SKKN Áp dụng kỹ thuật “Brainstorming” trong các tiết dạy Tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT

docx 26 trang thulinhhd34 12344
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Áp dụng kỹ thuật “Brainstorming” trong các tiết dạy Tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docxskkn_ap_dung_ky_thuat_brainstorming_trong_cac_tiet_day_tieng.docx

Nội dung tóm tắt: SKKN Áp dụng kỹ thuật “Brainstorming” trong các tiết dạy Tiếng Anh chương trình mới cho học sinh THPT

  1. d. Bắt đầu BSM: Nhóm trưởng chỉ định hay lựa chọn thành viên chia sẻ ý kiến trả lời (hay những ý niệm rời rạc). Người thư ký phải viết xuống tất cả các câu trả lời, nếu có thể công khai hóa cho mọi người thấy (viết lên bảng chẳng hạn). Không cho phép bất kỳ một ý kiến đánh giá hay bình luận nào về bất kỳ câu trả lời nào cho đến khi chấm dứt hoạt động BSM. Trong suốt quá trình này nhóm trưởng phải là người biết cách cân bằng hoạt động của tất cả các thành viên trong nhóm sao cho mỗi người đều có cơ hội đưa ra ý kiến cá nhân của mình, tránh tình trạng một vài người quá tích cực còn những người khác thì hầu như không có ý kiến gì. e. Sau khi kết thúc hoạt động, hãy lượt lại tất cả và bắt đầu đánh giá các câu trả lời. Một số lưu ý về chất lượng câu trả lời, bao gồm: Tìm những câu ý trùng lặp hay tương tự để thu gọn lại. Góp các câu trả lời có sự tương tự hay tương đồng về nguyên tắc hay nguyên lí. Xóa bỏ những ý kiến hoàn toàn không thích hợp. Sau khi đã cô lập được danh sách các ý kiến, hãy bàn luận thêm về câu trả lời chung. Với cách thức làm việc như vậy thì dù muốn hay không, dù nhiều ý tưởng hay ít thì mỗi thành viên đều phải đưa ra ý kiến cá nhân để đóng góp cho vấn đề chung. Và như vậy nếu học sinh tham gia vào các hoạt động BSM để tìm cách giải quyết các nhiệm vụ học tập do giáo viên yêu cầu các em sẽ không phải sợ hay e ngại rằng ý kiến của mình sẽ bị phản bác. Điều đó thúc
  2. đẩy sự tự tin của mỗi cá nhân và động viên các em tư duy về vấn đề, và hình như nó còn tạo ra một sự cạnh tranh ngầm giữa các thành viên trong nhóm trong việc dành lấy cơ hội để đưa ý tưởng và cũng hi vọng rằng ý tưởng đó sẽ trở thành lựa chọn chung hợp lí nhất của nhóm. III. Vai trò của BSM trong việc đổi mới phương pháp dạy học (PPDH) Luật Giáo dục 2005, điều 28, đã nhấn mạnh sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực. Trong việc đổi mới phương pháp dạy và học theo hướng tích cực thì phương pháp học của học sinh là mối quan tâm hàng đầu. Trong suốt 5 năm qua, chúng ta cũng đã không ngừng đổi mới để hưởng ứng cuộc vận động “xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”. Mục đích cũng chính là tạo nên một chuyển biến trong mối quan hệ giữa giáo viên và học sinh với các hoạt động học tập mà mục tiêu cuối cùng là tạo ra được sự tích cực và chủ động của học sinh trong quá trình lĩnh hội tri thức. Trong rất nhiều kỹ thuật dạy học (KTDH) thường dùng, có thể kể đến một số KTDH phát huy tính tích cực, sáng tạo của người học như: Kỹ thuật công não (Brainstorming), kỹ thuật thông tin phản hồi, Như vậy, BSM (với việc hỗ trợ của sơ đồ tư duy (Mind Map) chính là một trong những KTDH hiệu quả tạo nên sự chuyển biến trong tư duy của người học. Sự chuyển biến về hoạt động học tập trong lớp có thể thể hiện qua sơ đồ sau:
  3. Học sinh Học sinh Giáo viên và học sinh Giáo viên và học sinh Giáo viên Giáo viên Truyền thống Tích cực Nhìn vào sơ đồ trên ta dễ dàng nhận thấy sự biến đổi một cách căn bản, có thể nói là sự đảo chiều, trong vai trò của giáo viên và học sinh đối với các hoạt động trong lớp học. Nếu như trong PPDH truyền thống, giáo viên là người giữ vai trò chủ đạo, là nền móng cho mọi hoạt động, hoạt động của giáo viên chiếm phần lớn trong tổng số hoạt động chung của một tiết học trong lớp thì ở PPDH tích cực, “linh hồn” của các hoạt động trong lớp chính là học sinh. Các em “dành” lấy và chiếm hữu đa phần hoạt động của lớp học. Trong PPDH mới này, mối tương quan giữa giáo viên và học sinh có thể được miêu tả trong sơ đồ sau:
  4. Định hướng Nghiên cứu, tìm hiểu Người Người dạy học Tổ chức Thực hiện Hỗ trợ, cố Tự đánh giá, vấn, đánh giá tự điều chỉnh Trong sự tương tác này, giáo viên đóng vai trò là người cố vấn, định hướng và tổ chức các hoạt động học tập còn học sinh mới là chủ thể thực hiện hoạt động bằng cách tự nghiên cứu, tự tìm hiểu và tự đánh giá, tự điều chỉnh phương pháp học tập của mình. Như vậy trong trong mối quan hệ tương tác này yếu tố quan trọng nhất chính là sự tự giác của học sinh.
