SKKN Biện pháp tạo không khí vui vẻ cho học sinh để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp tại lớp 2 - Trường Tiểu học và THCS Trần Quý Hai
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Biện pháp tạo không khí vui vẻ cho học sinh để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp tại lớp 2 - Trường Tiểu học và THCS Trần Quý Hai", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Tài liệu đính kèm:
- skkn_bien_phap_tao_khong_khi_vui_ve_cho_hoc_sinh_de_nang_cao.doc
Nội dung tóm tắt: SKKN Biện pháp tạo không khí vui vẻ cho học sinh để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm lớp tại lớp 2 - Trường Tiểu học và THCS Trần Quý Hai
- CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM BIỆN PHÁP TẠO KHÔNG KHÍ VUI VẺ CHO HỌC SINH ĐỂ NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC CHỦ NHIỆM LỚP TẠI LỚP 2C - TRƯỜNG TIỂU HỌC & THCS TRẦN QUÝ HAI A. SƠ LƯỢC BẢN THÂN: Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Sang Giới tính: Nữ Sinh ngày: 01 tháng 11 năm 1976 Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường TH & THCS Trần Quý Hai Hạng mức chức danh: Giáo viên tiểu học cao cấp Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ: Đại học tiểu học B. NỘI DUNG SÁNG KIẾN: I. PHẦN MỞ ĐẦU Như chúng ta đã biết, giáo viên chủ nhiệm lớp ở trường Tiểu học có một vai trò hết sức quan trọng trong việc thực hiện nhiệm vụ giáo dục học sinh. GVCN là cầu nối giữa nhà trường với học sinh, là sợi dây liên kết không thể thiếu với phụ huynh học sinh, là người chịu trách nhiệm trước nhà trường về mọi hoạt động của lớp, mọi hành vi của học sinh. Khác với bậc học trung học, đối tượng dạy học của chúng ta còn nhỏ tuổi, các kĩ năng hoạt động còn hạn chế, ý thức tổ chức kỉ luật và ý thức tự giác của các em chưa cao, một số em còn ngại tiếp xúc với thầy cô, bạn bè, còn e dè, sợ sệt khi chưa hoàn thành nhiệm vụ lớp giao, chưa cởi mở thân thiện với bạn bè, thầy cô Do đó để tạo không khí vui vẻ, sự hứng thú cho học sinh tiểu học đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều thời gian và công sức. Vậy làm sao và làm như thế nào để tạo không khí vui vẻ, sự thân thiện và ấm áp cho học sinh tiểu học trong hoạt động dạy học cũng như chủ nhiệm? Đó là nỗi trăn trở không chỉ của riêng tôi mà mỗi thầy cô giáo chủ nhiệm lớp đều phải suy nghĩ. 1
- II. NỘI DUNG 1. Thời gian thực hiện: Bắt đầu nghiên cứu sáng kiến kinh nghiệm từ năm học 2018-2019 và viết sáng kiến kinh nghiệm từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 02 năm 2020. Tiếp tục áp dụng cho năm học 2019-2020 tại lớp 2C Trường TH&THCS Trần Quý Hai, thành phố Quảng Ngãi. 2. Đánh giá thực trạng a. Kết quả đạt được của lớp trước khi áp dụng biện pháp: Năm học 2019-2020 tôi được Nhà trường phân công chủ nhiệm lớp 2C. Với tổng số học sinh: 32 em; nữ: 16. Số lượng học sinh không đông, việc quản lý, giáo dục các em tương đối thuận lợi. Từ đầu năm, qua trao đổi, tìm hiểu, tôi hướng tới một vài số liệu có nội dung chủ yếu sau: Tổng số HS Nội dung tìm hiểu Số lượng Tỉ lệ 1) Học sinh chưa tự tin trong giao tiếp. 12 37,5% 2) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm. 10 31,2% 3) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép. 13 40,6% 4) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 5 15,6% 5) Học sinh chưa tự tin trong học tập. 9 28,1% 32 6) Học sinh cá biệt. 3 9,4% 7) Học sinh chưa đồng phục . 