Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi nói đúng ngữ pháp Tiếng Việt

doc 23 trang thulinhhd34 9405
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi nói đúng ngữ pháp Tiếng Việt", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_day_tre_mau_giao_4_5.doc

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp dạy trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi nói đúng ngữ pháp Tiếng Việt

  1. Câu 2: Mặc dù Lão nhà giàu nhiều thóc, nhiều tiền nhưng tính tình lại rất keo kiệt. Câu 3: Bởi vì lão rất sợ phải trả tiền công cày cho anh nông dân cho nên lão suy tính ngày đêm. Trong quá trình kể mẫu cho trẻ, tôi luôn chú ý tập trung vào các mẫu câu này và khi cho trẻ kể lại truyện, tôi cũng chú ý để sửa cho trẻ khi trẻ dùng sai mẫu câu. d. Biện pháp 4: Thực hành giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mục đích của các biện pháp nêu trên đều phải đưa đến việc trẻ tham gia vào nói năng, giao tiếp (Thực hành ngôn ngữ). Vậy giao tiếp là gì? Giao tiếp là sự chia sẻ ý nghĩ, tình cảm thông tin với một hoặc nhiều người. Trong giao tiếp, chúng ta thường sử dụng lời nói để biểu đạt ý nghĩ của mình và để trao đổi thông tin với người khác. Chính vì vậy, qua quá trình giao tiếp trẻ được học, được rèn luyện nói các mẫu câu, điều đó tác động rất lớn tới việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt. Biện pháp cho trẻ thực hành giao tiếp bằng ngôn ngữ đã thoả mãn một nhu cầu rất lớn của trẻ mầm non đó là trẻ được “học bằng chơi, chơi mà học”. Trẻ học các mẫu câu mà như được chơi và khi chơi trẻ cũng học được các mẫu câu. Thực hành giao tiếp bằng ngôn ngữ có tác động rất lớn đến việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt bởi vì qua giao tiếp sẽ tạo điều kiện cho trẻ được nói những mẫu câu khác nhau. Cho nên cô giáo cần phải ra tình huống để cho trẻ được tiếp xúc trò chuyện với cô giáo, các bạn và những người xung quanh. Trong quá trình giao tiếp với trẻ cô giáo phải luôn chú ý lắng nghe trẻ nói để biết được cách thức sử dụng các mẫu câu của trẻ và từ đó có sự động viên khuyến khích trẻ và uốn nắn kịp thời. Trong quá trình dạy trẻ tôi luôn chú ý tạo điều kiện để mỗi đứa trẻ đều được tham gia vào hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, thực hiện các bài tập, các yêu cầu của cô giáo như: Thường xuyên tổ chức trò chuyện với trẻ và tổ chức cho trẻ nói chuyện với nhau về theo đề tài đã định hoặc theo nhu cầu hứng thú của trẻ trong mọi hoạt động, ở mọi lúc mọi nơi. Ví dụ: Chủ đề: Phương tiện và luật lệ giao thông. Trong giờ đón trẻ, tôi và trẻ cùng trò chuyện về chủ đề: + Hôm nay, ai đưa con đi học? + Mẹ đưa con đi học bằng phương tiện gì? + Khi ngồi trên xe máy con phải chấp hành như thế nào? + Trên đường đi học con còn nhìn thấy những gì? . Thực hành giao tiếp bằng cách kể chuyện, kể lại những gì trẻ đã biết, đã thu nhận được sẽ tạo điều kiện để trẻ nói các loại câu khác nhau, rèn luyện khả năng phát âm, dùng từ, diễn đạt ý muốn một cách tốt nhất. Chính vì vậy trong quá trình chăm sóc và giáo dục trẻ tôi luôn khuyến khích thu hút trẻ tham gia 14