  5. Với kỹ thuật BSM, học sinh sẽ tự giác tư duy, chủ động và tích cực hoạt động để tìm ra các giải pháp cho các nhiệm vụ học tập mà giáo viên đưa ra. Do đó, BSM góp phần vào việc đổi mới PPDH theo hướng tích cực. IV.Thực trạng của việc dạy và học tiếng anh Tiếng Anh đã là một môn học bắt buộc trong hệ thống giáo dục quốc dân của nước ta, song vấn đề dạy và học nó vẫn chưa đạt được sự đồng bộ trong hiệu qủa và chất lượng giữa các vùng miền, khu vực. Đặc biệt sự quan tâm hứng thú đối với môn học này cũng có sự phân hóa rõ rệt giữa học sinh thành thị và học sinh nông thôn, miền núi, vùng đặc biệt khó khăn. Sự khác biệt này xuất phát từ cả nguyên nhân khách quan lẫn chủ quan. Thứ nhất, giáo viên không tự đổi mới PPDH. Chúng ta đề cập nhiều đến việc đổi mới và tính tất yếu của việc đổi mới PPDH. Đó là dạy học tích cực, lấy người học làm trung tâm, là chủ thể của hoạt động học tập. Tuy nhiên việc đổi mới đó không thể thực hiện trong một sớm một chiều nhất là khi PPDH truyền thống ăn sâu tạo nên gốc dễ, tạo nên lối mòn khó thay đổi. Chúng ta thẳng thắn nhìn nhận rằng đang tồn tại rất nhiều tiết học tiếng Anh không “warm up”. Đơn giản chỉ là kiểm tra bài cũ, kiểm tra sĩ số học sinh và ghi tiêu đề bài mới rồi kế tiếp là hàng loạt các hoạt động thuyết trình: thuyết trình về nghĩa từ vựng, về cách dùng của một cấu trúc ngữ pháp v.v Các tiết dạy diễn ra tương tự không phân biệt đối tượng học sinh, không phân biệt nội dung bài học cũng không quan tâm đến việc phải có sự hỗ trợ của một phương tiện dạy học nào đó cho phù hợp. Tình trạng đó dẫn đến một không khí hết sức nhàm chán và buồn tẻ. Học sinh không hề thấy hứng thú, không có yếu tố bất ngờ thu hút các em, không có tình huống có vấn đề để tác động
  6. vào tư duy của các em. Hậu quả là một sự mệt mỏi, uể oải, mất tập trung kéo dài. Thứ hai, vốn tích lũy của học sinh về ngôn ngữ tiếng Anh rất ít. Mặc dù học sinh đã được tiếp cận với môn tiếng Anh ở cấp THCS, tuy nhiên khi bước vào cấp THPT thì hầu như vốn tích lũy của các em là rất ít, đặc biệt là học sinh vùng nông thôn, miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Điều này một phần xuất phát từ thực tế dạy học ở trên. Khi học sinh đã cảm thấy không hứng thứ với môn học vì giáo viên không mang đến cho các em những bất ngờ thú vị từ chính môn học đó thì không nảy sinh nhu cầu tìm hiểu và khám phá về môn học. Điều này dẫn đến việc các em hết sức e ngại, rụt rè trong các hoạt động do giáo viên tổ chức trong các tiết học tiếng Anh ở trường THPT. Các em lúng túng và bối rối khi không thể giải quyết được nhiệm vụ mà giáo viên giao cho do những hạn chế về mặt kiến thức. Và nếu tiếp tục để tình trạng này tồn tại, thì các tiết học tiếng Anh sẽ lại trôi qua trong một không khí nặng nề. Thứ ba, phương tiện dạy học đặc thù còn nhiều thiếu thốn. Một trong những hướng đổi mới PPDH theo hướng tích cực là áp dụng các phương tiện dạy học (PTDH) phù hợp với đặc trưng của bộ môn. Sự hỗ trợ của các PTDH mới, phù hợp sẽ làm tăng hiệu quả và chất lượng của quá trình dạy học. Tuy nhiên, thực tế ở nhiều trường học các PTDH tối thiểu cho môn học tiếng Anh như đài catsette, điã CD vẫn còn thiếu, chứ chưa kể đến hệ thống tranh ảnh minh họa hay mô hình, vật thật, Điều này ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề đổi mới PPDH và nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiếng Anh.
