Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo Vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường Mầm non

doc 18 trang binhlieuqn2 07/03/2022 5111
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo Vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường Mầm non", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_dam_bao_ve_sinh_an_to.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp đảm bảo Vệ sinh an toàn thực phẩm ở trường Mầm non

  1. Bát thìa của trẻ phải tráng nước sôi trước khi ăn, để đảm bảo vệ sinh, không dùng bát nhựa cho trẻ ăn. Nấu xong cho trẻ ăn ngay. Thức ăn được chia vào các dụng cụ xoong, nồi phải có nắp đậy, có lồng bàn tránh ruồi nhặng bâu vào nhiễm bẩn. Thức ăn để qua buổi hoặc qua đêm trước khi ăn phải đun sôi kỹ. Không dùng đồ nhựa để đựng thức ăn nóng dễ thôi nhiễm chất độc hại. c. Tăng cường vệ sinh cá nhân và vệ sinh môi trường: + Vệ sinh cá nhân đối với nhân viên nhà bếp. Nhân viên nhà bếp: đầu tóc, áo quần, móng tay, chân phải sạch sẽ gọn gàng. Rửa tay bằng xà phòng trước khi chia thức ăn, sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn trong quá trình chế biến thức ăn cho trẻ. Phải mặc quần áo công tác, đeo khẩu trang khi làm việc tại bếp và chia ăn. Nhân viên nhà bếp sáu tháng phải khám sức khoẻ định kỳ một lần; đặc biệt chú ý xét nghiệm phân, nước tiểu và chiếu tim phổi để phát hiện và điều trị bệnh kịp thời, tránh là người lành mang vi trùng lây bệnh cho trẻ. + Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên và cô phụ tại lớp: Rửa tay bằng xà phòng trước khi chia ăn và cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh. Đầu tóc, quần áo gọn gàng, đeo khẩu trang khi chia thức ăn và cho trẻ ăn; có dụng cụ chia thức ăn riêng, không dùng tay bốc. Chuẩn bị đủ bàn ghế ăn, khăn ướt lau tay, đĩa thức ăn rơi vãi cho trẻ Định kỳ 6 tháng cũng khám sức khoẻ có xét nghiệm như nhân viên nhà bếp + Vệ sinh cá nhân trẻ: Rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, rửa xong lau khô. Dạy trẻ biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn; nhắc cha mẹ trẻ hàng tuần cắt mong tay, móng chân cho trẻ. Dạy trẻ biết giữ vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống sôi, ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn, tránh rơi vãi, khi thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định. Trẻ ăn xong biết uống nước, súc miệng, chải răng sạch sẽ. + Vệ sinh môi trường: Đảm bảo có nước sạch đủ dùng. 9
  2. Hàng ngày cần quét dọn bếp nấu, sân vườn, khơi thông cống rãnh, hố rác, hố xí phải có nắp đậy sạch sẽ, xử lý rác thải hợp vệ sinh hàng ngày định kỳ diệt ruồi, dán, chuột, bọ ở bếp và nhà kho. Tủ lạnh, kho lưu trữ thực phẩm cần được sắp xếp gọn gàng sạch sẽ, có lịch vệ sinh, thực phẩm để đúng nơi quy định, nhãn mắc ghi rõ ràng. 2.2.2 Chỉ đạo toàn trường thực hiện tốt các nội dung sau: a. Đầu tư cơ sở vật chất, thiết bị, đồ dùng phục vụ bán trú. Hàng năm, trước khi thực hiện năm học mới tôi tham mưu với đồng chí Hiệu trưởng có kế hoạch chuẩn bị đầy đủ điều kiện tu sửa nhà bếp đảm bảo 1 chiều theo quy định, công