  2. vào các hoạt động kể chuyện theo tranh, theo đồ chơi, kể chuyện theo kinh nghiệm, kể chuyện nối tiếp theo chuyện kể của cô, kể chuyện theo chủ đề Mặt khác, Trong quá trình giao tiếp trẻ mầm non thường mắc lỗi sử dụng các câu thiếu thành phần hạt nhân (câu què, cụt, nói trống không). Tuỳ thuộc vào từng tình huống cụ thể mà tôi sửa sai cho trẻ kịp thời giúp trẻ nói đủ câu, một cách tự nhiên; không bắt trẻ phải nói một cách cứng nhắc làm cho sự giao tiếp nặng nề, thiếu tự nhiên. Trẻ nói sai mẫu câu nào, tôi sửa tại chỗ cho trẻ. Bên cạnh đó tôi còn dùng các bài tập đưa vào đó các mẫu câu chuẩn để tập cho trẻ sử dụng. Ví dụ: Trò chơi: Ai nhanh hơn Cô nói chưa đủ câu yêu cầu trẻ nói tiếp: Cô và cùng đi chơi ở Con chim hót . Con gáy vang vào buổi . Một lỗi sai thường gặp khác ở trẻ đó là: Trật tự từ sai, diễn đạt không chặt chẽ do không biết dùng quan hệ từ, chính vì vậy cần phải hướng dẫn trẻ cách sắp xếp và sử dụng quan hệ từ. Ví dụ: Nam trêu Ngọc, Ngọc khóc nhè. sửa lại: Vì Nam trêu Ngọc nên Ngọc khóc nhè. Lỗi sai phổ biến trong câu nói của trẻ đó là câu thiếu thành phần chính: Để sửa lỗi này tôi sẽ đặt câu hỏi về thành phần thiếu, sau khi trẻ trả lời, tôi giúp trẻ nói câu đủ thành phần. Ví dụ: Cô hỏi: Bạn Nam đang làm gì? Trẻ trả lời: đang đá bóng. (Câu thiếu chủ ngữ) Cô hỏi lại: Ai đang đá bóng? Trẻ trả lời: Bạn Nam đang đá bóng. (Câu đơn đầy đủ thành phần) Bên cạnh đó tôi thường xuyên tổ chức cho trẻ hoạt động theo nhóm, tạo điều kiện cho trẻ được tham gia chơi cùng bạn bè trong lớp. Đây là cơ hội tốt cho trẻ được trò chuyện cùng với các bạn, phát triển khả năng giao tiếp, khả năng sử dụng các mẫu câu trong quá trình giao tiếp. Từ đó trẻ sớm học được cách truyền tải những suy nghĩ, tình cảm của mình với bạn. e. Biện pháp 5: Giáo viên tự rèn luyện ngôn ngữ của mình thật chính xác và trong sáng. Đây là biện pháp quan trọng không kém việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt, bởi vì trẻ mầm non học chủ yếu là bắt chước và chịu ảnh hưởng cực lớn từ giáo viên. Môi trường giao tiếp sư phạm trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tạo tiền đề vững chắc, giúp trẻ hiểu được nghĩa của từ và ghép thành câu một cách thuận lợi đầy đủ thành phần. Đa số giáo viên cũng đã chú ý về ngôn ngữ của mình như nói năng nhẹ nhàng, gần gũi với trẻ nhưng hầu hết các giáo viên chưa chú ý đến việc sử dụng các mẫu đầy đủ và đa dạng, một số giáo viên còn nói câu thiếu thành phần chính 15
  3. trước mặt trẻ điều đó đã làm ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển ngôn ngữ của trẻ. Chính vì vậy tôi luôn tích cực tham khảo tài liệu, học hỏi kinh nghiệm, trau dồi ngôn ngữ của mình, tránh nói ngọng, phát âm sai, nói tục nói bậy trước mặt trẻ, tránh sử dụng những câu què, câu cụt, câu không có đủ các thành phần câu, tránh nói ngọng, nói lắp Trong quá trình giao tiếp với trẻ tôi thường xuyên sử dụng loại ngôn ngữ biểu cảm, nói