3 9,4% 8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè . 7 21,9% 9) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng, 9 28,1% 10) Học sinh hứng thú vui vẻ trong các hoạt động 15 46,9% Kết quả trên cho thấy, tỉ lệ học sinh thuộc các nội dung trên chiếm nhiều so với tổng số học sinh của lớp. b. Những mặt còn hạn chế Đa số gia gia đình là nông dân, thời gian đi làm là nhiều, ít có thời gian dành cho sự dạy dỗ, chỉ bảo cho con cái. 2
- Lớp có 1 em cận nghèo, một số em gia đình kinh tế còn khó khăn nên ảnh hưởng đến cuộc sống của các em, sự chăm lo về mọi mặt không được đầy đủ, chu đáo. Trí tuệ cũng như khả năng nhận thức (tiếp thu) của các em cũng không đồng đều. Có một số em không chú ý, không có thái độ tích cực học, mà đến lớp như một thói quen, với thái độ lơ đễnh. Khi cô giáo giảng xong, hỏi lại là không biết gì, chính vì vậy những em đó thường hay tự ti, mặc cảm, sợ sệt, nhút nhát, chưa biết thể hiện mình. Đa số vốn giao tiếp của các em rất hạn chế, lời nói chưa được to, rõ ràng, hay có kiểu nói rất nhỏ, nói lắp bắp, không thể nghe được. c. Nguyên nhân đạt được và nguyên nhân hạn chế c.1. Nguyên nhân đạt được Được sự quan tâm của Phòng GD&ĐT thành phố Quảng Ngãi, Ban giám hiệu nhà trường và tập thể sư phạm của Trường. Trường học xanh, sạch, đẹp, phòng học khang trang, thoáng mát, cơ sở vật chất đầy đủ. Phần đông các em được gia đình quan tâm, trang bị tương đối đầy đủ về trang phục, đồ dùng học tập, sách giáo khoa, . c.2. Nguyên nhân hạn chế Trong quá trình dạy học trên lớp, hằng ngày tôi trực tiếp tổ chức và hướng dẫn các em về mọi mặt, tôi thấy một số em khả năng giao tiếp còn hạn chế, tiếp thu bài chậm, có thái độ thờ ơ. Các em chưa tự tin, mạnh dạn trong tŕnh bày ý kiến của mình. Ngược lại trốn tránh, mặc cảm, nhút nhát, sợ sệt. Ở lứa tuổi này các em luôn muốn tự làm theo ý thích của bản thân và ham chơi nhiều hơn là ham học; Đồng thời các em cũng dễ bị cám dỗ, bắt chước theo bạn bè. Các em luôn muốn tìm hiểu, khám phá thế giới xung quanh mình. Chính vì vậy, phải học tập, thực hiện theo những khuôn khổ của nhà trường là việc các em cảm thấy không thoải mái. Vậy phải làm gì để giúp các em học tập tốt, rèn đạo đức theo những nội quy, quy định của nhà trường với tâm lý thoải mái, thích thú hơn là bị ép buộc ? Muốn làm được điều này, công tác chủ nhiệm lớp là một trong những yếu tố quan trọng nhất mà giáo viên cần phải thực hiện. III. GIẢI PHÁP THỰC HIỆN 1. Căn cứ thực hiện - Căn cứ nội dung, mục tiêu, nhiệm vụ năm học Đây là văn cứ cần thiết vì chỉ trên cơ sở nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ năm học của Bộ, chương trình hoạt động và dạy học của Nhà trường thì người giáo viên 3