trình vệ sinh, nguồn nước sạch, mua sắm đầy đủ các danh mục phục vụ cho bán trú như: soong, nồi, bát, thìa, rổ, rá, dao, thớt, sạp ngủ, chăn, chiếu, gối đủ cho số lượng trẻ ăn bán trú. Bắt hệ thống nước sạch cho nhà bếp, tu sửa hệ thống rửa tay, công trình vệ sinh và xử lý nguồn nước bị nhiễm phèn. b. Tạo nguồn thực phẩm sạch. - Chỉ đạo các bếp ăn tiến hành hợp đồng mua thực phẩm sạch: Tổ chức ký hợp đồng với các cơ sở nuôi trồng, sản xuất thực phẩm sạch, có biên bản hợp đồng đảm bảo tính pháp lý. Hợp đồng cung ứng thực phẩm sạch cần có những giao kèo chặt chẽ từ khâu vận chuyển thực phẩm đến khâu giao nhận thực phẩm tại bếp ăn của nhà trường, cung ứng phải đảm bảo kịp thời, đủ định lượng và chất lượng (tươi, ngon, sạch sẽ, không bị dập nát, khô héo hoặc ôi thiu ), các dụng cụ đựng thực phẩm không sử dụng đồ nhựa cứng, thưa, trơn, nhẵn để các thực phẩm khi vận chuyển không bị dập nát, khi rửa làm vệ sinh thùng, hộp được dễ dàng nhanh, sạch sẽ. Đối với những cơ sở sản xuất nuôi trồng mà chưa có giấy chứng nhận vệ sinh an toàn thực phẩm thì việc ký hợp đồng thực phẩm cần có sự xem xét thống nhất giữa nhà trường và phụ huynh nhằm đảm bảo nguồn thực phẩm an toàn cho trẻ. Đối với những nơi không thể hợp đồng mua thực phẩm sạch tận gốc nuôi trồng sản xuất thì nhà trường nên ký hợp đồng mua thực phẩm sạch với các quầy hàng có uy tín ở địa phương. - Tổ chức duy trì hệ thống VAC của nhà trường. Hệ thống VAC (vườn rau của bé) là một trong những tiêu chí thi đua của Hội thi môi trường xanh - sạch- đẹp và thân thiện. Do vậy, ngay từ đầu 10
  3. năm học, ban giám hiệu nhà trường đã chỉ đạo cho nhân viên dinh dưỡng quy hoạch và xây dựng vườn rau của bé. Một mặt vừa khoanh luống trồng các loại rau phù hợp với địa phương, độ tuổi của trẻ, một mặt phải xây dựng đường đi lối lại giúp trẻ quan sát, tham quan và có thể chăm sóc được vườn rau cùng với cô giáo. Vận động các đoàn thể phối hợp tham gia phát triển VAC trong trường học để có nhiều thực phẩm sạch an toàn đủ sử dụng hàng ngày cho trẻ, tuyên truyền vận động cộng đồng nuôi trồng, sản xuất thực phẩm sạch để cung ứng cho nhà trường. Vận động các gia đình có con gửi ở trường hoặc các hộ gia đình xung quanh trường nuôi trồng thực phẩm sạch để cung ứng cho bếp ăn của nhà trường. Nghiêm túc thực hiện việc ký kết hợp đồng với các nhà cung cấp thực phẩm, bản hợp đồng có xác nhận của ban giám hiệu nhà trường, Hội phụ huynh, UBND xã, nhà cung cấp. Phối hợp với Y tế cơ sở và cơ quan quản lý nông nghiệp tuyên truyền tác hại của việc sử dụng hoá chất trong nuôi trồng sản xuất và bảo quản thực phẩm. c. Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm. Ngay từ đầu năm học, chúng tôi đã chỉ đạo nhân viên dinh dưỡng tuyệt đối không mua thực phẩm không rõ nguồn gốc, hạn dùng hoặc quá hạn (đối với những thức ăn chế biến sẵn) không mua thực phẩm đã qua sơ chế, chế biến nhưng không rõ nguồn gốc, nơi sản xuất, giấy phép đăng ký chất lượng Đặc biệt, không mua thực phẩm không đảm bảo chất lượng như rau không xanh tươi, cá thịt không tươi Cô nuôi, nhân viên nhà bếp khi tiếp nhận thực phẩm