năng nhẹ nhàng, rõ ràng, dễ nghe và đúng. Tôi luôn tự rèn luyện cho mình khả năng giao tiếp thật sự gần gũi, thân thiện với trẻ bằng ánh mắt, nụ cười và nhìn thẳng vào trẻ khi giao tiếp. Giành thời gian cho trẻ suy nghĩ suy nghĩ về những điều mà trẻ muốn nói, không ngắt lời trẻ, không thúc giục trẻ nói nhanh và luôn lắng nghe những gì trẻ nói. g. Biện pháp 6: Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là đưa các phương tiện và công cụ kỹ thuật hiện đại- chủ yếu là máy tính, máy chiếu, bảng điện tử thông minh vào trong quá trình dạy trẻ, nhằm mục đích hình thành và rèn luyện các mô hình câu cho trẻ. Phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin trong giáo dục mầm non tạo ra một môi trường dạy học tương tác cao, sống động, hứng thú và đạt hiệu quả cao của quá trình dạy học đa giác quan cho trẻ. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp không những tạo ra cho trẻ một môi trường hoạt động hấp dẫn, phong phú, giúp cho quá trình học ngữ pháp tiếng việt của trẻ dễ dàng hơn mà còn giúp trẻ phát triển những kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin như sử dụng con chuột, bàn phím Ứng dụng công nghệ thông tin có thể sử dụng được trong các hoạt động học có chủ đích, hoạt động góc, để biện pháp này đạt hiệu quả tối ưu thì nhiệm vụ của người giáo viên là rất quan trọng. Giáo viên cần lựa chọn nội dung, hình ảnh đưa vào bài dạy cho phù hợp. Tuỳ vào từng mục đích, nội dung của hoạt động mà giáo viên xác định đưa ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động nào và vào thời điểm nào là tốt nhất: có thể đưa vào ngay lúc đầu hoạt động hoặc giữa hay vào cuối hoạt động. Tuy nhiên việc dạy trẻ nói đúng mẫu câu thì ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng chủ yếu vào phần chơi các trò chơi ôn luyện, củng cố. Chính vì vậy, tôi tích cực nghiên cứu các phần mền giáo dục như kidsmart, kidpix, Powerpoint, Converter, Photoshop, để thiết kế các bài giảng, các trò chơi phù hợp với yêu cầu để dạy trẻ. Ví dụ: Ứng dụng từ phần mềm vui học kidmart, Happykid tôi đã thiết kế ra trò chơi: Bé vui sáng tạo. 16
  4. Cách chơi: Trên slide 1: Có một số hình ảnh như: Phía dưới hình ảnh xuất hiện dòng chữ: “Hôm nay, đi chơi”. Kết hợp với lồng tiếng: “Hôm nay, đi chơi”. Yêu cầu với trẻ là chọn hình ảnh búp bê (hoặc voi, thỏ). Khi trẻ chọn sẽ xuất hiện câu hoàn chỉnh, kết hợp với tiếng nói: “Hôm nay, búp bê đi chơi” (tương ứng giữa lời nói với hình ảnh). Trẻ nhắc lại câu hoàn chỉnh. Trên slide 2: Hình ảnh: Phía dưới hình ảnh xuất hiện chữ và tiếng nói: “Búp bê đi chơi bằng .”