- chủ nhiệm mới có cơ sở xây dựng kế hoạch hoạt động của lớp mình thiết thực và đảm bảo hiệu quả giáo dục, cụ thể ở các văn bản cần thiết như : Mục tiêu cấp học. Chỉ thị từng năm học – thực chất đó là nhiệm vụ trọng tâm hàng năm. Chương trình giảng dạy của Bộ. Kế hoạch năm học của nhà trường. Một số văn bản hướng dẫn các công tác liên quan đến vấn đề giáo dục, dạy học. Luật giáo dục sửa đổi. Giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững các văn bản trên để vận dụng phù hợp vào công tác chủ nhiệm lớp của mình. Căn cứ đặc điểm của đối tượng lớp mình phụ trách và các yếu tố tác động đến các em bao gồm đặc điểm tâm sinh lý, nhân cách, năng lực của mỗi em, hoàn cảnh gia đình và sự quan tâm của gia đình đối với con em. Phối kết hợp nhiều phương pháp, phối hợp với tổ chức, đoàn thể trong và ngoài nhà trường. - Sự chỉ đạo sát sao của Ban giám hiệu nhà trường và tổ khối - Sự giúp sức các lực lượng khác nhau như: bảo vệ, thư viện, văn thư, y tế nhà trường để giáo dục, quản lí học sinh. 2. Nội dung, giải pháp và cách thức thực hiện a. Nội dung, phương pháp a.1- Nội dung Để nâng cao hiệu quả công tác chủ nhiệm tốt đòi hỏi giáo viên phải có phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề, yêu thương tận tụy với học sinh. Giáo viên chủ nhiệm phải hoàn thành tốt các nhiệm vụ tìm hiểu và nắm vững học sinh trong lớp về mọi mặt, cộng tác chặt chẽ với gia đình học sinh và phối hợp với giáo viên bộ môn, tổ chức Đội TNTP để giáo dục học sinh trong lớp mình chủ nhiệm. Công tác giáo dục học sinh, nhất là học sinh cá biệt và giúp đỡ học sinh khó khăn đạt hiệu quả cao và đặt biệt là đưa phong trào của lớp đạt kết quả. Giáo viên chủ nhiệm phải tích cực nghiên cứu và ứng dụng khoa học tâm lý - giáo dục để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ giáo viên chủ nhiệm lớp và các nhiệm vụ khác. Đặc biệt phải có phẩm chất tâm lý của người làm cha, làm mẹ, là người bạn lớn của học sinh, góp phần hình thành và phát triển nhân cách của các em một cách có hiệu quả a.2. Phương pháp Phương pháp nghiên cứu để thực hiện sáng kiến mà tôi đã sử dụng là: - Phương pháp quan sát; 4
- - Phương pháp điều tra; - Phương pháp thực nghiệm; - Phương pháp thống kê phân loại-so sánh đối chứng; - Phương pháp phân tích tổng hợp; b. Giải pháp thực hiện b.1- Xây dựng mối quan hệ giữa giáo viên - học sinh ngay từ đầu năm học Trong quá trình đổi mới phương pháp dạy và học, quan hệ thầy – trò đã trở thành thân thiện, gần gũi như là những người bạn thực sự, người giáo viên chỉ là người tổ chức, hướng dẫn cho các em trong quá trình dạy học. Thế nên, muốn làm tốt công tác chủ nhiệm, người giáo viên cần phải xây dựng mối quan hệ tốt và chặt chẽ để đưa tập thể lớp đi vào nề nếp ngay từ đầu năm, tạo sự gần gũi, sự mạnh dạn, sự vui vẻ và cởi mở thân thiện hơn, thì lớp học đó mới đạt được nhiều thành tích trong suốt năm học. Để làm tốt công tác này, tôi hướng tới thực hiện những việc làm sau: a) Bầu ban cán sự lớp: Một trong những nhiệm vụ trọng tâm mà tôi đặt ra từ đầu năm là xây dựng đội ngũ Hội đồng tự quản có uy tín, có trách nhiệm, có năng lực và bản lĩnh. Tôi tiến hành cho các em bầu Hội đồng tư quản, việc làm dân chủ này khiến cả lớp rất hào hứng. Căn cứ vào năng lực và khả năng của từng em, dựa trên số phiếu tín nhiệm của tập thể lớp, tôi