  7. Thứ tư, học sinh không tự đổi mới phương pháp học. Trải qua một thời gian học tập ở cấp tiểu học và THCS, học sinh đã tự tìm ra cho mình một phương pháp học nhất định. Tuy nhiên, không phải phương pháp nào cũng còn phù hợp với các môn học ở cấp THPT, đặc biệt trong trong tình hình đổi mới PPDH như ngày nay mà mục tiêu là tạo nên sự chuyển biến, đưa học sinh trở thành chủ thể của mọi hoạt động học tập. Tuy nhiên, do thói quen hay do những hạn chế nhất định về năng lực học tập, học sinh vẫn giữ những phương pháp học tập cũ rất thụ động, không tự giác và tích cực. Điều này đã tạo nên một rào cản khiến học sinh không thể lĩnh hội hết tri thức của môn học. Các em không đủ tự tin hoặc không tự giác tham gia vào các hoạt động học tập. Điều này khiến cho tiết học trở nên vô cùng khó khăn và không hiệu quả. Với tất cả những tồn tại trên, để quá trình dạy - học tiếng Anh đạt hiệu quả thì bản thân giáo viên phải biết khắc phục tất cả những hạn chế từ phía học sinh và những thiếu thốn về PTDH, tự đổi mới PPDH của mình, kết hợp với những KTDH mới bên cạnh việc tận dụng những điều kiện hiện tại nhằm “cách mạng hóa” một giờ học tiếng Anh truyền thống. V. Giai pháp nâng cao hiệu quả của việc dạy và học tiêng anh bằng cách áp dụng BRAINSTORMING. Như đã đề cập, BSM là một kỹ thuật dùng sự hỗ trợ của sơ đồ tư duy nhằm tìm ra các giải pháp cho một vấn đề, và nó thật sự hiệu quả khi làm việc theo nhóm. Làm việc theo nhóm đã là một hình thức hoạt động mới nhằm đổi mới PPDH mà ở đó giáo viên chỉ giữ vai trò định hướng, tổ chức và cố vấn còn học sinh mới là chủ thể tích cực, chủ động tìm ra hướng giải
  8. quyết và tự giải quyết vấn đề. BSM sẽ phát huy tinh thần và khả năng hoạt động nhóm (team work) trong một giờ học tiếng Anh. Sự hợp tác này là không thể thiếu nếu muốn đạt được mục đích giao tiếp trong quá trình dạy - học Tiếng Anh nói riêng và ngoại ngữ nói chung. BSM có thể áp dụng trong nhiều khâu của quá trình lên lớp từ khâu vào bài (warm up), đến quá trình giải quyết các yêu cầu chính của bài học (task); có thể áp dụng trong các phần từ: Reading, Speaking, Listening, Writing hay Language Focus. Ở mỗi khâu, mỗi phần, BSM đều đem lại những hiệu quả nhất định và kích thích, lôi cuốn sự tham gia của tất cả học sinh. Có thể tiến hành BSM trong lớp học theo các bước sau: Bước 1: Giáo viên chia học sinh thành các nhóm. Trong quá trình chia nhóm cần chú ý phân bố đồng đều các đối tượng học sinh vào cùng một nhóm để có sự hỗ trợ lẫn nhau. Tránh tình trạng nhóm này và nhóm kia có sự chênh lệc quá lớn về năng lực học tập môn tiếng Anh. Bởi vì nếu điều đó xảy ra sẽ có nhóm học sinh không thể tiến hành được hoạt động BSM theo mong muốn. Các nhóm tự chọn nhóm trưởng (leader) và thư ký (secretary). Trong một số hoạt động hay nhiệm vụ nhất định giáo viên có thể làm đồng thời hai vai trò này. Khi đó nhóm lớn nhất chính là tập thể lớp học sinh và công cụ hỗ trợ lúc này có thể là bảng viết. Bước 2: Giao vấn đề cần BSM cho các nhóm. Ở bước này, giáo viên cần phải làm cho học sinh hiểu rõ yêu cầu và nhiệm vụ mà họ phải hoàn thành. Có thể giao một chủ đề cho tất cả các nhóm để cuối cùng có sự tổng hợp chung và so sánh hiệu quả công việc của các nhóm hoặc mỗi nhóm một vấn đề cần giải quyết độc lập.
