khiếu thẩm mĩ cho các em. Từ những nội dung tích hợp của giáo viên trong quá trình dạy học, học sính sẽ biết vận dụng những kiến thức liên môn để giải quyết những vấn đề nảy sinh trong quá trình học tập. Thông qua việc tích hợp như vậy, học sinh được rèn luyện và phát triển năng lực chung, năng lực chuyên biệt môn Ngữ Văn. Bởi vì thông qua việc tích hợp liên môn, các em đã được huy động kiến thức các môn liên quan, các em được rèn luyện năng lực giao tiếp tiếng Việt, tạo lập văn bản. Và đương nhiên, năng lực cảm thụ thẩm mĩ cũng được rèn luyện qua các thao tác liên hệ, so sánh, đánh giá các vấn đề, nội dung ở các môn liên quan đến bài học. Ví dụ khi phân tích bốn câu thơ đầu trong bài Mùa xuân nho nhỏ của Thanh Hải- Ngữ văn 9: “Mọc giữa dòng sông xanh Một bông hoa tím biếc Ơi con chim chiền chiện Hót chi mà vang trời” Với bốn câu thơ này bên cạnh việc am hiểu kiến thức về văn học thì để cảm thu được vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời mà Thanh Hải miêu tả trong bốn câu thơ thì học sinh phải vận dụng sự hiểu biết kiến thức môn Mĩ thuật để phân tích bức tranh xuân đẹp, hài hòa từ màu sắc đến bố cục, kiến thức về Địa lí: tìm hiểu về Huế để hiểu thêm về “dòng sông xanh” mà Thanh Hải nhắc đến trong bài thơ.Như vậy nếu không có kiến thức về môn Mĩ thuật, môn Địa lí thì học sinh không thể làm hiểu một cách thấu đáo sâu sắc nội dung, nghệ thuật bốn câu thơ này,không thể cảm nhận được 9
  4. hết vẻ đẹp của mùa xuân thiên nhiên đất trời vừa có những nét chung nhưng cũng có những nét đặc trưng của xứ Huế. 4. Giải pháp 4: Phát huy năng lực học sinh qua luyện tập, làm bài tập, kiểm tra. Đối với phần văn bản thì trong một bài, một tiết nội dung các bài tập ở phần luyện tập ít. Chính bởi vậy đôi khi giáo viên xem nhẹ. Tuy nhiên thực tế cho thấy việc cho học sinh thực hiện các bài tập, tăng luyện tập cho học sinh rất quan trọng. Bởi nhiều lí do như kiểm tra được sự lĩnh hội kiến thức củ học sinh, tạo điều kiện để các em vận dụng kiến thức đã được học, kết hợp với các năng lực của bản thân để giải quyết nội dung các bài tập. Tuy nhiên để làm được điều này thì điều quan trọng nhất là nội dung các bài tập. Lâu nay theo thói quen sau khi dạy xong bài mới nếu còn thời gian thì giáo viên sẽ cho làm một số bài tập trong sách giáo khoa hoặc thôi. Như vậy, việc luyện tập chưa phát huy hết năng lực học sinh. Để phát huy năng lực người học qua hoạt động luyện tập, làm bài tập đạt hiệu quả thì cần tập trung vào các dạng bài tập sau: - Dạng bài tập vận dụng nâng cao Ví dụ sau khi học xong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” - Phạm Tiến Duật, Giáo viên ra bài tập: Đọc kĩ hai câu thơ sau và trả lời câu hỏi: Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước Chỉ cần trong xe có một trái tim Nêu ý nghĩa biểu tượng của hình ảnh trái tim trong hai câu thơ trên, Từ đó hãy nêu suy nghĩ về trách nhiệm của con người Việt Nam đối với đất nước. Như vậy với bài tập này học sinh vừa phải vận dụng những kiến thức đã học về bài thơ, về kiến thức phân môn Tiếng Việt, vừa kết hợp với kiến thức lịch sử, xã hội để liên hệ mở rộng từ ý nghĩa của một hình ảnh có trong văn bản. Các năng lực cảm thụ thẩm mĩ, năng lực sử dụng tiếng Việt và các năng lực khác sẽ được phát huy. - Dạng bài tập sử dụng ngữ liệu có trong văn bản để khai thác câu hỏi: Dạng câu hỏi này là dạng phổ biến hiện nay khi đặc biệt với