Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết tốt bài văn miêu tả

pdf 23 trang vanhoa 11425
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết tốt bài văn miêu tả", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lop_4_v.pdf

Nội dung tóm tắt: Sáng kiến kinh nghiệm Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 viết tốt bài văn miêu tả

  1. SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 VIẾT TỐT BÀI VĂN MIÊU TẢ. A. ĐẶT VẤN ĐỀ Như chúng ta đã biết, văn miêu tả là một trong những thể loại văn rất quen thuộc và phổ biến trong cuộc sống cũng như trong các tác phẩm văn học. Đây là dạng văn có tác dụng rất lớn trong việc tái hiện đời sống, hình thành và phát triển trí tưởng tượng, óc quan sát và khả năng nhận xét, đánh giá của con người. Với đặc trưng của mình, những bài văn miêu tả làm cho tâm hồn, trí tuệ người đọc thêm phong phú, giúp ta cảm nhận được văn học và cuộc sống một cách tinh tế hơn, sâu sắc hơn. Chính vì thế, văn miêu tả được đưa vào trường Tiểu học từ rất sớm ( ngay từ lớp 2). Đề tài của văn miêu tả với các em là những gì gần gũi, thân quen với thế giới trẻ thơ, các em có thể quan sát được một cách dễ dàng, cụ thể như: chiếc cặp, cái bàn, những vườn cây ăn quả mình yêu thích, những con vật nuôi trong nhà, những cảnh vật xung quanh các em, những con người thân quen với các em như bạn bè, thầy cô, người thân Vì vậy, dạy tốt phân môn Tập làm văn nói chung và kiểu bài văn miêu tả nói riêng là vấn đề được nhiều giáo viên Tiểu học quan tâm. Qua thực tế, nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi hiếm khi phát hiện thấy học sinh giỏi môn Văn. Tại sao học sinh giỏi tập làm văn lại hạn chế nhiều như vậy, trong khi Tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ của chúng ta, các em lúc chưa tròn một tuổi đã biết nói, năm, sáu tuổi đã biết đọc, đã biết viết Tiếng Việt ? Chúng ta tự hào Tiếng Việt ta phong phú, giàu hình ảnh, đa dạng về nghĩa, có sức biểu cảm sâu sắc. Nhưng một thực tế lại rất buồn vì học sinh giỏi Tiếng Việt nói chung, phân môn Tập làm văn nói riêng còn quá khiêm tốn. Khi chấm bài Tập làm văn, tôi thấy đa số học sinh đã biến các bài văn miêu tả thành văn kể, liệt kê một cách khô khan, nghèo nàn về từ, diễn đạt ý rườm rà, tối nghĩa. Cách dùng từ đặt câu chưa phù hợp, viết câu còn rời rạc, chưa liên kết, thiếu lôgíc, chưa sáng tạo. Bố cục bài văn chưa rõ
  2. ràng, cách chấm câu, cách sử dụng từ ngữ giàu hình ảnh chưa linh hoạt, chưa sinh động. Mặt khác, một số em còn phụ thuộc vào bài văn mẫu, áp dụng một cách máy móc, chưa biết sử dụng bài văn mẫu để hình thành lối hành văn riêng của mình, biến lời văn người khác thành cách diễn đạt của mình. Phần lớn các em dùng lời hướng dẫn của giáo viên để viết bài văn của mình một cách rập khuôn, máy móc. Do đó, bài văn chưa đạt hiệu quả cao. Là một giáo viên đứng lớp nhiều năm, tôi rất băn khoăn và trăn trở: Làm thế nào để giúp các em học sinh lớp 4 học tốt phân môn Tập làm văn nhất là văn miêu tả con vật ? Với những lí do trên nên tôi đã mạnh dạn chọn đề tài :“ . B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ: I. THỰC TRẠNG Qua quá trình giảng dạy cũng như qua việc dự giờ học tập chuyên môn ở các đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc dạy làm văn ở lớp 4 còn gặp một số khó khăn: 1.Về ê : - Một số giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn tập làm văn nên khi dạy còn nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung hay hình thức tổ chức một tiết dạy Tập làm văn dẫn đến hiệu quả các tiết dạy chưa cao. Điều này được thể hiện rõ qua những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường. - Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn, thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho học sinh, chưa kích thích được sự sáng tạo tìm tòi, chưa chọn từ ngữ, hình ảnh, ý của học sinh. - Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để bộc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả, thoát khỏi việc tả một cách khuôn sáo.
  3. - Giáo viên khi lên lớp còn truyền đạt “chay”, thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các em trong quá trình làm văn miêu tả. - Giáo viên chưa hướng dẫn được cho học sinh tìm ra phương pháp làm văn miêu tả thành công, bên cạnh năng lực quan sát còn cần sự liên tưởng, tưởng tượng và vận dụng năng lực của bản thân vào bài viết. - Một số giáo viên khi lên lớp chưa phát huy hết tính tự chủ đó là chưa biết thay đổi đề bài cho phù hợp với đối tượng học sinh lớp mình để học sinh dễ hiểu và cảm nhận một cách thực tế hơn. - Việc chấm và sửa bài cho các em của một số giáo viên còn chung chung, chưa sửa ý, câu hay cách dùng từ đặt câu,việc vận dụng các biện pháp nghệ thuật vào bài văn của học sinh nhằm phát huy cho học sinh khi học, làm tập làm văn. - Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn tập làm văn với các môn học khác. 2.Về : - Do khả năng tư duy của học sinh Tiểu học còn dừng lại ở mức độ tư duy đơn giản trực quan, chất lượng cảm thụ văn học của học sinh chưa đồng đều dẫn đến chất lượng làm văn chưa cao dẫn đến khi viết văn còn gặp không ít khó khăn. - Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó. - Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp, vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương nhiều, diễn đạt ý văn mà như nói chuyện bình thường. - Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái riêng của mình.