. Trẻ chọn phương tiện mà mình thích như: ô tô. Khi trẻ chọn sẽ xuất hiện câu hoàn chỉnh và tiếng nói: “Búp bê đi chơi bằng . Trẻ nhắc lại câu hoàn chỉnh “Búp bê đi chơi bằng thuyền buồm”. Tương tự như vậy ở các slide tiếp theo trẻ sẽ học được những câu khác như: Búp bê đi đến công viên. Ở công viên, Búp bê thích chơi đá bóng Bên cạnh đó tôi đã ứng dụng công nghệ thông tin có hiệu quả vào các hoạt động nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ như hoạt động cho trẻ làm quen với thơ, truyện. Ngoài việc sử dụng hình ảnh, video để đọc thơ, kể chuyện cho trẻ nghe tôi còn sử dụng hình ảnh trong quá trình dạy trẻ đọc thơ. Ví dụ: Bài thơ: Chiếc cầu mới Tôi sử dụng công nghệ thông tin ngay trong quá trình dạy trẻ đọc thơ như tôi trình chiếu các slide có các câu thơ, kết hợp với hình ảnh để cho trẻ đọc: Chiếc cầu mới Bên dòng trắng Khách ngồi trên mới dựng lên Đoàn người đi bộ Nhân dân đi bên Cùng cười hớn hở xe chạy giữa Nhìn chiếc dài Tấm tắc khen tài Tu tu Công nhân xây dựng Xình xịch qua Sáng tác: Thái Hoàng Linh Ngoài ra để kết hợp tốt với phụ huynh trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt tôi đã quay lại những hoạt động của trẻ ở trường nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Sau đó làm thành đĩa gửi tới các bậc phụ huynh nhất là những phụ huynh có con chậm phát triển về ngôn ngữ, để từ đó giúp cho phụ huynh có những biện pháp tốt nhất chăm sóc con em mình. 17
  5. h. Biện pháp 7: Phối kết hợp cùng với phụ huynh trong việc rèn ngôn ngữ cho trẻ. Phối kết hợp chặt chẽ với phụ huynh trong việc rèn ngôn ngữ cho trẻ là rất quan trọng bởi gia đình là môi trường đầu tiên mà đứa trẻ được tiếp xúc. Chính vì vậy trẻ chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi ngôn ngữ của những người thân trong gia đình đặc biệt là người mẹ. Việc trao đổi thường xuyên với phụ huynh về vấn đề ngôn ngữ giúp phụ huynh hiểu được tầm quan trọng của việc rèn ngôn ngữ cho trẻ và biết được các biện pháp rèn ngôn ngữ cho con em có hiệu quả. Hơn nữa qua quá trình trao đổi, tiếp xúc với phụ huynh giúp cho người giáo viên mầm non hiểu được rõ hơn về hoàn cảnh gia đình cũng như về đặc điểm ngôn ngữ của trẻ ở gia đình. Từ đó, giúp giáo viên có biện pháp can thiệp kịp thời. Để công tác phối kết hợp với phụ huynh trong việc rèn ngôn ngữ cho trẻ đạt hiệu quả tối ưu thì trong khi lập kế hoạch chủ đề, kế hoạch tuần, giáo viên cần phải đưa nội dung phối hợp với gia đình trẻ vào kế hoạch, đặc biệt là nội dung phát triển về ngôn ngữ cho trẻ: Ví dụ: Chủ đề: Thế giới động vật. Tuần 1: Tôi muốn rèn cho trẻ mẫu câu ghép chính phụ: “Nếu .thì ” Trao đổi với phụ huynh về chủ đề. Cung cấp cho phụ huynh một số mẫu câu để phụ huynh về nhà cùng trò chuyện, trao đổi với trẻ . Trong kế hoạch phải thể hiện rõ được mục đích, nội dung, thời gian, biện pháp thực hiện và kết quả đạt được, những tồn tại và hướng giải quyết. Với những cháu gặp khó khăn trong vấn đề ngôn ngữ giáo viên nên cung cấp cho cha mẹ trẻ những mốc phát triển ngôn ngữ của trẻ theo độ tuổi, giải thích để cha mẹ trẻ hiểu là không nên che giấu khuyết tật của con mình và mạnh dạn trao đổi thẳng thắn những hạn chế của trẻ đồng thời đưa ra những giải pháp tư vấn giúp phụ huynh. Quá trình chăm sóc – giáo dục trẻ ở lứa tuổi mầm non mang đặc tính xã hội hoá cáo, để thực hiện có hiệu quả quyền được chăm sóc- giáo dục trẻ em ở lứa tuổi này cần thiết có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa nhà trường – gia đình. Và nội dung dạy trẻ nói đúng cấu trúc ngữ pháp tiếng việt cũng vậy, để việc dạy trẻ đạt kết quả cao thì đòi hỏi phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa trường lớp mầm non và gia đình. Nhận thức rõ được vấn đề đó tôi đã thực hiện tốt công tác phối kết hợp với phụ huynh trong quá trình giáo dục trẻ. Tôi đã xây dựng các nội dung cần kết hợp với phụ huynh đó là: Phát hiện lỗi sai và sửa lỗi sai về ngôn ngữ cho trẻ ở mọi lúc mọi nơi như nói ngọng, nói lắp, nói trống không ;Tận dụng mọi điều kiện để cho trẻ được tham gia giao tiếp, dạy trẻ nói những câu đơn giản, Bố mẹ và những người thân xung quanh tự rèn luyện ngôn ngữ của mình Hình thức tuyên truyền mà tôi thường sử dụng đó là: Trao đổi với phụ hunh trong giờ đón trả trẻ, xây dựng góc tuyên truyền trong lớp, tuyên truyền 18
  6. trong các buổi họp phụ huynh, vận động phụ huynh tham gia các phong trào hội thi như: “Bé đọc thơ kể chuyện”. Quay phim, chụp ảnh về các hoạt động phát triển ngôn ngữ của trẻ sau đó làm thành đĩa gửi tới cha mẹ trẻ 2.4. Kết quả đạt được: Sau khi tôi áp dụng một số biện pháp trên vào quá trình dạy trẻ nói đúng ngữ pháp ngay từ đầu năm học tôi thấy: Trẻ mạnh dạn, tự tin khi giao tiếp và hứng thú hơn khi tham gia hoạt động. Trẻ có nề nếp thói quen tốt trong các giờ hoạt động. Trẻ hào hứng tiếp nhận các mẫu câu một cách thoải mái, tự nhiên. Trẻ sử dụng các mẫu câu trong quá trình giao tiếp tốt hơn. a. Kết quả cụ thể: Bảng 2: Bảng kết quả khảo sát khả năng sử dụng các mẫu câu tiếng việt của trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi A, Trường mầm non Hoa Sen (Sau khi áp dụng các biện pháp mới) Câu có thành Câu theo Câu đơn Câu ghép Câu ghép phần trạng mục đích stt Họ và tên trẻ hạt nhân đẳng lập chính phụ ngữ nói. T K TB T K TB Y T K TB Y T K TB Y T K TB Y 1 Đỗ Hồng Anh x x x x x 2 Phạm Ph Anh x x x x x 3 Đặng Phú Bình x x x x x 4 NguyễnAn Bình x x x x x 5 Bùi Bảo Châu x x x x x 6 Phạm Yến Chi x x x x x 7 Ng Phương Chi x x x x x 8 Hng Ngọc Diệp x x x x x 9 Ng Thành Đạt x x x x x 10 Vũ Tiến Đạt x x x x x 11 Khổng M. Đăng x x x x x 12 Ng Thu Giang x x x x x 13 Võ Minh Hằng x x x x x 14 Bạch Hng Hải x x x x x 15 Ng Minh Hải x x x x x 16 ĐặngViệt Hùng x x x x x 17 Ng Trung Hiếu x x x x x 18 Bùi Việt Hưng x x x x x 19 Lê Minh Hoàng x x x x x 20 Quản Gia Huy x x x x x 21 Phùng Q. Huy x x x x x 19
  7. 22 Ng. Minh Hùng x x x x x 23 Dương T Huyền x x x x x 24 Ng. Bảo Khánh x x x x x 25 Ng. Ngọc Lâm x x x x x 26 Lê Mỹ Linh x x x x x 27 Vũ Hà Linh x x x x x 28 Ng. Ngọc Mai x x x x x 29 Hng Tuyết Mai x x x x x 30 Ng. Đại Minh x x x x x 31 Trần Bảo Nam x x x x x 32 Ng. Thanh Nga x x x x x 33 Ng. Quỳnh Nhi x x x x x 34 Ng Hương Trà x x x x x 35 Vũ Quang Vinh x x x x x Tổng 18 14 3 12 14 8 1 12 11 11 1 9 14 11 1 7 14 12 2 % 51 40 9 34 40 23 3 34 31 31 3 26 40 31 3 19 40 34 6 Từ bảng kết quả khảo sát khả năng sử dụng các mẫu câu tiếng việt của trẻ, tôi thấy khả năng sử dụng các mẫu câu của trẻ trong quá