giao việc (Chủ tịch hội đồng tự quản), các phó chủ tịch hội đồng tự quản) và các trưởng ban, phó ban. Tôi dành thời gian hướng dẫn cho các em những kĩ năng cần thiết như theo dõi, nhận xét, đánh giá từng cá nhân cũng như từng mặt hoạt động theo chức trách được giao. Tôi luôn song hành cùng HS để thường xuyên kiểm tra đôn đốc các em thực hiện nhiệm vụ. b) Nắm thông tin học sinh: Việc nắm các thông tin của học sinh đầu năm là rất cần thiết, có được thông tin học sinh giúp cho giáo viên chủ nhiệm nắm được hoàn cảnh gia đình, lực học của năm học trước, Vì thế ngay từ đầu năm, tôi đã làm Phiếu ghi thông tin học sinh, phát cho từng em, hướng dẫn các em ghi đầy đủ, rõ ràng, sau đó thu lại để phục vụ cho công tác chủ nhiệm lớp của mình. c) Xử lý thông tin: 5
- Sau khi thu phiếu điều tra, tôi đã có đầy đủ các thông tin của học sinh, phục vụ cho những việc sau: + Xếp chỗ ngồi học sinh: Tôi dựa vào kết quả học lực của các em, phần nào nắm được những em có thành tích học tập tốt hay những em cần giúp đỡ, để xếp chỗ ngồi cho hợp lý như: Nam ngồi xen kẽ nữ, em có thành tích học tập tốt ngồi với em chậm tiến bộ và có biện pháp để các em giúp đỡ nhau trong học tập (phân công đôi bạn cùng tiến, thi đua lập thành tích học tập tốt giữa các tổ ) + Trao đổi, chia sẻ: Tôi chủ động đến gặp gia đình một số em, để hỏi thăm thêm về hoàn cảnh sống thường ngày của gia đình, động viên, chia sẻ, giúp đỡ với khả năng của mình, nếu nằm ngoài khả năng tôi đề nghị lên BGH nhà trường, các nhà hảo tâm, Hội khuyến học, hội cha mẹ hs tạo điều kiện giúp đỡ để các em hoàn thiện hơn. b.2- Tạo không khí vui vẻ cho HS thông qua việc xây dựng “Lớp học thân thiện, học sinh tích cực” Thực hiện kế hoạch số 307/KH-BGD&ĐT ngày 22/07/2008 của Bộ giáo dục và đào tạo về kế hoạch triển khai “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” nhằm nâng cao giáo dục toàn diện, đặc biệt là giáo dục đạo đức, nhân cách, kĩ năng sống cho học sinh. Qua nhiều năm thực hiện bản thân tôi thấy nó đem lại hiệu quả rất cao cho ngành giáo dục nói chung và nhất là trường Tiểu học nói riêng. Để xây dựng một trường học thân thiện thì mỗi giáo viên chủ nhiệm lớp phải xây dựng lớp học thân thiện. Vì vậy, để gần gũi với các em, tạo cho các em sự thích thú, say mê, niềm phấn khởi ngay từ đầu năm tôi cùng một số phụ huynh và các em trang trí lớp học theo ý thích của lớp, với nhiều nội dung, hình ảnh phong phú, đa dạng phục vụ cho việc học tập tốt hơn, mang lại nhiều niềm vui hơn cho các em mỗi ngày đến lớp. Một số hình ảnh GVCN, cùng phụ huynh, học sinh trang trí tại lớp 2C trường TH & THCS Trần Quý Hai 6
- b.3- Tạo không khí vui vẻ cho học sinh thông qua trang phục, cách giao tiếp của GV-HS và GV phải luôn là những người vui tính khi đến lớp: Sự vui vẻ, hài hước là liều thuốc tốt nhất cho giáo dục. Chính vì vậy mà tôi đã áp dụng phương pháp “vừa học vừa chơi”. Phương pháp này giúp trẻ dễ tiếp thu mà còn giúp trẻ chủ động, vận động não bộ nhiều hơn theo chiều hướng tích cực. Giáo viên càng hài hước, dí dỏm học sinh càng thích học. Ngoài ra, để tạo không khí vui vẻ cho học sinh thì ngay từ đầu giáo viên phải tạo được