cần có sổ ghi nhận thực phẩm về định lượng và tình trạng cảm quan. Những thực phẩm bị dập nát có dấu hiệu không tươi, nghi ngờ hỏng, không đảm bảo chất lượng, không đúng với hợp đồng thì không được tiếp nhận và chế biến dùng cho trẻ. Các phẩm màu phụ gia thực phẩm không rõ nguồn gốc, không nằm trong danh mục cho phép của Bộ Y tế thì không được dùng trong trường MN. Khi giao nhận thực phẩm, ngoài cô nuôi hoặc nhân viên nhà bếp cần có đại diện của nhà trường cùng kiểm tra thực phẩm (đại diện BGH, đại diện Hội phụ huynh và giáo viên trên lớp). Khâu bảo quản lưu giữ tại kho và tủ lạnh của bếp ăn nhà trường cần đảm bảo vệ sinh, không để thực phẩm quá hạn, ẩm mốc, kém chất lượng. Các hộp 11
  4. đựng hoặc chai, lọ đựng gia vị, thực phẩm phải có nhãn tên, không cất giữ chung với các loại hoá chất diệt côn trùng, xà phòng, xăng dầu hỏa với kho thực phẩm. d. Yêu cầu trong chế biến và bảo quản thực phẩm. Chế biến thực phẩm phải đảm bảo chất lượng ngon, đẹp, phù hợp với trẻ, đảm bảo an toàn. Thức ăn phải được chế biến nấu chín kỹ, nấu xong cho trẻ ăn ngay. Thực hiện nghiêm túc quy định về lưu mẫu thức ăn. Hàng ngày, nhà bếp lưu mẫu thức ăn theo đúng quy định 24 h. Mẫu thức ăn phải được lấy khi vừa nấu xong chuẩn bị chia ăn cho trẻ. Hộp đựng mẫu thức ăn được rửa sạch và nhúng nước sôi sát trùng trước khi đưa thức ăn vào lưu giữ. Thức ăn lấy mẫu cho vào hộp đậy nắp, để 15-20p cho nguội và ghi thời gian lưu và hủy vào hộp sau đó đưa vào lưu giữ trong tủ lạnh hoặc nơi thoáng mát sau 24 h mới bỏ đi. Lưu mẫu thức ăn đã chế biến chín (lưu cả cơm và thức ăn), không lưu mẫu thức ăn sống. Dụng cụ lưu mẫu thức ăn nên có 2 bộ dùng thay nhau để đảm bảo vệ sinh. 2.2.3. Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng, dụng cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường. + Vệ sinh khu vực bếp: Trong nhà bếp đảm bảo: Cửa đưa thực phẩm tươi sống - sơ chế thực phẩm - tinh chế thực phẩm - bếp nấu - phân chia thức ăn chín - cửa vận chuyển thức ăn chín lên các nhóm lớp. Thực hiện nguyên tắc bếp một chiều nhằm tránh không để thực phẩm sống, chưa làm sạch và thức ăn chín, sạch chung một lối đi. Sắp xếp vị trí các khu vực sao cho thuận tiện, gọn gàng để tránh lúc nấu nướng phải đứng lên, ngồi xuống hoặc đi lại nhiều lần, đồng thời tránh được các loại côn trùng, chuột vào bếp. Các khu vực hoạt động của bếp phải có biển đề rõ ràng: Nơi tiếp nhận thực phẩm, khu sơ chế thực phẩm, khu tinh chế, khu nấu chín, khu chế biến thực phẩm chín, khu chia ăn. Nhà bếp phải có bảng phân công trong ngày: Người nấu chính, người nấu phụ, người tiếp phẩm, sơ chế thực phẩm, vệ sinh dụng cụ, tham gia chăm sóc giờ ăn tại lớp. Bếp ăn phải có bảng thực đơn theo tuần, bảng định lượng suất ăn hàng ngày và công khai tài chính. 12