học sinh bậc THCS theo đánh giá chuẩn PISA, thường xuyên xuất hiện trong đề thi học kì, đề thi tốt nghiệp THPT và đề thi đại học, như vậy với học sinh bậc THCS khi ra đề dạng này thì cần lực chọn nội dung phù hợp hơn để học sinh vừa vận dụng những kiến thức đã được học vừa có sự tư duy về nhiều mặt để giải quyết, đồng thời vừa được làm quen với dạng đề ở cấp học cao hơn đó bậc THPT. Cách làm như vậy sẽ giúp rèn luyện, phát triển năng lực chuyên biệt của bộ môn, nhất là năng lực giao tiếp tiếng Việt và năng lực cảm thụ thẩm mĩ. Ví dụ1: Đọc kĩ đoạn trích trên và thực hiện các yêu cầu sau: Ông Hai trả tiền nước, đứng dậy, chèm chẹp miệng, cười nhạt một tiếng vươn vai nói to: - Hà, nắng gớm, về nào Ông lão vờ vờ đứng lảng ra chỗ khác, rồi đi thẳng . Ông nghe rõ cái giọng chua lanh lảnh của người đàn bà cho con bú: 10
  5. - Cha mẹ tiên sư nhà chúng nó! Đói khổ ăn cắp ăn trộm bắt được người ta còn thương. Cái giống Việt gian bán nước thì cứ mỗi đứa cho một nhát! Ông Hai cúi gằm mặt xuống mà đi. Ông thoáng nghĩ tới mụ chủ nhà. Về đến nhà, ông Hai nằm vật ra giường ( ). Nhìn lũ con, tủi thân, nước mắt ông lão cứ giàn ra. Chúng nó cũng là trẻ con làng Việt gian đấy ư? Chúng nó cũng bị người ta rẻ rúng hắt hủi đấy ư? Khốn nạn, bằng ấy tuổi đầu Ông lão nắm chặt hai tay lại mà rít lên: Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này. (Trích truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân, SGK Ngữ văn 9, tập 1, NXB Giáo dục). a, Đoạn trích trên đã thể hiện tâm trạng của nhân vật ông Hai như thế nào? Tình huống nào dẫn đến tâm trạng đó của ông? b, Xác định hình thức độc thoại, độc thoại nội tâm có trong đoạn trích trên? Căn cứ vào đâu để em xác định được các hình thức đó? c, Từ diễn biến tâm trạng của nhân vật ông Hai trong đoạn trích trên đã gợi cho em những suy nghĩ gì về tình yêu quê hương, đất nước của con người Việt Nam. (Trình bày bằng một đoạn văn khoảng 7 dòng trên tờ giấy thi) Ví dụ2: Đọc kĩ đoạn văn sau và trả lời các câu hỏi. “Chúng tôi, mọi người - kể cả anh, đều tưởng con bé sẽ đứng yên đó thôi. Nhưng thật lạ lùng, đến lúc này, tình cha con như bỗng trỗi dậy trong người nó, trong lúc không ai ngờ đến thì nó bỗng kêu lên: - Ba a a ba! Tiếng kêu của nó như tiếng xé, xé sự im lặng và xé cả ruột gan của mọi người, nghe thật xót xa. Đó là tiếng “ba” mà nó cố đè nén trong bao nhiêu năm nay, tiếng “ba” như vỡ tung ra từ lòng nó, nó vừa kêu vừa chạy xô tới, nhanh như một con sóc, nó chạy thót lên và dang hai tay ôm chặt lấy cổ ba nó. Tôi thấy làn tóc tơ sau ót nó dựng đứng lên.” a, Đoạn văn trên trích trong văn bản nào? Nêu tên tác giả? b, Đoạn văn trên đã thể hiện thái độ và hành động của nhân vật bé Thu trong hoàn cảnh nào? Nêu suy nghĩ của em về thái độ và hành động đó của nhân vật? c, Hãy ghi ra hai hình ảnh so sánh có trong đoạn văn và cho biết hai hình ảnh so sánh này góp phần thể hiện điều gì? - Dạng bài tập liên môn: Dạng bài tập này đòi hỏi học sinh phải vận dụng kiến thức của các môn học khác để giải quyết nội dung bài tập liên quan đến nội dung bài dạy: Ví dụ: Dựa vào những kiến thức về môn Mĩ thuật và nội dung của bài thơ Đập đá ở Côn Lôn hãy vẽ một bức tranh về hình ảnh người tù cánh mạng trong bài thơ. Với dạng bài tập này học sinh không chỉ học tốt kiến thức môn Ngữ văn mà còn vận dụng kiến thức, tài năng, năng khiếu môn học khác để thực hiện. KẾT LUẬN 11