niềm tin và tình cảm thực sự mà học sinh dành cho mình qua cách ăn mặc, đi đứng, nói năng đúng chuẩn mực đạo đức. Khi vào lớp giáo viên phải tạo được bầu không khí tươi vui, thoải mái, có thể chỉ bằng những câu nói tiếng cười, nét mặt vui vẻ của giáo viên. Giáo viên không nên gây căng thẳng nặng nề trong giờ học, nhất là giáo viên vào lớp mà gắt gỏng hoặc vào lớp với khuôn mặt nặng nề. Giáo viên phải luôn tôn trọng ý kiến trả lời của học sinh, không nên gò ép học sinh vào khuôn phép cứng nhắc, tránh thái độ yêu cầu học sinh trả lời sắp xếp ngay theo thứ tự của mình. Khuyến khích tuyên dương động viên học sinh một cách tế nhị, hợp lí khi học sinh trả lời đúng câu hỏi hoặc học sinh không trả lời được câu hỏi. Từ đó sẽ tạo cho học sinh có được niềm tin vào khả năng của bản thân. Giáo viên cần phải cải tiến và sáng tạo đồ dùng dạy học, thiết kế thí nghiệm phù hợp với điều kiện của trường mình, sử dụng phương pháp dạy học nhóm hoặc dùng phiếu học tập hợp lí. b.4- Xây dựng tình cảm “cô giáo như mẹ hiền” Trẻ ở độ tuổi của học sinh tiểu học rất hiếu động, luôn tò mò và thích khám phá những điều mới lạ chính vì vậy để trẻ “ngoan” theo đúng tiêu chí của người lớn thật không dơn giản chút nào. Trong giai đoạn này dù trẻ có nghịch ngợm, không nghe lời bao nhiêu thì các bậc phụ huynh và giáo viên cũng không nên quát tháo, sử dụng đòn roi để răn đe. Bạo lực học đường và áp lực tâm lý sẽ tác động xấu đến quá trình hình thành nhân cách của trẻ. Người giáo viên tiểu học vừa làm cô, vừa làm bạn mà cũng vừa là cha mẹ của các em trên chặng đường chinh phục tri thức và hoàn thiện nhân cách. Ngoài giỏi kiến thức chuyên môn, lập trường chắc chắn, các giáo viên luôn phải dành trọn yêu thương học sinh như con của mình, có như vậy giữa cô trò mới có sự gắn kết, có sự vui vẻ thỏa mái và gần gũi hơn. 9
- Giáo viên hướng dẫn học sinh luyện viết b.5- Tạo không khí vui vẻ cho học sinh tiểu học bằng cách phối hợp các phương pháp và các hình thức dạy học linh hoạt Ngoài việc khai thác sự lí thú trong chính nội dung dạy học, hứng thú của HS còn được hình thành và phát triển nhờ các phương pháp, thủ pháp, hình thức tổ 10
- chức dạy học phù hợp với sở thích của các em. Đó chính là cách tổ chức dạy học dưới dạng các trò thi đố nhau, các trò chơi, tổ chức hoạt động sắm vai, tổ chức hoạt động học theo nhóm, tổ chức dạy học dự án, tổ chức dạy học ngoài không gian lớp học Với lối giáo dục truyền thống, mỗi khi bước vào lớp, thầy cô giáo thường kiểm tra học sinh về việc chuẩn bị bài mà ít khi chú tâm xem học sinh muốn gì ở thầy cô? Việc tạo áp lực học tập sẽ khiến tiết học nhàm chán, tẻ nhạt và không có hiệu quả. Trong môi trường giáo dục tiên tiến hiện nay, giờ học của học sinh tiểu học rất thoải mái không phải ngồi yên một chỗ. Các giáo viên tiểu học phải khéo léo kết hợp các môn học với những phần trò chơi liên quan để tăng hiệu quả giáo dục. Ở lứa tuổi tiểu học, trẻ còn rất non nớt và chưa thích nghi với cuộc sống. Thay vì để trẻ nói câu “cô cùng con chơi trò chơi nhé!” thì các giáo viên tiểu học phải chủ động đồng hành cùng trẻ tổ chức và tham gia các trò chơi. Chơi là một nhu cầu cần thiết đối với học sinh tiểu học, có thể nói nó quan trọng như ăn, ngủ, học tập trong đời sống các em. Chính vì vậy các em luôn tìm mọi cách và tranh thủ thời gian trong mọi điều kiện để chơi. Và trong buổi chia sẻ ngày hôm nay, tôi xin giới thiệu một số trò chơi học tập để tạo không khí vui vẻ, thỏa mái cho học sinh tiểu học. 11