  5. Phải thực hiện nghiêm túc việc tính khẩu phần ăn cho trẻ. Tính khẩu phần dự toán và khẩu phần thực tế trong ngày. Phải thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh nhà bếp theo lịch hàng ngày, tuần và tháng. Hàng ngày, khi nấu nướng xong phải dọn dẹp, sắp xếp đồ dùng, dụng cụ vào đúng nơi quy định, lau chùi quét dọn sạch sẽ, mở quạt thông gió, mở các cửa sổ để thông gió cho khô, thoáng nhà bếp trước khi đóng cửa ra về. + Vệ sinh đồ dùng, dụng cụ nhà bếp: Chén bát và nơi để thức ăn phải thoáng có lưới để ngăn không cho ruồi, nhặng, muỗi, chuột đậu hoặc ăn vào. Chén bát hàng ngày phải được lau sạch, chỗ úp bát trẻ phải khô ráo, không úp trực tiếp xuống bàn hoặc xuống tủ. Bát thìa của trẻ nên dùng bằng inox, không dùng loại nhựa tái sinh và phải được hấp tráng nước sôi trước khi ăn. Phải có dụng cụ chế biến thức ăn sống, chín riêng, dụng cụ dùng xong phải được rửa sạch phơi khô, trước khi dùng phải rửa lại. Bát, dĩa, đũa, thìa phải được rửa sạch giữ khô, ống đựng thìa đũa phải thoáng khô sạch. Các dụng cụ như soong, nồi phải được rửa sạch, sau đó treo cất đúng nơi quy định. Thức ăn đã được nấu chín được chia vào các dụng cụ bằng inox, không dùng loại nhựa tái sinh, có nắp đậy hoặc phải có lòng bàn tránh ruồi nhặng bâu vào nhiễm bẩn, tuyệt đối không dùng vải để che đậy, phủ trực tiếp lên thức ăn. Chậu rửa, giá kệ úp dụng cụ: rổ rá, thớt, soong nồi phải được kê cao ráo, thông thoáng và thoát nước. Bàn chế biến và chia thức ăn nên làm bằng inox hoặc đá sạch để không thấm nước và dể cọ rửa. + Vệ sinh môi trường Rác và thức ăn hàng ngày phải đổ vào đúng nơi quy định, rác ngày nào phải xử lý ngày đó không để đến hôm sau mới xử lý gây mất vệ sinh và thu hút chuột, dán tới. Thùng rác phải có nắp đậy, không để rơi vãi ra xung quanh và nước thải rò rỉ ra ngoài, rác thải để xa nơi chế biến. Cống rảnh khu vực sân rửa thực phẩm, nhà bếp phải được thông thoáng, không ứ đọng. 13
  6. Có đủ nước sạch để phục vụ chế biến thức ăn và vệ sinh trong trường, lớp mầm non. Nếu dùng nước giếng, bể chứa thì phải có nắp đậy, miệng bể phải cách mặt đất 1m để không ô nhiễm từ bên ngoài vào. 2.2.4. Tăng cường các hoạt động giáo dục vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp, giáo viên, cô phụ tại lớp và vệ sinh cá nhân cho trẻ. Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng. Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của BGH, tổ chuyên môn đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng, đặc biết chú trọng việc kiểm tra Vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường. + Vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp. Cô nuôi và nhân viên nhà bếp phải được học hoặc bồi dưỡng những kiến thức về vệ sinh an toàn thực phẩm, nắm vững trách nhiệm của mình là phải đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khoẻ mạnh và an toàn. Cần thực hiện nghiêm túc khâu vệ sinh cá nhân trong quá trình chế biến ăn cho trẻ, mặc quần áo công tác, đầu tóc gọn gàng, móng tay, móng chân cắt ngắn, sạch sẽ, rửa tay bằng xà phòng trước và sau khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi tay bẩn, sau khi đi vệ sinh, qua mỗi công đoạn chế biến. Có khăn lau tay riêng và được giặt phơi khô hàng ngày. Phải tuân thủ đúng quy trình sử dụng dụng cụ chế biến thức ăn theo một chiều, không tuỳ tiện sử dụng đồ dùng, dụng cụ đựng, chế biến thực phẩm sống, chín lẫn lộn. Không được ho, khạc nhổ khi chế biến thức