  4. - Một số em chưa biết nội dung, tác dụng của các biện pháp nghệ thuật vào bài văn dẫn đến lời văn khô khan, thiếu hình ảnh, thiếu tình cảm. - Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa mạch lạc, các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế. II. CÁC BIỆN PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ DẠY TẬP LÀM VĂN CHO HỌC SINH. Để nâng cao chất lượng làm văn cho học sinh lớp 4, đòi hỏi người giáo viên phải kiên trì và bền bỉ vì đây là một công việc rất khó khăn. Tuỳ theo nội dung yêu cầu của mỗi bài học và đối tượng học sinh mà bản thân tôi đã áp dụng linh hoạt nhóm các biện pháp, hoặc một biện pháp chủ đạo và kết hợp một số biện pháp hỗ trợ khác. ụ thể như khi dạy học sinh lớp viết b i văn mi u tả con vật, bản thân tôi đã chú trọng các biện pháp sau: 1. Bồi dưỡng và tích luỹ vốn từ. 1.1. Làm giàu vốn từ ngữ thông qua các tiết học. Từ ngữ là nhân tố cơ bản để xây dựng câu văn, đoạn văn, bài văn. Nó có một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Hiểu, sử dụng đúng, sử dụng hay mới có thể diễn đạt và diễn đạt tốt nội dung, ý kiến của mình. Vậy mà vốn từ của các em rất ít. Điều này khiến tôi suy nghĩ nhiều. Những kiến thức lơ mơ, thiếu vốn từ làm thế nào có thể viết văn hay được. Để viết được bài văn, đoạn văn hay, học sinh không chỉ cần có cảm xúc, cảm nghĩ tinh tế mà còn phải tích luỹ vốn từ phong phú, tạo câu linh hoạt và đa dạng. Cách làm nhanh nhất là thông qua môn Tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn, Nhiều bài tập đọc, Kể chuyện, Tập làm văn là bài văn hay, số lượng từ ngữ miêu tả ở các bài đó rất phong phú, sử dụng từ sáng tạo. Vì vậy khi dạy giáo viên cần chỉ ra các từ ngữ miêu tả, có thể chọn trường hợp đặc sắc nhất để phân tích cái hay, sự sáng tạo của nhà văn khi sử dụng từ. Ví dụ: Khi dạy phân môn tập đọc bài: “ D è ê ự kẻ y u” Giáo viên cần
  5. chỉ cho hs thấy những từ, cụm từ tác giả dùng để miêu tả ngoại hình của chị Nhà Trò ( ầy y u, ắ ù ù , ), hoạt động của chị (k ó ỉ ê , ứ ở , ): và miêu tả hành động của Dế Mèn như : xòe a ra, đạ a phách, Thông qua bài tập đọc trên, học sinh đã tích lũy được một số vốn từ miêu tà về ngoại hình và hành động con vật. Hay, khi dạy bài kể chuyện “ Con vịt xấu xí” tôi cho học sinh thấy được một số từ, cụm từ miêu tả như: Qu ỏ, y u , ( ngoại hình), e, ắ ạ , ắ ủ , (Hành động). Khi dạy bài: “Cấu ạ ủa m êu ” thông qua bài tập các em cũng sẽ tự tích lũy cho mình một số từ, cụm từ tả ngoại hình như: đ m, đỏ ía, xa đe , mềm mạ , (hành động) như: , a ẹ , ắ , Giáo viên cần lưu ý cho học sinh bộc lộ tình cảm, thái độ của mình đối với con vật yêu hay ghét, gắn bó hay không gắn bó Để bài viết có sức biểu đạt gần gũi hơn, học sinh cần biết liên hệ bản thân mình đã làm gì để chăm sóc con vật ? 1.2. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh : Hiện nay, trong trường học, chúng ta dạy tập làm văn nói chung và bồi dưỡng năng khiếu viết văn cho học sinh nói riêng thường thiên về các kĩ thuật làm bài mà không cung cấp các chất liệu sống, cái tạo nội dung bài viết. Thường giáo viên ra một đề bài và hướng dẫn kĩ thuật làm bài. Còn học sinh thì gắng đọc thật nhiều bài văn làm mẫu, thậm chí còn có em bê y nguyên bài văn của người khác vào bài của mình, thì được xem là bài viết khá, nghĩa là giỏi chép văn. Khi thấy một em học sinh ngồi trước một số đề văn mà không viết được, thầy cô giáo thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết thể văn nọ, thể văn kia mà không hiểu rằng các em không có hứng thú viết vì đã không tạo ra được quan hệ thân thiết giữa bản thân và đề bài - đối tượng miêu tả, nghĩa là các em không có nội dung, không có gì để nói, để viết.