  6. Tóm lại, thông qua 4 giải pháp đã trình bày, nhóm tác giả chúng tôi đã giải quyết 6 nội dung trình bày ở trên: Thứ nhất: Phát triển năng lực học sinh qua việc giao nhiệm vụ, hướng dẫn cách chuẩn bị bài mới. Thứ hai: Phát triển năng lực học sinh qua hoạt động khởi động. Thứ ba: Phát huy năng lực học sinh qua các hoạt động dạy học bài mới. Thứ tư: Phát huy năng lực học sinh qua tổ chức hoạt động theo nhóm. Thứ năm: Phát huy năng lực học sinh qua việc tích hợp kiến thức. Thứ sáu: Phát huy năng lực học sinh qua luyện tập, làm bài tập, kiểm tra. trong đó, giải pháp ba, tư, năm chúng tôi tổ chức trong phần giúp học sinh Phát huy năng lực qua các hoạt động dạy học bài mới. Các giải pháp này thực sự hiệu quả khi nó giúp chúng tôi, người giáo viên, tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS. Theo tinh thần đổi mới của Nghị quyết 29 và theo thực tế dạy văn hiện nay ở trường THCS An Lộc nói riêng, THCS nói chung, việc dạy học hướng tới phát huy phẩm chất - năng lực người học là cách dạy tích cực, hiệu quả, cần và rất cần thực hiện. Chính vì đặc điểm “Văn học là nhân học”, “Văn là người” và tính chất chung, liên quan trực tiếp đến nhau và liên quan đến các bộ môn Văn - Sử - Địa - GDCD - Mĩ thuật - Âm nhạc nên hơn bao giờ hết, dạy học theo đặc trưng thể loại và tích hợp liên môn cùng sự nỗ lực sáng tạo của người thầy là vô cùng cần thiết. Hy vọng, đề tài này của chúng tôi sẽ giúp học sinh có ý thức nhiều hơn trong việc tự học, vận dụng kiến thức nói chung và văn học nói riêng vào thực tế cuộc sống; thực hiện các chức năng của văn học một cách tự nguyện. PHẦN BA. KHẢ NĂNG ÁP DỤNG CỦA SÁNG KIẾN Sau thời gian áp dụng các biện pháp trên tôi thấy tinh thần học tập của học sinh hào hứng hơn trong giờ học Ngữ văn. Các em hiểu bài và thực hiện tốt các bài viết. Qua việc vận dụng trong thực tế tại trường THCS An Lộc, chúng tôi nhận thấy biện pháp “Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy ngữ văn lớp 9 ở trường THCS.” này có thể áp dụng với tất cả học sinh khối lớp 9 trong trường THCS. Và chúng tôi tin tưởng rằng, với các biện pháp trên, chất lượng dạy học Ngữ văn sẽ được nâng cao hơn. PHẦN BỐN. ĐÁNH GIÁ HIỆU QUẢ SAU KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN I. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng thử sáng kiến theo ý kiến của tác giả - Về thái độ, tình cảm của Học sinh: Thái độ của các em chân thành, nhiệt tình, tích cực, nhất là trong việc chuyển giao và thực hiện nhiệm vụ từng thành viên trong mỗi nhóm. Từ đó giúp học sinh vận dụng các kĩ năng để thực hiện và hoàn thành nhiệm vụ trước tiết học và tại tiết học. Vì thế, các em có sự chuyển biến tốt trong nhận thức, trong tình cảm, hành động. - Về kiến thức môn học: Học sinh đa số hào hứng tiếp cận để tri nhận vấn đề, từ đó nắm rõ chuẩn kiến thức, kĩ năng. Đây là bước khởi đầu cho việc làm bài kiểm tra, bài 12
  7. thi chuyển cấp và là tiền đề để sau này các em vận dụng kiến thức đa ngành giải quyết các vấn đề đặt ra trong công việc, trong cuộc sống. - Về kĩ năng: Các em được bổ sung, gia tăng thêm nhiều kĩ năng. Các em biết phát huy sức mạnh tập thể, nâng cao tinh thần làm việc nhóm, phát huy tính chủ động sáng tạo, thể hiện kĩ năng tìm kiếm, chọn lọc thông tin, kĩ năng đối diện và xử lí khó khăn nhất là khả năng hùng biện, tranh biện, tư duy phản biện.v.v - Về định hướng cho hành động: Học sinh có thể thực hiện các