ăn cho trẻ, khi nếm thức ăn còn thừa phải đổ đi. Khi chia ăn cho trẻ phải đeo khẩu trang và chia bằng dụng cụ, không dùng tay bốc, chia thức ăn. Thực hiện nghiêm túc việc cân, đoong chia thức ăn cho trẻ đảm bảo định lượng. Cô nuôi, nhân viên nhà bếp 6 tháng phải khám sức khoẻ định kỳ, được bố trí nơi thay quần áo và vệ sinh riêng, không dùng chung với khu chế biến thức ăn cho trẻ. + Vệ sinh cá nhân đối với giáo viên và cô phụ tại lớp. Rửa tay bằng xà phòng trước khi chia ăn và cho trẻ ăn, sau khi đi vệ sinh. Đầu tóc, quần áo gọn gàng, đeo khẩu trang khi chia thức ăn và cho trẻ ăn, có dụng cụ chia thức ăn riêng, không dùng tay bốc. Chuẩn bị đủ bàn ghế, khăn ướt lau tay, dĩa đựng thức ăn rơi vãi cho trẻ. Định kỳ 6 tháng cũng khám sức khoẻ có xét nghiệm như cô nuôi. 14
  7. + Vệ sinh cá nhân trẻ. Chỉ đạo các lớp thực hiện nghiêm túc chế độ sinh hoạt trong ngày phù hợp với từng độ tuổi, chú trọng công tác chăm sóc nuôi dưỡng và các thời điểm vệ sinh cho trẻ. Trẻ được rửa tay trước khi ăn bằng xà phòng dưới vòi nước chảy, rửa xong lau khô. Dạy trẻ biết rửa tay sau khi đi vệ sinh và khi tay bẩn, nhắc nhở cha mẹ trẻ hàng tuần cắt móng tay, móng chân cho trẻ. Dạy trẻ có thói quan biết giữ vệ sinh ăn uống: ăn chín, uống sôi, ăn chậm, nhai kỹ, ăn uống từ tốn, tránh rơi vãi, khi thức ăn rơi vãi nhặt bỏ vào nơi quy định. Trẻ ăn xong biết đánh răng, súc miệng sạch sẽ, uống nước. Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh. Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát của BGH, đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng đặc biệt chú trọng việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường. Hướng dẫn, chỉ đạo nhân viên y tế thực hiện nghiêm túc việc theo dõi sức khoẻ bằng biểu đồ phát triển. Thực hiện nghiêm túc việc chuyển biểu đồ cho trẻ theo từng độ tuổi tức là theo dõi liên tục (nhà trẻ – mẫu giáo bé – mẫu giáo nhỡ – mẫu giáo lớn). Thực hiện đúng tin thần của cuộc vận động “Hai không” với 4 nội dung. Quản lý tiêm chủng dịch, giám sát dịch bệnh trong nhà trường . Giáo viên nắm vững lịch tiêm chủng hiện nay của 10 vác xin, kế hoạch tiêm phòng Sởi mũi II, giáo viên nắm vững việc giám sát các bệnh truyền nhiễm trong chương trình tiêm chủng Quốc gia. Nắm bắt nhanh những thông tin dịch bệnh mới để có biện pháp phòng tránh kịp thời cho trẻ. Chỉ đạo, hướng dẫn các cụm trường thực hiện nghiêm túc việc phân công phần hành phụ trách mảng chăm sóc nuôi dưỡng (phụ trách bán trú theo từng cụm trường). Tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra thường xuyên việc chăm sóc nuôi dưỡng trẻ, đặc biệt chú trọng việc kiểm tra công tác tiếp phẩm, chế biến, chia ăn, tổ chức cho trẻ ăn, vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm. Hàng tháng có nhận xét ưu điểm, tồn tại và nói rõ hướng khắc phục tồn tại cho giáo viên dinh dưỡng và giáo viên phụ trách lớp. Ban giám hiệu nhà trường, đặc biệt là Phó hiệu trưởng phụ trách công tác bán trú đã xây dựng kế hoạch về công tác chăm sóc nuôi dưỡng, tích cực chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện công tác chăm sóc nuôi dưỡng, chú trọng đến vấn đề Vệ sinh an toàn thực phẩm xuyên suốt cả năm học. Đầu 15