  6. Vi dụ: Có một lần ,em được bố mẹ dẫn đi chơi vườn bách thú.Ở đó có rất nhiều con vật,em viết một đoạn văn tả lại con vật mà em ấn tượng. Với đề bài này chắc chắn rằng nhiều học sinh không thể viết được. Bởi vì trong thực tế nhiều học sinh chưa từng được trực tiếp đi tham quan vườn bách thú, nếu như bắt các em áp dụng kiến thức lí thuyết để làm bài thì chắc chắn rằng nhiều em sẽ khó viết thành bài văn theo đúng yêu cầu. Nguyên nhân của tình trạng không có gì để viết là do học sinh thiếu hụt vốn sống vốn cảm xúc. Vì vậy, thầy giáo cần đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em. Sau khi các em đã quan sát, làm quen với đối tượng rồi thì cần phải viết những bài cụ thể về những gì đã quan sát được. Ngoài ra giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen đọc sách. Phải làm cho học sinh thích đọc và thấy được rằng khả năng đọc là có ích cho các em suốt cả cuộc đời, thấy được đó là một trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển, sách báo sẽ giúp học sinh có vốn từ ngữ phong phú,vốn sống, tầm nhìn, hiểu biết rộng hơn, giúp các em có khả năng phát triển sức sáng tạo như người xưa nói " Trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt chưa có núi sông kì lạ của thiên hạ thì chưa học được văn". Định hướng cho học sinh lựa chọn sách báo để đọc, đọc nhiều không có nghĩa là đọc một cách không chọn lọc. ần chọn những sách như thế nào ? Thầy giáo cần giáo dục thái độ đọc cho các em. Kiên trì, chịu khó không chỉ đọc để giải trí, mà đọc phải có suy nghĩ, liên hệ, rút ra những bài học bổ ích, ghi chép, thu hoạch về nội dung, nghệ thuật, về những điểm nổi bật, gây ấn tượng còn đọng lại trong tâm trí mình vào cuốn sổ tích luỹ. 1.3. Xây dựng phong trào tích luỹ vốn từ Để tăng cường việc tích cực học tập cho các em trong phân môn Tập làm văn đòi hỏi giáo viên phải chuẩn bị tốt, đặc biệt là về việc thu thập từ theo chủ
  7. điểm liên quan đến nội dung bài học hàng tuần, giáo viên cần tăng cường nhiều hình thức khen thưởng để khuyến khích các em tích cực tìm được nhiều từ bằng cách: - Đầu tuần tôi phát động phong trào thi đua thu thập từ, cụm từ miêu tả giàu hình ảnh. - uối tuần tôi tổ chức cho học sinh báo cáo kết quả mình thu thập được bằng nhiều hình thức như: trò chơi, hái hoa học tập, - Khen thưởng cho những em thu thập được nhiều từ, cụm từ liên quan đến phân môn tập làm văn của tuần: Tặng 3 - 2 - 1 bông hoa học tốt theo số lượng từ mà các em thu thập được. Sau đó tổng kết số bông hoa, chọn học sinh có nhiều bông hoa học tốt để khen vào tiết sinh hoạt lớp cuối tuần. 2. Sử dụng vốn từ để viết câu văn đoạn văn. 2.1. Bồi dưỡng cho các em cách d ng từ, đ c bi t là cách d ng từ gợi âm thanh và từ gợi hình ảnh trong văn miêu tả con vật. Như chúng ta đã thấy vốn sống, tầm hiểu biết của các m chưa phong phú, các m đang trong quá tr nh t m hiểu, cảm nhận thế giới xung quanh. Từ các chi tiết quan sát được, học sinh cũng chưa biết chọn lọc từ ngữ gợi hình, gợi cảm để vận dụng vào bài viết một cách linh hoạt, sáng tạo. Hầu hết, b i văn mi u tả của các m còn thi n về kể lại sự vật, kh khan thiếu h nh ảnh. Bởi vậy để giúp các m biết d ng từ đúng v hay, t i sử dụng các phương pháp sau đây: Dạy tốt các dạng bài ôn tập từ, đặc biệt là từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, (để các em thay thế tránh tình trạng lặp từ). Ví dụ: Tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh, từ đồng nghĩa để gợi tả con vật: + Từ gợi âm thanh: ủ ỉ , ì ò, ké kè e e, ạ , + Từ gợi hình ảnh: k k ạ , rò , Ngoài ra bản thân tôi còn hướng dẫn các em sưu tầm các bài văn miêu tả, các bài thơ, các tác phẩm văn xuôi như truyện ngắn, tùy bút, phóng sự, hay yêu cầu học
  8. sinh tìm những từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh có trong đoạn văn, trong tác phẩm đó. Ví dụ: Hãy tìm từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh miêu tả trong đoạn văn sau: “ Mùa xuân cây gạo gọi đến bao nhiêu là chim đàn đàn, lũ lũ bay đi, bay về ” (Bài cây gạo – sách Tiếng Vi t lớp 3) Ví dụ : Em hãy tìm những từ gợi âm thanh trong đoạn văn sau: Bầy gia cầm nhà bác Tám đang cho ăn giữa sân trông thật nhộn nhịp. Hàng chục chú gà con mới nở hơn tuần lễ lích nhích tranh nhau ăn hạt tấm bác tung ra. Ba con gà mái lại cục cục liên hồi, gọi con mình, chỉ mồi cho chúng. Một chú gà trống bống đâu nổi hứng vỗ cánh phành phạch vươn cổ Kéc Kè ke một hồi dài nhưng chẳng ai buồn để ý. Ở góc sân phía xa, mấy anh