trình giao tiếp tiến bộ lên rõ rệt. Tỷ lệ trẻ xếp loại khá, tốt tăng lên đáng kể, tỷ lệ trẻ xếp loại trung bình và yếu chỉ còn rất ít. Trẻ mạnh dạn, tự tin trong quá trình giao tiếp, phát âm chính xác, ví dụ: Trong lớp có cháu: Vũ Hà Linh, trước đây cháu nói rất ngọng, phát âm chưa chính xác, rõ ràng những tiếng chứa thanh ngã trẻ nói thành thanh hỏi như: ngã – ngả; đổ- độ; Trẻ rất nhút nhát, thiếu tự tin trong giao tiếp vì trẻ sợ khi nói sai bị các bạn cười. Đặc biệt là khả năng sử dụng các mẫu câu ghép của trẻ rất kém, trẻ sử dụng chủ yếu là những mẫu câu đơn và những câu thiếu thành phần như: ăn cơm; Đi chơi; không thích Nhưng bây giờ trẻ rất mạnh dạn, tự tin và gần gũi, hòa đồng khi giao tiếp, trẻ không còn nói ngọng, nói trống không, trẻ biết sử dụng câu có các thành phần phụ như trạng ngữ, địa điểm. Đó là những kết quả rất tốt minh chứng cho hiệu quả của các biện pháp mà tôi đã xây dựng ở trên. Bảng 3: Bảng so sánh kết quả khảo sát. Các mô Trước khi áp dụng Sau khi áp dụng hình câu Tốt Khá TB Yếu Tốt Khá TB Yếu Câu đơn hạt 10/35=29% 13/35=37% 12/35=34% 18/35=51% 14/35=40% 3/35=9% nhân(Chủ-vị) Câu có thành phần trạng 3/35 = 9% 11/35=32% 17/35=49% 4/35=11% 12/35=34% 14/35=40% 8/35=23% 1/35=3% ngữ. Đặt câu ghép 2/35 = 6% 6/35 = 17% 15/35=43% 12/35=34% 12/35=34% 11/35=31% 11/35=31% 1/35=3% đẳng lập. 20
  8. Đặt câu ghép 1/35 = 3% 5/35 = 14% 19/35=54% 10/35=29% 9/35=26% 14/35=40% 11/35=31% 1/35=3% chính phụ. Đặt câu theo 2/35 = 6% 4/35 = 11% 20/35=57% 9/35 = 26% 7/35=19% 14/35=40% 12/35=34% 2/35=6% mục đích nói. b. Bài học kinh nghiệm. Qua quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài này, tôi rút ra được một số bài học kinh nghiệm sau: Giáo viên phải nắm vững phương pháp, biện pháp, nắm được đặc điểm tâm sinh lý theo từng giai đoạn và độ tuổi. Hệ thống câu hỏi đàm thoại phải ngắn gọn, dễ hiểu, gần gũi với kinh nghiệm sống của trẻ. Đàm thoại phải khuyến khích trẻ đưa ra câu trả lời, và hướng câu trả lời của trẻ tới mẫu câu cần dạy. Lời nói mẫu của cô phải đảm bảo chuẩn mực về cấu trúc ngữ pháp. Nhẹ nhàng thu hút được sự chú ý của trẻ. Việc lựa chọn văn bản để soạn thảo lại nên lựa chọn những tác phẩm văn học hay, hấp dẫn đối với trẻ và phù hợp với chủ đề. Trong quá trình cho trẻ thực hành giao tiếp bằng ngôn ngữ, giáo viên cần chú ý lắng nghe trẻ nói và kịp thời sửa lỗi sai trong lời nói của trẻ. Giáo viên cần nâng cao trình độ ngôn ngữ của mình, coi ngôn ngữ là phương tiện giáo dục chủ đạo Làm tốt hơn nữa công tác phối kết hợp với các bậc phụ huynh trong việc dạy trẻ nói đúng ngữ pháp tiếng việt. Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp phải được luyện tập thường xuyên, từng bước một từ dễ đến khó, dạy trẻ thông qua các mô hình câu. 21