  8. năm học chúng tôi đã có 1 đợt kiểm tra khảo và đã đánh giá công tác tổ chức bán trú ở trong nhà trường. Định kỳ hàng tháng chúng tôi đều có kiểm tra toàn diện và chuyên đề , kiểm tra đột xuất việc thực hiện nhiệm vụ năm học, trong đó có nội dung về công tác chăm sóc nuôi dưỡng. Sau các đợt kiểm tra chúng tôi đều có đánh giá những ưu điểm, tồn tại vào trong các cuộc sinh hoạt chuyên môn để tiếp tục khắc phục, sửa chữa. 2.2.5. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền đối với các ban ngành và phụ huynh. Vào đầu năm học, nhà trường đã làm tốt công tác tuyên truyền với các ban ngành địa phương và phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ, thông qua những hình thức như: Tờ rơi, các buổi họp phụ huynh, các hội thi, qua góc tuyên truyền giáo dục các bậc cha mẹ của lớp và nhà trường. Phối hợp với các ban ngành và phụ huynh để triển khai các công văn khẩn cấp của Trung ương, địa phương về dịch bệnh theo mùa, tuyên truyền tháng vệ sinh an toàn thực phẩm. Chỉ đạo, hướng dẫn các lớp làm tốt công tác phối hợp với các ban ngành địa phương và phụ huynh để giám sát công tác chăm sóc giáo dục trẻ của nhà trường, đặc biệt là giám sát quy trình chế biến và chất lượng bửa ăn của trẻ. 3. KẾT LUẬN 3.1. Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI, SÁNG KIẾN, GIẢI PHÁP Sức khỏe vô cùng quan trọng đối với con người, nếu không có sức khỏe thì cơ thể chậm phát triển và sinh ra nhiều bệnh tật. Sức khỏe phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố và quan trọng nhất vẫn là yếu tố dinh dưỡng. Trong đó công tác vệ sinh an toàn thực phẩm có vai trò quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến trẻ. Việc nâng cao chất lượng đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho trẻ ở trường mầm non là mối quan tâm lớn của các bậc phụ huynh và xã hội. Vai trò của nhân viên dinh dưỡng và giáo viên có trách nhiệm rất lớn trong việc tổ chức bán trú cho trẻ. Vì vậy đòi hỏi nhân viên dinh dưỡng luôn luôn năng động, sáng tạo, linh hoạt, biết vận dụng những kiến thức về dinh dưỡng như; Lựa chọn thực phẩm, vệ sinh an toàn thực phẩm, quá trình chế biến, vệ sinh 16
  9. chế biến để đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm giúp cho cơ thể trẻ phát triển một cách toàn diện. Chính vì vậy, vai trò của người cán bộ quản lý là bằng nhiều biện pháp tích cực và cụ thể để chỉ đạo đội ngũ giáo viên, nhân viên thực hiện tốt công tác chăm sóc giáo dục trẻ trong trường mầm non để đạt được hiệu quả là trẻ khoẻ mạnh, thông minh, hồn nhiên, tích cực tham gia các hoạt động giáo dục, nắm chắc các kiến thức kỹ năng theo yêu cầu phát triển của từng độ tuổi, nâng cao chất lượng giáo dục trẻ lớn lên trở thành những chủ nhân tương lai đầy tài năng góp phần thực hiện Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa đất nước. Vậy, để làm tốt công tác chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục trẻ ở trường Mầm non thì việc làm đầu tiên là: - Bồi dưỡng kiến thức thực hành dinh dưỡng, thực hiện tốt