chàng vịt đang thời vỗ béo, cất giọng quạc quạc một cách uể oải ý chừng no mồi rồi nên không quan tâm đến lũ gà đang tíu tít đằng kia. (Sưu tầm). Mục đích của kiểu bài này không chỉ đơn thuần yêu cầu học sinh xác định được từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh mà qua đó giúp các em thấy được giá trị, tác dụng của các từ tượng thanh, tượng hình trong văn miêu tả, qua đoạn văn này các em học được cách miêu tả đối với dạng đề tả con vật. Ngoài ra còn giúp các em biết phân chia từ gợi âm thanh, gợi hình ảnh phù hợp với từng con vật. Do vậy trước khi chọn con vật để miêu tả bước đầu giáo viên nên giúp các em hình dung xem có những từ ngữ gợi âm thanh, gợi hình ảnh nào phù hợp với con vật mà mình định tả không ? Sau khi các em đã có kỹ năng nhuần nhuyễn thì việc áp dụng vào các bài viết khác sẽ dễ dàng hơn. 2.2. Giúp các em biết sử dụng từ đúng và hay: Để viết được đoạn văn, bài văn miêu tả hay, các em cần có vốn từ và biết cách sử dụng từ đúng lúc, đúng chỗ, biết dựa vào từ để tạo ra cái mới, cái riêng, cái độc đáo trong bài mình viết. Chính vì vậy mà các em phải dùng từ đúng và dùng từ
  9. hay. Ví dụ: Cách dùng từ miêu tả âm thanh của các con vật trong bài: “Buổi sáng m a hè trong thung lũng”. Rừng núi còn chìm đắm trong màn đ m. Trong bầu không khí đầy hơi ẩm và lành lạnh, mọi người đang ngon giấc trong những chiến chăn đơn. Bỗng một con gà trống vỗ cánh phành phạch và cất tiếng gáy lanh lảnh ở đầu bản. Tiếp đó, rải rác khắp thung lũng, tiếng gà gáy râm ran. Mấy con gà rừng trên núi cũng thức dậy gáy te te. Trên mấy cành cây cao cạnh nhà, ve đua nhau kêu ra rả. Ngoài suối, tiếng chim cuốc vọng vào đều đều. Bản làng đã thức giấc. 2.3. Giúp các em viết câu đúng và biết viết câu hay: *Viết câu đúng: Một câu văn đúng phải đảm bảo về cấu trúc ngữ pháp, diễn đạt được nội dung, suy nghĩ của người viết. VD: Chú gà trống nhà em/ đã ra dáng một chú gà trống đẹp. CN VN *Viết câu hay: Câu hay là câu được mở rộng các thành phần phụ, sử dụng các biện pháp nhân hoá, so sánh hoặc từ láy, từ gợi tả, gợi cảm. VD: Qua một thời gian chăm sóc chu đáo,giờ đây, chú gà trống nhà em đã trở thành một chàng hi p sĩ trông thật oai v làm sao. Việc d ng từ ngữ gi u h nh ảnh, gợi tả, gợi cảm, các biện pháp so sánh,nhân hóa khi viết văn sẽ giúp cho câu văn, bài văn trở nên sinh động hơn, mượt mà hơn, ý tứ hơn và thu hút người đọc, người nghe. Để giúp các em biết viết câu văn có hình ảnh, sử dụng biện pháp tu từ, tôi cho học sinh làm dạng bài tập tìm hình ảnh so sánh, nhân hoá trong đoạn thơ, bài thơ. Ví dụ: T m h nh ảnh so sánh trong câu thơ sau: “Con mẹ đẹp sao Những hòn tơ nhỏ
  10. Chạy như lăn tròn Trên sân trên cỏ.” (Trích b i Đ n g mới nở - Sách Tiếng Việt 2) Y u cầu học sinh chỉ ra h nh ảnh so sánh trong đoạn thơ tr n ? H nh ảnh so sánh : con mẹ - hòn tơ nhỏ ; chạy – lăn tròn Đoạn thơ trên miêu tả những chú gà con lông vàng óng mượt trông như những hòn tơ mềm mại. Do hình dáng nhỏ nhắn “ bé tý” lại giống “cuộn tơ” nên khi chạy giống như lăn tròn. Việc sử dụng hình ảnh so sánh đã giúp đoạn thơ sinh động hơn, đ n gà con được miêu tả cụ thể, giàu hình ảnh, gần gũi và đáng yêu. Ví dụ: hỉ rõ biện pháp nhân hóa đã được sử dụng trong b i thơ sau như thế n o? Đám ma bác giun. Bác Giun đào đất suốt ngày Trưa nay chết dưới bóng cây sau nhà Họ hàng nhà kiến kéo ra Kiến con đi trước, kiến già theo sau Cầm hương kiến Đất bạc đầu Khóc than kiến Cánh khoác màu áo tang Kiến Lửa đốt đuốc đỏ làng Kiến Kim chống gậy, kiến Càng n ng vai Đám ma đưa đến là dài Qua những vườn chuối, vườn khoai, vườn cà Kiến Đen uống rượu la đà Bao nhiêu kiến Gió bay ra chia phần
  11. Trần Đăng Khoa Học sinh sẽ tự tìm ra các câu thơ có hình ảnh như: “Bác giun đ o đất suốt ng y”; “Họ hàng nhà kiến kéo ra”;. ác con vật đó được nhân hóa bằng từ Bác- đào đất ; họ hàng - kéo ra; học sinh thấy cái hay của bài thơ ở chỗ, một mặt nhận ra cảnh “đám ma” với tất cả các nghi lễ, một mặt nhận ra đặc điểm sinh động của từng loài kiến. Nhà thơ đã có con mắt quan sát tinh tường nên đã ghép nhặt rất chính xác đặc điểm của từng loài kiến vơi các chi tiết trong một tang lễ : “Kiến đất cầm hương” , “Kiến cánh khoác màu áo tang” ( vì kiến cảnh có bộ lông ngoài mỏng, trắng), Lưu ý: Giáo viên cho học sinh thấy rõ biện pháp nhân hoá không chỉ làm cho câu văn giàu hình ảnh hơn, hay hơn mà nhờ biện pháp nhân hoá các con vật tạo nên gân gũi với con người, trở thành một người bạn tốt của