  9. Bước 3: Tiến hành hoạt động BSM. Nhóm trưởng sẽ điều khiển các thành viên trong nhóm BSM, tức là yêu cầu tất cả các thành viên đều phải có ý tưởng hay ý kiến về vấn đề và thư ký có nhiệm vụ ghi chép tất cả (ngoại trừ những ý kiến trùng lặp). Trong một số trường hợp có thể chấp nhận ý kiến được đưa ra bằng tiếng Việt nếu một số học sinh có hạn chế về năng lực học tập môn tiếng Anh như vốn từ ít. Các thành viên có thể nói ra ý kiến của mình (speak out) để thư ký ghi chép hoặc viết ra giấy (giấy viết, giấy take- note, giấy sticker tùy theo sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh) các suy nghĩ của mình về vấn đề rồi đưa cho thư ký tổng hợp. Ở bước này, giáo viên là người quan sát tổng quát hoạt động của các nhóm, cung cấp một vài gợi ý hoặc hỗ trợ, hoặc động viên, khích lệ cho một vài đối tượng học sinh nhất định trong các nhóm. Trong trường hợp giáo viên giữ đồng thời hai vai trò: vừa là người điều khiển, vừa là thư ký thì có thể gọi học sinh phát biểu ý kiến, giáo viên viết câu trả lời của học sinh lên bảng một cách ngẫu nhiên không cần sắp xếp theo thứ tự cụ thể nào, hoặc yêu cầu học sinh viết ý kiến ra giấy rồi dán lên bảng. Để thu hút và tạo ấn tượng có thể dùng các giấy sticker, bút nhiều màu sắc.
  10. (Ảnh minh họa) Bước 4: Phân tích các câu trả lời và tìm ra giải pháp cho vấn đề. Trong bước này, tất cả các thành viên trong nhóm lượt lại các câu trả lời, không bình luận hay chỉ trích bất kì phương án nào, đơn giản chỉ là thu gọn những ý trùng lặp, gạt đi những ý không liên quan đến vấn đề và quyết định chọn những câu trả lời phù hợp nhất. Có thể tham khảo một vài ví dụ sau đây: Ví dụ 1: SGK Tiếng Anh lớp 10, unit 3: Music-Lesson 1: Getting started. Để “warm up” cho tiết học này mỗi giáo viên sẽ có một cách thức khác nhau. Đối với tôi, tôi đã chọn áp dụng kỹ thuật BSM để tạo nên một không khí thoải mái cho học sinh trước khi bước vào bài mới với những yêu cầu cụ thể khác nhau.