vệ sinh an toàn thực phẩm, vệ sinh trong chế biến cho đội ngũ cán bộ giáo viên, vệ sinh trong ăn uống cho trẻ. - Chỉ đạo toàn trường thực hiện tốt các nội dung sau: + Đầu tư đầy đủ cơ sở vật chất, trang thiết bị đồ dùng phục vụ cho việc tổ chức bán trú. + Tạo nguồn thực phẩm sạch. + Thực hiện tốt công tác tiếp phẩm và giao nhận thực phẩm. + Yêu cầu trong chế biến và bảo quản thực phẩm. - Chú trọng công tác vệ sinh khu vực bếp, đồ dùng, dụng cụ nhà bếp và vệ sinh môi trường. - Tăng cường các hoạt động giáo dục vệ sinh đối với cô nuôi, nhân viên nhà bếp, giáo viên, cô phụ tại lớp và vệ sinh cá nhân cho trẻ. Thực hiện tốt việc theo dõi biểu đồ, khám sức khoẻ, quản lý công tác tiêm chủng mở rộng, phòng chống dịch bệnh, tăng cường công tác chỉ đạo, hướng dẫn, giám sát, kiểm tra của BGH, đối với công tác chăm sóc nuôi dưỡng - giáo dục, đặc biệt chú trọng việc kiểm tra vệ sinh an toàn thực phẩm trong trường MN. - Đẩy mạnh công tác tuyên truyền với cộng đồng và xã hội về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ trong trường MN. Công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ MN có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và phát triển về thể chất, tình cảm, trí tuệ, thẩm mỹ , hình thành những yếu tố đầu tiên của nhân cách con người mới xã 17
  10. hội chủ nghĩa, chuẩn bị đầy đủ mọi điều kiện giúp trẻ bước vào lớp 1 trường Tiểu học. Một trong những nội dung giúp trẻ có được các điều kiện trên đó là công tác chăm sóc nuôi dưỡng trẻ trong trường mầm non. Cô nuôi và nhân viên nhà bếp phải nắm vững trách nhiệm của mình là đảm bảo nuôi dưỡng trẻ khoẻ mạnh và an toàn. Chính vì vậy mà trong năm học qua bản thân đã tích cực tham mưu với lãnh đạo nhà trường triển khai một số hoạt động, biện pháp nhằm đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm trong nhà trường. Các hoạt động bước đầu đã mang lại một số kết quả đáng phấn khởi như: Đã nâng cao được nhận thức của các ban ngành địa phương, phụ huynh về công tác chăm sóc nuôi dưỡng và giáo dục trẻ. Nhà trường làm tốt công tác tham mưu với các ban ngành địa phương để tăng trưởng cơ sở vật chất cho nhà trường (xây mới phòng học, tu sửa nhà bếp, công trình vệ sinh, nguồn nước sạch, mua sắm trang thiết bị phục vụ cho việc tổ chức bán trú). Chất lượng chăm sóc nuôi dưỡng trẻ được nâng lên một bước, tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng giảm so với đầu năm học, quy trình hợp đồng thực phẩm, tiếp phẩm, chế biến, chia ăn, lưu mẫu thức ăn, công tác vệ sinh được thực hiện khá nghiêm túc. Công tác bán trú ở trường đã đi vào nề nếp và khuôn khổ, là địa chỉ bán trú đáng tin cậy cho các bậc phụ huynh. Trên đây, là sáng kiến cải tiến kỹ thuật của bản thân, những gì đạt được còn rất khiêm tốn và mới chỉ là nền tảng cho những năm tiếp theo. Rất mong nhận được sự góp ý, nhận xét của Hội đồng khoa học nhà trường - Phòng GD- ĐT Lệ Thủy và đồng chí đồng nghiệp để bản thân có được những kinh nghiệm quý báu giúp cho việc chỉ đạo chuyên môn trong nhà trường ngày càng tốt hơn. Xin chân thành cảm ơn! XÁC NHẬN CỦA HỘI ĐỒNG KHOA HỌC NHÀ TRƯỜNG 18