chúng ta. Như vậy bài văn không chỉ đơn thuần là bài văn miêu tả mà trong đó còn có tình cảm của người viết . Có như vậy mới đạt được hiệu quả. Ví dụ: Em hãy viết một đoạn văn miêu tả con vật mà em thích trong đó có sử dụng phép nhân hóa hoặc so sánh. Thông qua các dạng bài tập đó tôi đã củng cố cho HS về so sánh, nhân hóa. Giúp học sinh nhận ra cái hay của các câu thơ, bài thơ, câu văn, đoạn văn hay những tác phẩm văn xuôi. Qua đó học sinh học được cách nhân hóa, so sánh và cách quan sát, biết liên tưởng sự vật này với sự vật khác, biết vận dụng, chọn lọc những gì qua sát được để viết các câu văn có hình ảnh, làm cho đoạn văn hay hơn. 2.4. Hướng dẫn học sinh kĩ năng quan sát Như chúng ta đã biết quan sát là sử dụng các giác quan để nhận biết sự vật. Ở một bài văn miêu tả chủ yếu các em phải sử dụng ba giác quan cần thiết là thị giác (mắt nhìn), thính giác (tai nghe) và xúc giác (tay sờ). Mắt cho ta cảm giác về hình dáng
  12. (Ca ay ấ , m ay ầy, ) , cho ta thấy hoạt động (Con gà khi đ ổ ườ ể a , ị ư đ m ạ , ạ ạ , ), Tai cho ta cảm giác về âm thanh (Chú gà gáy Ò ó o hay kéc kè ke e e ), Tay cho ta cảm giác về mềm ay ứ , dạy cho học sinh quan sát chính là dạy cách sử dụng các giác quan để tìm ra các đặc điểm của sự vật và biết lựa chọn chi tiết đặc điểm riêng của con vật để quan sát. Các con vật mà mình chọn để miêu tả phải có những nét nổi trội . Giáo viên cần hướng dẫn học sinh tìm ra các đặc điểm tiêu biểu của con vật mình định tả, để phân biết nó với các con vật khác giúp bài văn thêm sinh động hấp dẫn và độc đáo. Ví dụ: Quan sát những đặc điểm nổi bật của con gà trống nhà em nó có gì khác so với con gà trống nhà hàng xóm. Ngoài ra khi dạy văn miêu tả giáo viên cần định hướng cho học sinh cách quan sát và quan sát có phương pháp: - Lựa chọn trình tự quan sát: + Quan sát con vật từ xa đến gần. + Quan sát con vật từ cụ thể đến bao quát. + Quan sát thói quen sinh hoạt của con vật theo thời gian trong ngày. + Quan sát theo thời kỳ phát triển của con vật. Ví dụ: Khi tả con mèo giáo viên có thể hỏi “D ng tay sờ vào con mèo em có cảm giác như thế nào?” Hướng dẫn cách thu thập các nhận xét do quan sát mang lại. Khi học sinh trình bày kết quả quan sát, nên hướng các em trả lời bằng nhiều chi tiết cụ thể và sử dụng ngôn ngữ chính xác, gợi hình. Sau đó giúp các em biết lựa chọn, sắp xếp các chi tiết miêu tả quan sát được cho lôgíc. Trong thực tế giảng dạy, nghiên cứu, tôi thấy những câu văn miêu tả hay là những câu sử dụng từ gợi hình ảnh, gợi tả âm thanh một cách sáng tạo, gợi tả sát
  13. thực. Để viết được những câu văn đó học sinh phải quan sát đối tượng một cách tinh tế. Vì vậy tôi rất chú ý phương pháp quan sát, luôn rèn cho các em kĩ năng quan sát cần thiết, biết chọn các chi tiết tiêu biểu để đưa vào bài văn .Khi hướng dẫn quan sát, tôi luôn gợi cho các em vận dụng vốn hiểu biết, khả năng liên tưởng cảm xúc và vốn ngôn ngữ, giúp cho việc quan sát, cảm nhận của các em được tốt hơn. Tôi còn gợi ý cho lớp cùng nhận xét, bình và chọn những từ ngữ, ý văn hay, hình ảnh đẹp, phù hợp rồi ghi nhanh lên bảng làm cơ sở cho các em chọn lựa, vận dụng chính những từ ngữ, câu văn, ý văn được lớp đánh giá cao theo ý thích của riêng mình để thực hiện yêu cầu của bài tập. Vì vậy để viết tốt bài văn miêu tả đòi hỏi người viết phải hiểu, biết về đối tượng miêu tả. Hay nói cách khác là phải biết nhận dạng đúng và đầy đủ đối tượng mình miêu tả. Để có được điều đó thì đòi hỏi người viết phải biết cách quan sát, biết chọn lọc các chi tiết quan sát được để vận dụng làm bài. 3. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực.(PP gợi mở, PP vấn đáp, PP thảo luận nhóm, ) Như chúng ta đã biết qua một số kết quả nghi n cứu khoa học cho thấy việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học l m cho các m hiểu sâu, nhớ lâu v in đậm điều m chính tự suy nghĩ viết ra th o ng n ngữ của m nh. V vậy, sử bản đồ tư duy huyđộng tối đa tiềm năng bộ não, giúp học sinh học tập một cách tích cực, đó chính l biện pháp đổi mới phương pháp dạy học có hiệu quả. Việc sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần h nh th nh cho các em tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc, có cách nh n vấn đề một cách tổng thể, khoa học chứ kh ng phải học vẹt, học thuộc lòng. Học sinh hiểu b i, nhớ lâu, vận dụng tốt. Khối lượng kiến thức ng y c ng tăng th o cấp số nhân, v vậy sử