  9. PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 3.1. Kết luận. Dạy trẻ nói đúng ngữ pháp là một nội dung vô cùng quan trọng và cần thiết trong việc phát triển lời nói cho trẻ trước tuổi đi học; nó là tổng hợp của toàn bộ nội dung lời nói cho trẻ. Mục đích của những công việc này là bước đầu hình thành cho trẻ những năng lực ngôn ngữ như nghe lời nói và phát âm, khả năng sử dụng từ ngữ, các kiểu câu trong tiếng việt và đặc biệt là dạy cho trẻ biết sử dụng các mẫu câu tiếng việt vào trong cuộc sống hàng ngày. Ngoài ra trẻ cũng được chuẩn bị một số kỹ năng đọc viết cần thiết chuẩn bị vào lớp một. Để trẻ biết sử dụng các mẫu câu một cách chuẩn xác thì cần phải có sự trợ giúp từ phía giáo viên, gia đình cùng sự tự tin cố gắng nỗ lực của bản thân trẻ. Do vây từ khi lọt lòng mẹ đến khi trẻ đi học lớp 1 là một chặng đường phát triển đầu tiên là buổi bình minh đầu tiên của cuộc đời. Đó cũng là một quãng đường có tầm quan trọng đặc biệt trong quá trình phát triển chung của trẻ như L.N Lepstonxtoi đã nhận định: “Tất cả những gì mà đứa trẻ sẽ có sau khi trưởng thành người lớn đều thu nhận được trong thời ấu thơ. Trong quãng đời còn lại, cái mà nó thu được chỉ đáng một phần trăm cái đó thôi”. Đúng vậy, ở giai đoạn này trẻ có tốc độ phát triển rất nhanh cả về thể lực, trí tuệ và đặc biệt là ngôn ngữ. Ngôn ngữ lúc này như là đôi chân để trẻ bước đi khám phá thế giới xung quanh, ở trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi có khả năng nói được rất nhiều những mẫu câu phức tạp, tuy nhiên vẫn còn có những hạn chế nhất đinh. Do vậy, giáo viên mầm non hãy là người chỉ đường dẫn lối cho trẻ phát triển đúng hướng. Chúng ta không được đốt cháy giai đoạn, càng không được bỏ lỡ cơ hội của trẻ đó là nguyên tắc vàng trong giáo dục. 3.2. Kiến nghị. Để thực hiện có hiệu quả các biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ nói chung và rèn trẻ nói đúng ngữ pháp nói riêng, tôi mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị như sau: a. Đối với nhà trường: Tạo điều kiện cho giáo viên đi tham quan học tập tại các đơn vị bạn. Trang bị thêm trang thiết bị đồ dùng dạy học hiện tại cho các nhóm lớp. Tổ chức các hội thi nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ. b. Đối với phòng giáo dục: Tổ chức các lớp tập huấn cho giáo viên về kỹ năng tổ chức các hoạt động phát triển ngôn ngữ cho trẻ. Người viết Hoàng Thị Hồng 22
  10. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Đinh Hồng Thái “Giáo trình phát triển ngôn ngữ tuổi mầm non”. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm. 2. PGS Đào Thanh Âm, Trịnh Dân, Nguyễn Thị Hòa “Giáo dục mầm non I,II, III”. Nhà xuất bản Trường Đại học Sư Phạm Hà Nội I. 3. Nguyễn Quang Uẩn- Nguyễn Văn Lũy- Đinh Văn Vang. Giáo trình “Tâm lý học đại cương”. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm. 4. Nguyễn Thị Ánh Tuyết- Nguyễn Như Mai- Đinh Thị Kim Thoa “Tâm lý học trẻ em lứa tuổi mầm non”. Nhà xuất bản Đại học Sư Phạm. 5. Chương trình nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ mẫu giáo 4-5 tuổi. 6. Hướng dẫn thực hiện kế hoạch năm học 2012-2013 của Phòng GD-ĐT Thành Phố Vĩnh Yên, Tỉnh Vĩnh Phúc. 7. Kế hoạch thực hiện nhiệm vụ năm học 2012-2013 của Trường Mầm Non Hoa Sen- Tp Vĩnh Yên- T. Vĩnh Phúc. 23