  11. - (Chưa yêu cầu học sinh mở SGK), tôi viết từ khóa “Music” lên bảng và bắt đầu chia học sinh thành các nhóm. Yêu cầu mỗi nhóm chọn nhóm trưởng và thư ký. - Yêu cầu các nhóm phải tìm ra càng nhiều càng tốt các từ vựng hay hoạt động có liên quan đến chủ đề này trong thời gian 3 phút. - Các nhóm trưởng tự điều khiển các thành viên trong nhóm tìm từ vựng có liên quan đến chủ đề “Music”, khuyến khích mọi thành viên, dù đưa ý kiến bằng tiếng Việt. Các thành viên khác sẽ hỗ trợ tìm từ tiếng Anh tương ứng. - Yêu cầu các nhóm báo cáo kết quả tìm được và giáo viên sẽ thống kê kết quả của các nhóm để tạo nên một sơ đồ từ vựng theo chủ đề rộng nhất có thể. Kết quả của hoạt động BSM được thể hiện trong sơ đồ dưới đây:
  12. rock The piano Pop Types Instruments The guitar Folk music Music Party Concert When to play Wedding Performance Live show Sport events Chúng ta có thể thấy một số lượng lớn các từ vựng có liên quan đến chủ đề này còn có thể được viết tiếp theo các “nhánh”. Như vậy, với kỹ thuật BSM, trong vòng 5-7 phút “warm up”, các nhóm học sinh đã tìm ra được một số lượng lớn các từ vựng theo chủ đề. Với hoạt động này, tất cả học sinh đều đã tham gia đóng góp ý kiến, dù bằng tiếng Anh hay tiếng Việt, kể cả những học sinh có những hạn chế nhất định trong năng lực học tập. Điều quan trọng và cần quan tâm nhất chính là các em đã có ý kiến riêng, nó là kết quả của quá trình tự giác và chủ động tư duy, tự phá bỏ những rào cản của sự tự ti, rụt
  13. rè do những hạn chế của bản thân để tham gia vào hoạt động chung. Và các em bị lôi cuốn vào hoạt động. Với một phần mở đầu như vậy thì những yêu cầu mới của bài học sẽ được các em đón nhận và tìm cách giải quyết trong một tâm trạng thoải mái, tự tin hơn, chủ động hơn, tích cực hơn và tự giác hơn. Và kết quả dễ thấy là bài học sẽ đạt được những hiệu quả nhất định. Ví dụ 2: SGK Tiếng Anh 11, unit 5: Being a part of ASEAN -Speaking. Sau khi học xong phần Reading, học sinh đã nắm bắt được những thông tin cơ bản về các quốc gia ASEAN. Và để các em có cơ hội tìm hiểu thêm thông tin về, giúp các em có nguồn thông tin phong phú và thú vị để bước vào bài học Speaking tôi đã kết hợp kỹ thuật BSM với PPDH dự án: yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm tìm hiểu các thông tin liên quan đến các quốc gia ASEAN trước khi tham gia giờ học Speaking. Để hoàn thành được “dự án” này buộc học sinh phải dùng kỹ thuật BSM để phân tích vấn đề và vạch định xem sẽ phải thu thập những loại thông tin nào. Với kỹ thuật này, học sinh có thể xây dựng một sơ đồ thông tin như sau:
  14. Area ( km2) Capital (cities, ) Population Currency Offical language Famous foods and drinhs The ASEAN countries Time becoming independence New recordsFamous tourism
  15. Với sơ đồ trên học sinh đã có được một lượng lớn thông tin hết sức thú vị để phục vụ cho bài học mới. Học sinh có thể sử dụng bất kì nhóm thông tin nào trong sơ đồ đó để bổ sung thêm phần hỏi - đáp ở Task 1 theo mẫu hội thoại cho sẵn. Việc thu thập và tìm hiểu trước thông tin ở nhà bằng kỹ thuật BSM trong PPDH dự án như trên sẽ giúp học sinh thêm hứng thú với nội dung của bài học mới và tạo được một tâm lí tự tin, sẵn sàng. Ví dụ 3: SGK Tiếng Anh 11, unit 10: Healthy lifestyle phần Writing – Write a story Với yêu cầu của bài học là viết câu chuyện kể về cách những người trẻ thay đổi cách sống để vượt qua khó khăn thì trong một lớp, số học sinh có thể hiểu yêu cầu và thực hiện được yêu cầu là rất ít do học sinh có rất nhiều hạn chế về từ vựng, ngữ pháp (thì của động từ, cấu trúc câu, cách dùng từ ). Do đó, ở phần Before you write tôi sẽ tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm và tiến hành hoạt động BSM để tìm ra càng nhiều càng tốt các ý tưởng có liên quan đến chủ đề viết (và càng chi tiết càng tốt). Tôi yêu cầu học sinh làm việc theo nhóm 6 người. Mỗi nhóm sẽ phải tự suy nghĩ và đưa ra các ý sẽ trong bài viết gồm những gì. Với những hướng dẫn về cách thức từ phía giáo viên, học sinh có thể tiến hành hoạt động BSM với kết quả là một danh sách được liệt kê cụ thể và chi tiết như sau Changing lifestyle - Time (what time, date/ month/ )