  14. dụng bản đồ tư duy r n cho các m tư duy l gic để có thể vận dụng v o thực h nh giao tiếp nói, viết trong cuộc sống. Đặc biệt sử dụng bản đồ tư duy trong dạy học kiến thức mới, giúp học sinh học tập một cách chủ động, tích cực và huy động được tất cả học sinh tham gia xây dựng bài một cách hào hứng. Cách học này còn phát phát triển được năng lực riêng của từng học sinh không chỉ về trí tuệ mà còn có kĩ năng diễn đạt, hệ thống hoá kiến thức hay huy động những điều đã học trước đó để chọn lọc các ý để ghi chép, vận dụng kiến thức được lọc qua sách vở vào cuộc sống. Vận dụng bản đồ tư duy trong dạy học sẽ dần hình thành cho học sinh tư duy mạch lạc, hiểu biết vấn đề một cách sâu sắc có cách nhìn vấn đề có hệ thống, khoa học. Sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa ) là cách thức giáo viên tổ chức cho học sinh suy nghĩ, diễn đạt một cách chủ động và sáng tạo trong dạy Tập làm văn. Phương pháp này hướng đến việc cụ thể hoá tối đa hoạt động viết và nói của học sinh sao cho sản phẩm làm văn của mỗi em vừa đảm bảo được chuẩn mực cơ bản cả một thể loại văn bản vừa thể hiện được bản sắc cái tôi của mỗi em, trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết của các em, cũng như những ý tưởng v ng n từ m các m đã chiếm lĩnh được qua b i “tập đọc – kể chuyện”, “luy n từ v câu” v “Tập l m văn”. Th ng qua b i học th o chủ điểm đã được học trong S K hay qua cuộc sống h ng ng y của các m. Với vốn kiến thức các em đã được trang bị trên cơ sở khai thác kinh nghiệm và hiểu biết, cũng như những ý tưởng và ngôn từ mà các em đã chiếm lĩnh qua các tiết của phân môn Tiếng Việt hay qua cuộc sống hàng ngày, nhưng để các em biết cách vận dụng tốt vào bài viết của mình đây cũng là một vấn đề nan giải. Để giúp các em vận dụng tốt vốn kiến thức mà mình đã được trang bị thì bản thân tôi đã sử dụng cách dạy trong tiết “Viết bài văn miêu tả” là: sử dụng bản đồ tư duy (mạng ý nghĩa), kết hợp với các phương pháp dạy học tích cực, cụ thể là: - GV giới thiệu một số dạng sơ đồ mạng:
  15. HS quan sát chọn một sơ đồ phận dụng làm bài. Hoạt động 1: Tìm hiểu đề. - Học sinh định h nh cụ thể đối tượng cần mi u tả trong trí đồng thời viết đối tượng ấy( con g /là gì?, ở đâu, lúc nào ) vào khung chủ đề.
  16. *Hoạt động 2: Tìm ý. Như chúng ta đã biết, làm văn miêu tả không phải lúc nào cũng có đối tượng trước mặt để thực hiện “ Bút cầm tay, ghi chép lại hiện trường”. Vì vậy để viết được bài văn miêu tả thì học sinh phải sử dụng hồi ức, vận dụng những hiểu biết, nhận xét cảm xúc đã có trong quá khứ về đối tượng miêu tả. Hồi ức, tưởng tượng là cách nhìn gián tiếp sự vật, là phục hồi nhìn nhận bằng cách gợi nhớ là cách nhìn “ thầm” để giúp các em làm bài vận dụng khả năng phục hồi kí ức, tưởng tượng.Trong các tiết này, tôi luôn sử dụng cách trò chuyện, khơi gợi rồi đề nghị các m nhắm mắt lại nhớ lại, nghĩ về con vật m nh định tả đã xác định trong khung chủ đề v tự chọn lọc, viết ra những từ ngữ li n quan đến con vật đó. VD: HS suy nghĩ tìm được những từ, cụm từ liên quan đến chú gà: to khỏ , mào,ò ó o , bộ lông, đu i, oai vệ, đ i chân, ghi vào khung chủ đề: - Bên cạch đó, giáo viên cũng cần rèn luyện cho học sinh kĩ năng học hỏi thu thập thông tin từ các tài liệu tham khảo, các bài văn mẫu . Quá phụ thuộc vào bài làm của người khác là không tốt nhưng nếu biết biến lời văn của người khác thành của
  17. mình thì sẽ giúp bài biết sinh động, phong phú hơn. Phải học hỏi xem người ta trình bày bài viết như thế nào? Sử dụng từ ngữ ra sao ? Những câu văn hay, diễn tả độc đáo, các em hoàn toàn có thể ghi chép lại, hay áp dụng cấu trúc câu cho những bài làm khác. Tuy nhiên cách áp dụng phải linh hoạt. Sách tham khảo có chỗ tốt, có chỗ chưa tốt, chưa sát thực tế. Chúng ta phải làm cho nó cụ thể hơn, gần gũi hơn, không nên viết quá xa vời, sáo rỗng, có gần gũi với đời sống thì bài viết mới được đón nhận . Hoạt động 3: Lập dàn ý. Sắp xếp ý đã có vào sơ đồ. - Hướng dẫn học sinh đánh số thứ tự cho các ý t m được sao cho các ý đó có thể phát triển phù hợp với bố cục, nội dung bài văn miêu tả. - ọi học sinh xem lại các ý trong mạng và đánh số thứ tự. - ọi vài học sinh lên thể hiện mạng ý nghĩa của mình đã tìm được trước lớp,để cả lớp có thể theo dõi việc làm mẫu của bạn, vài em học sinh nhận xét