hành động thể hiện rõ trách nhiệm với quê hương Đất Nước mình trong tình hình mới trong sự phát huy truyền thống dân tộc. - Về hiệu quả kinh tế, giáo dục: Không tốn quá nhiều chi phí; mọi vật liệu, dồ dùng (cả giáo viên, học sinh) dễ kiếm dễ làm (Kể cả không có máy chiếu, bảng thông minh) vẫn thực hiện được. Nếu vận dụng công nghệ thông tin thì càng tạo sức cuốn hút cho người theo dõi: giáo viên, bạn học Trong quá trình tổ chức dạy học, giáo viên có thể cộng điểm, cho các điểm khuyến khích. Với học sinh việc cộng điểm để nâng cao thành tích học tập, cải thiện điểm số này là cách nâng cao hiệu quả giảng dạy tích cực, góp phần thực hiện tốt quy chế xét tốt nghiệp và tuyển sinh vào các trường THPT. II. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến. 1. Đánh giá của Tổ Chuyên môn. - Sáng kiến đã được áp dụng thử từ ngày 25 tháng 09 năm 2020 đến 15 tháng 02 năm 2021. - Tác giả đã làm rõ, cụ thể các giải pháp Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS Đồng thời, thể hiện rõ mục tiêu “tích hợp kiến thức nhằm phát huy năng lực người học”, đáp ứng những đòi hỏi của cải cách dạy học môn Ngữ văn trong tình hình mới; gắn văn học với thực tiễn, giáo dục ý thức trách nhiệm của học sinh với bản thân và cộng đồng. - Những hiệu quả đạt được: + Vận dụng thích hợp, linh hoạt kiến thức liên môn và liên phân môn trong giảng dạy văn học. + Tạo được sự hứng thú cho học sinh trong việc tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc độ Lý luận văn học, Văn học sử, cảm thụ tác phẩm theo đặc trưng thể loại + Học sinh có điều kiện thể hiện các năng lực, phẩm chất và sức sáng tạo của mình. + Bài tập luyện tập củng cố và mở rộng giáo viên có thể linh hoạt tùy đối tượng (Khá Giỏi - Trung bình - Yếu kém). 2. Đánh giá của Trường THCS An Lộc Vận dụng hiệu quả các giải pháp “Tổ chức các hoạt động dạy học theo định hướng phát triển năng lực khi dạy Ngữ văn lớp 9 ở trường THCS”. Tạo được sự hứng thú cho học sinh trong việc tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc độ Lý luận văn học, Văn học sử, cảm thụ tác phẩm theo đặc trưng thể loại. 13
  8. Học sinh có điều kiện thể hiện nhiều năng lực của mình: thuyết trình, phản biện và bảo vệ ý kiến của mình. Các em đã có những sáng tạo trong việc tìm nhạc, hình ảnh, các tư liệu liên quan để minh họa cho phần hoạt động của nhóm mình. Bài tập luyện tập củng cố và mở rộng giáo viên có thể linh hoạt tùy đối tượng (Khá Giỏi - Trung bình - Yếu kém). * Kết quả khảo nghiệm cụ thể (Căn cứ trên điểm trung bình môn Ngữ văn năm học 2020-2021) (Trước khi chưa áp dụng biện pháp) Số Giỏi Khá Trung bình Yếu Trên trung HS bình SL % SL % SL % SL % SL % 40 6 15% 10 25% 15 37,5% 9 22,5% 31 77,5% Kết quả điểm trung bình môn Ngữ văn cuối năm học 2020-2021 (Sau khi áp dụng biện pháp) Số HS Giỏi Khá Trung bình Yếu Trên trung bình SL % SL % SL % SL % SL % 40 10 25% 15 37,5% 13 32,5% 2 5% 38 95% Từ bảng so sánh trên có thể thấy Đề tài của tôi bước đầu đã mang lại hiệu quả nhất định. Điều này cho thấy tính khả quan, tính thực tế về việc áp dụng đề tài vào thực tế giảng dạy. - Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu, kể cả áp dụng thử: Chúng tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự thật và tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật về đề tài của mình./. Bình Long, ngày 20 tháng 02 năm 2021 Người nộp đơn Đồng Thị Hoài Cao Lệ Tuyết 14