  16. - What the problem is (overweight, sleepy sleepless,lonelyness ) - Effects ( Stress,tired ) - How to do - Result Ngoài hệ thống thông tin chi tiết trên giáo viên còn gợi ý cho học sinh xác định về thì của động từ (thì quá khứ đơn), BSM để tìm ra một loạt các động từ có thể được dùng để miêu tả ,sắp xếp lại các ý trên và xếp chúng vào các phần Introduction, Details or conclusion cho phù hợp. Với những gợi ý trên yêu cầu học sinh bắt đầu bài viết của mình bằng những câu đơn giản để miêu tả ý và sau đó sử dụng các từ nối và phần useful language để hoàn thiện bài viết của mình. Dù mỗi bài viết của mỗi cá nhân học sinh khác nhau về chất lượng do sự khác nhau về năng lực học tập nhưng điểm chung ở đây là tất cả học sinh khi tham gia vào hoạt động BSM đều đã tự mình đóng góp ý kiến và đều hình dung được bài viết nên bao gồm những thông tin gì, những thông tin đó được sắp xếp ra sao. Có nghĩa là học sinh hiểu được yêu cầu của bài học và biết cách thực hiện yêu cầu đó. Như vậy, với việc áp dụng kỹ thuật BSM vào trong các khâu của quá trình dạy học, vào các tiết dạy khác nhau, tôi đã khiến học sinh của mình phải làm việc một cách chủ động. Các em phải tư duy để đóng góp ý kiến vào hoạt động dù đôi lúc còn có những hạn chế nhất định nhưng trên hết các em đã vượt qua được những hạn chế đó để tham gia vào hoạt động và để hiểu được yêu cầu của bài học. Điều này góp phần làm cho tiết học thành công.
  17. 7.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến: - Áp dụng được trong quá trình dạy và học môn tiếng Anh cho học sinh cấp THPT. - Đáp ứng yêu cầu về đổi mới trong việc dạy và học Ngoại Ngữ và phù hợp với việc đổi mới phương pháp giảng dạy của bộ môn tiếng Anh nhằm nâng cao hứng thú của học sinh vơi bộ môn. - Phát huy được tính tự giác và sáng tạo của học sinh. - Củng cố được kiến thức, đồng thời giúp các em luyện tập được tốt hơn. - Giáo viên có thể đánh giá khả năng tự nghiên cứu và sáng tạo của từng học sinh. - Có thể áp dụng phương pháp này cho tất cả các đối tượng học. 8. Những thông tin cần được bảo mật: Không 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến: - Học sinh được phép sử dụng các phương tiện dùng trong công nghệ thông tin như: điện thoại Smart phone hoặc các thiết bị nghe nhìn khác trong khi thực hiện nhiệm vụ. 10. Lợi ích của sáng kiến: - Phương pháp dạy học sinh áp dung BSM đạt hiệu quả khá tốt đối với học sinh. Các em tham gia say mê vào hoạt động và kế hoạch của giáo viên hướng dẫn là vì các em yêu thích và say mê môn học, hơn nữa các em thành thạo và thích sử dụng công nghệ thông tin. - Phát huy được tính tự giác và sáng tạo của từng học sinh. - Củng cố được kiến thức, đồng thời giúp các em luyện tập được tốt hơn. - - Giáo viên có thể đánh giá khả năng tự nghiên cứu và sáng tạo của từng học sinh. - Có thể áp dụng phương pháp này cho tất cả các đối tượng học sinh. 10.1. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả: - Phát triển hiệu quả khả năng vận dụng sáng tạo của học sinh, giúp các em có điều kiện để sử dụng kiến thức trong quá trình học tập và đạt được kết quả cao trong học tâp.
  18. 10.2. Lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của các tổ chức cá nhân: - Phương pháp dạy áp dung kỹ thuật BSM sẽ tốn thời gian hơn phương pháp dạy truyền thống nhưng hiệu quả đạt được lại rất cao vì học sinh được phát huy tính tự chủ và tính tự giác sáng tạo của mỗi cá nhân. 11. Danh sách những tổ chức, cá nhân tham gia áp dụng sáng kiến lần đầu. Tên tổ chức/ Phạm vi/ Lĩnh vực áp STT Địa chỉ cá nhân dụng sáng kiến Lớp 10A5, 10A8 Trường THPT Ngô Dạy và học môn Tiếng 1 (năm học 2019 -2020) Gia Tự - Vĩnh Phúc anh Lập Thạch, ngày tháng 2 năm 2020 Lập Thạch, ngày 20 tháng 1 năm 2020 THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ TÁC GIẢ SÁNG KIẾN Nguyễn Nhật Tuấn Đoàn Thị Thanh Loan