- a. Trò chơi khởi động đầu tiết học: Để tạo không khí vui vẻ cho học sinh xuyên suốt trong một buổi học thì cách vào bài có lôi cuốn, hấp dẫn hay không là điều vô cùng cần thiết. Thay vì vào bài trực tiếp thì các thầy cô hãy bắt đầu với một vấn đề mà có thể thu hút học sinh tham gia và đó cũng là cách hiệu quả nhất để tạo không khí ngay từ đầu tiết học. Cụ thể: * Trò chơi: Ong đi tìm nhụy - Cách chơi: Chọn 2 đội, mỗi đội 4 em + Giáo viên chia bảng làm 2, gắn mỗi bên bảng một bông hoa và 5 chú Ong, ở bên dưới không theo trật tự, đồng thời giới thiệu trò chơi. + Cô có 2 bông hoa trên những cánh hoa là các kết quả của phép tính, còn những chú Ong thì chở các phép tính đi tìm kết quả của mình. Nhưng các chú Ong không biết phải tìm như thế nào, các chú muốn nhờ các con giúp, các con có giúp được không ? + 2 đội xếp thành hàng dọc. Khi nghe hiệu lệnh “bắt đầu” thì lần lượt từng bạn lên nối các phép tính với các số thích hợp. Bạn thứ nhất nối xong phép tính đầu tiên, trao phần cho bạn thứ 2 lên nối, cứ như vậy cho đến khi nối hết các phép tính. Trong vòng 1 phút, đội nào nối đúng và nhanh hơn là đội chiến thắng. * Trò chơi : Bắn Tên - Luật chơi: 12
- + Người quản trò sẽ hô: "Bắn tên, bắn tên" và cả lớp sẽ đáp lại: "tên gì, tên gì" + Sau đó, người quản trò sẽ gọi tên bạn học sinh trong lớp và đặt câu hỏi để bạn đó trả lời. + Nếu trả lời đúng thì cả lớp sẽ vỗ tay hoan hô. Lưu ý: Các câu hỏi có thể liên quan đến bài đã học nhằm ôn lại bài cũ cho học sinh b.Trò chơi giữa tiết và chuyển tiết: Đôi khi học tập vất vả, học sinh rất cần đến những lúc giải lao và khi ấy những trò chơi luôn tạo nên sự thu hút và khiến không khí căng thẳng không còn nữa. Sau mỗi tiết học, giờ chuyển tiết chính là thời gian mà học sinh thư giãn, giải lao để bước vào tiết học tiếp theo đạt hiệu quả. Tuy nhiên, đó cũng là lúc nhiều học sinh gây ồn ào, mất trật tự, ảnh hưởng đến các lớp học khác. Trong bài viết này, xin giới thiệu một số trò chơi ổn định học sinh, không gây ồn ào trong giờ chuyển tiết. * Trò chơi: cô bảo - Cách chơi: + Cô: cô bảo, cô bảo. + Trò: Bảo gì? Bảo gì? + Cô: cô bảo cả lớp hãy yên lặng + Cô bảo cả lớp khoanh tay lên bàn + Cô bảo cả lớp hãy lắng nghe cô giảng bài c) Trò chơi trong tiết sinh hoạt lớp: Trong các tiết sinh hoạt lớp thì các trò chơi luôn rất cần thiết và có thể nói là không thể thiếu. Sau những giờ học căng thẳng các trò chơi trong tiết sinh hoạt sẽ giúp các em học sinh cảm thấy thoải mái và thư giãn hơn, để từ đó học tập tốt hơn. Sau đây, tôi xin giới thiệu một số trò chơi dành cho học sinh tiểu học trong tiết sinh hoạt lớp thú vị ,vui vẻ. * Trò chơi: Alibaba Cách chơi: Người quản trò sẽ hát theo nhịp bài hát Alibaba với lời đi kèm với những hành động, buộc các bạn trong lớp phải làm theo và hát vang "Alibaba", ví dụ như: Xưa kia kinh đô Bát- đa có một chàng trai đáng yêu gọi tên - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta đứng ngay ngắn lên - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta giơ tay phải lên - Alibaba 13