  18. Hoạt động 4: Học sinh diễn đạt các ý trong mạng ý nghĩa thành bài. Hướng dẫn các em diễn đạt mỗi một từ ngữ xoay quanh mạng thành ít nhất một câu. Ví dụ: từ “Bộ lông ”. Diễn đạt thành câu: Chú khoác một bộ lông đỏ tía pha lấn màu xanh óng ánh khiến chú ta trở nên thật sang trọng, quý phái. Hay: Bộ lông của chú mượt, mịn màng và rất dày. Ở sơ đồ tư duy, cần lưu ý cho học sinh những chỗ có thể so sánh hay dùng từ ngữ độc đáo thì có thể ghi chú. Hoạt động 5: Trao đổi sửa chữa và nhận xét. Đối với học sinh lớp Bốn việc sửa chữa và tự nhận xét bài cho nhau là việc làm rất khó khăn, ít em tự thực hiện được. Việc tập cho các em biết tự kiểm tra, rà soát lại bài viết về cả nội dung và cách diễn đạt, cách trình bày là rất cần thiết, nó không chỉ giúp các em nâng cao khả năng làm văn, nâng cao chất lượng câu văn, đoạn văn, bài văn của các em mà còn giúp cho các em rèn luyện kĩ năng trình bày, diễn đạt vấn đề. Trong mỗi giờ Tập làm văn, nhất là văn viết, tôi hết sức chú trọng việc tập cho học sinh biết tự cân nhắc, trau chuốt câu văn, ý văn cho phù hợp. Khi các em
  19. hoàn thành bài tập, tôi thường tổ chức cho các em đọc lại bài, đối chiếu với yêu cầu của đề bài để kiểm tra xem nội dung bài làm đã đảm bảo chưa? Câu văn, ý văn đã rõ ràng, đủ ý chưa? Thời gian đầu các em sẽ rất bỡ ngỡ, khó thực hiện, tôi tập cho cả lớp cùng thực hiện chung trên một vài bài, sau đó là cùng thực hiện trong nhóm, dần dần là mỗi cá nhân sẽ tự kiểm tra, rà soát trên bài làm của mình. Ngay trong quá trình các em làm bài, tôi cũng theo dõi, giúp các em tự nhận xét, kiểm tra, điều chỉnh kịp thời những chỗ chưa hay, chưa phù hợp, tập cho các em biết chú trọng đến cách diễn đạt sao cho đúng, đủ, rõ ý. Ngoài ra, tôi còn thường xuyên tổ chức cho các em nhận xét, đánh giá bài của bạn (cách dùng từ, đặt câu, ) rồi rút kinh nghiệm, vận dụng vào bài của mình theo các bước: + họn đọc bài, câu văn của bạn và trao đổi, suy nghĩ tìm ý hay, cách chỉnh sửa những ý chưa hay, chưa phù hợp. + Rút kinh nghiệm, học tập ở bài làm của bạn để bổ sung, chỉnh sửa bài làm của mình. Hoạt động 6: Dựa vào bài viết nháp đã sửa, học sinh viết bài vào vở cho hoàn chỉnh. Sau một năm nghiên cứu chương trình dạy Tập làm văn lớp 4. Bằng cả sự lao động nỗ lực của thầy và sự rèn luyện chăm chỉ của trò. hất lượng học văn của lớp tôi nâng cao rõ rệt. Từ chỗ học sinh chưa viết được những bài văn gãy gọn, mạch lạc, các em đã xây dựng được những bài văn hay, câu văn giàu hình ảnh, đạt bài khá, bài giỏi ngày càng nhiều. Tôi cũng xin đưa ra những bài văn điển hình của các học sinh lớp tôi. B 1: Đề : V đ ạ uô r a đì ? Gâu gâu gâu, đó là tiếng sửa ồm ồm khi có người lạ của chó mực nhà em. Ngoài cái bụng trắng muốt, toàn thân chú đ n như mực tàu. Trông chú ta mới bảnh bao làm sao với đ i tai chỉ nhỉnh hơn hai cái mộc nhĩ một chút, luôn dựng lên để
  20. nghe ngõng. Mực có một bộ răng chắc khoẻ nhọn hoắt đặc biệt bón chân chú được trang bị bộ móng vuốt và bọc một lớp nệm thịt giúp chú ta đi lại dễ dàng, không gây ra tiếng động. Khi mặt trời chiếu xuống Mực ta nhanh chóng tìm cho mình một nơi lý tưởng để sưởi ấm. Lúc đi học về khi nghe bước chân em ngoài ngõ chú ta lao ra vẫy đu i rối rít. Đến bữa ăn em lại cho chú hai bát cơm cá đầy, chú ta nhìn em với ánh mắt biết ơn, đu i ngoáy tít . Gia đ nh em rất yêu quý chú vì Mực đã bảo vệ sự bình yên cho mọi người. B 2: Đề : T đ mẹ đ ? Sáng sớm ông mặt trời tỉnh giấc, vươn vai, vén màn rọi những tia nắng ban mai xuống làng quê, cảnh vật thay đổi, tươi tỉnh hẳn. hị Mái Mơ dẫn đ n con đi kiếm ăn. Đ n gà trông thật xinh xắn, chúng kêu liếp nhiếp chạy quanh chân mẹ giống như cái kén vàng ươm biết cử động. Đ i mắt chúng ngơ ngác nhìn quanh tỏ vẻ lạ lùng, giống như những em bé mới cất tiếng khóc chào đời. Đ i chân nhỏ xíu như chiếc tăm màu hồng hồng. Cái mỏ như hai vỏ trấu chắp lại nhưng em chắc rằng chúng phải cứng cáp hơn nhiều. Trông đ n gà con bé bỏng, tuổi thơ lại chợt hiện về với bao ký ức đẹp đẽ. Con gà mái mẹ thì lo lắng để mắt đến con mình. Đ i mắt ấy mới dịu dàng làm sao, nó cứ dõi theo từng bước chân của đ n con nhỏ. Chân chị bước thong thả cho đ n con kịp theo. Thấy mẹ “lục tục”, đ n con ùa về chân mẹ để được chia phần. Trên mặt chị Mái Mơ hiện rõ niềm vui. Khi mặt trời lên cao, đ i cánh của chị đủ rộng che mát cho cả đ n con của mình. Chú trống choai thấy mẹ con gà Mái Mơ đi kiếm ăn ở vườn lạ cũng đi theo. Thỉnh thoảng chú lại cất giọng gáy lanh lảnh của mình cho tất cả cùng nghe. Gió nhẹ thổi làm cỏ cây rung rinh. Trên cành cây chim hót véo von. Nhìn đ n gà con đáng yêu lòng em tràn ngập niềm vui. Em mong sao các chú gà con nhanh lớn để có thêm đ n gà con mới.
  21. Hoạt động 7: Nhận xét - tuyên dương. - Tuyên dương trước lớp đối với bài viết xuất sắc và những bài viết có tiến bộ. - Tặng bông hoa học tốt cho những bài làm hay. - Khuyến khích học sinh học tập cách diễn đạt của những bạn có bài viết tốt. - Giáo viên chỉ ra cho những em viết chưa tốt lỗi ở đâu ? ần sửa như thế nào ? Còn thiếu yếu tố gì ? III. HIỆU QUẢ NGHIÊN CỨU: Với những biện pháp như đã trình bày ở trên đã giúp cho cả giáo viên và học sinh tự tin, chủ động hơn trong các tiết học tập làm văn (văn miêu tả). Các giờ Tập làm văn cũng trở nên nhẹ nhàng, sinh động hơn. Học sinh không còn lúng túng trong việc lập dàn ý cho mỗi bài văn; việc viết một đoạn văn, hay bài văn của các em trở nên dễ dàng hơn. Các em đã biết miêu tả một số đặc điểm của một sự vật cụ thể theo yêu cầu, biết viết câu văn đúng ngữ pháp, rõ ý; biết sử dụng những từ ngữ sát nghĩa, có tác dụng gợi tả, gợi cảm; bước đầu biết sử dụng biện pháp tu từ đơn giản khi viết văn. Lời văn, ý văn của các em không còn nặng tính liệt kê hay kể lể nữa, nhờ vậy mà chất lượng phân môn Tập làm văn cũng như môn Tiếng Việt đã nâng lên rõ rệt. C- KẾT LUẬN. Trong quá trình thực hiện và đưa vào thực tế trong phạm vi đề tài ở tiết Tập làm văn miêu tả lớp 4. Bản thân tôi đã rút ra nhiều kinh nghiệm và khẳng định đây là hình thức dạy học làm chuyển hoá quá trình học tập của học sinh. Như vậy cần phải thực hiện một số giải pháp sau: Giáo viên hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý: quan sát bằng nhiều giác quan: mắt, mũi, tay, tai qua đó học sinh phát hiện, khám phá đầy đủ các đặc điểm của sự vật, làm cho chúng hiện ra đầy đủ, rõ ràng tránh được những bài văn miêu tả chung chung mờ nhạt.
  22. Khi hướng dẫn học sinh quan sát cần gợi mở, dẫn dắt theo một trình tự hợp lý, để học sinh tự mình quan sát, tự mình cảm nhận tính chất muôn hình muôn vẻ của sự vật. Đây là điều kiện chủ yếu làm nền tảng giúp cho bài viết trở nên chân thật, tự nhiên và đây cũng là cơ sở cho sự phát huy trí tưởng tượng và năng lực sáng tạo của học sinh (sáng tạo trong cách nhìn, cách nghĩ, cách diễn đạt nội dung ). Đặc biệt, giáo viên phải sử dụng tranh. ảnh trong văn miêu tả cụ thể, từng vùng, từng miền khác nhau mà giáo viên lựa chọn tranh ảnh cho phù hợp để cho các em quan sát tốt hơn. Tích luỹ và lựa chọn vốn từ ngữ khi miêu tả cũng là biện pháp không kém phần quan trọng giúp cho học sinh nhớ lại một từ ngữ, một hình ảnh, biết lựa chọn từ ngữ hay, thích hợp, phong phú vào bài văn để thêm phần hấp dẫn. Bài văn miêu tả hay thì không thể thiếu cảm xúc của người viết, có thể hiện được cảm xúc trong bài văn thì mới thu hút người đọc, người nghe. Song, để quá trình đó diễn ra tốt, đòi hỏi người giáo viên phải nắm vững yêu cầu cơ bản và biết vận dụng linh hoạt sáng tạo trong từng tiết học với từng đối tượng được tả. Bởi vậy, dạy tập làm văn giáo viên không chỉ dựa vào sách giáo khoa mà còn cần đến những tư liệu tham khảo để mở rộng hiểu biết về nội dung phương pháp và vốn từ ngữ trong từng văn cảnh để cung cấp gợi ý cho học sinh. Có như vậy thì chất lượng giáo dục mới từng bước nâng lên. Trên đây là bài học mà bản thân tôi đã rút ra trong quá trình nghiên cứu và trải nghiệm trong các năm học bản thân tôi dạy học sinh lớp 4. Tôi sẽ đ m kinh nghiệm này tiếp tục áp dụng để giảng dạy phân môn Tập làm văn ở các năm sau với mong muốn lớn nhất của tôi là giúp học sinh học tốt môn Tập làm văn ở tiểu học. Tuy nhiên những biện pháp tôi đã áp dụng trên, tuỳ vào đối tượng học
  23. sinh mà giáo viên cần vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo. Với kinh nghiệm giảng dạy chưa nhiều nên trong bài viết chắc chắn không tránh khỏi thiếu sót, tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp, bổ sung của các thầy cô trong hội đồng chấm thi để đề tài ngày càng hoàn thiện và áp dụng có hiệu quả hơn. Xin chân thành cảm ơn !