- Alibaba yêu cầu chúng ta giơ tay trái lên - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta vỗ tay thật to - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta vỗ tay trên cao - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta vỗ tay lắc hông thật nhanh - Alibaba Alibaba yêu cầu chúng ta học hành ngay ngắn - Alibaba *Trò chơi "Tôi cần" - Cách chơi: + Lấy những vật theo yêu cầu của quản trò. + Quản trò chia tập thể thành các đội tuỳ theo số lượng người chơi. + Quản trò hô "Tôi cần, tôi cần", người chơi đáp "Cần gì, cần gì?" + Quản trò hô "Tôi cần 3 cái bút" Các đội chơi phải mang đủ 3 cái bút lên cho quản trò, đội nào mang lên nhanh, đủ là thắng. + Cứ như vậy quản trò có thể gọi các đồ vật khác nhau, như: vở, sách Lưu ý: mỗi đội lần lượt cử 1 người chơi mang lên. d) Một số câu đố tạo không khí vui vẻ cho học sinh Để tiết học không còn nhàm chán, đơn điệu và tạo không khí vui vẻ hơn cho học sinh thì những câu đố vui về học tập cũng sẽ giúp chúng ta làm điều đó. Vì vậy, song song với những kiến thức trong sách, chúng ta có thể thêm một vài câu đố thơ vào tiết dạy, giúp các em thay đổi bầu không khí, tiếp thu hiệu quả hơn. Và sau đây sẽ là một số câu đố tạo hứng thú, sự vui vẻ dành cho học sinh tiểu học: * Bọn em hai đứa cùng tên Đứa đựng sách vở, đứa trên mái đầu. Đáp án: Cặp sách, cặp tóc * Thân bằng gỗ Mặt bằng da Hễ động đến Là kêu la Gọi bạn tới Tiễn bạn về Đứng đầu hè Cho người đánh. Đáp án: Cái trống 14
- * Mình tròn thân trắng Dáng hình thon thon Thân phận cỏn con Mòn dần theo chữ. Đáp án: Viên phấn * Cái gậy cạnh quả trứng gà Đem về khoe mẹ cả nhà mừng vui. Đáp án: số 10 * Con gì đến chán Giống ngỗng, giống ngan Bơi trên bài làm Của anh lười học. Đáp án: số 2 * Tất cả các môn học Xếp hàng trong từng ô Giúp cho bạn biết được Sách vở cho mỗi giờ. Đáp án: thời khóa biểu Các phương pháp, biện pháp trên được sử dụng một cách linh hoạt, không nhất thiết phải theo thứ tự trước, sau, sử dụng bất kỳ lúc nào, trường hợp nào tôi cảm thấy phù hợp, cùng một lúc có thể sử dụng cả hai biện pháp, Cuối cùng nhằm giúp các em hưởng ứng mạnh mẽ, hứng thú, phấn khởi và cảm thấy “mỗi ngày đến trường là một niềm vui”. IV. KẾT LUẬN 1. Kết quả đạt được: Dưới đây là kết quả thu được từ khi áp dụng các biện pháp trên từ đầu năm học đến nay: Đến thời điểm hiện tại tháng 1/ 2020 có kết quả như sau: Tổng số Số Nội dung tìm hiểu Tỉ lệ HS lượng 32 1) Học sinh chưa tự tin trong giao tiếp. 5 15,6% 15
- 2) Học sinh học chưa chú ý, tiếp thu chậm. 5 15,6% 3) Học sinh nói trống không, chưa lễ phép. 4 12,5% 4) Học sinh còn quậy phá, chọc bạn, đánh bạn. 2 6,2% 5) Học sinh chưa tự tin trong học tập. 3 9,4% 6) Học sinh cá biệt. 0 0% 7) Học sinh chưa đồng phục . 0 0% 8) Học sinh còn trầm, tự ti, rụt rè . 3 9,4% 9) Học sinh hay quên vở, sách, đồ dùng, 2 6,2% 10) Học sinh hứng thú vui vẻ trong các hoạt động 32 100% Ngoài số liệu khảo thí trên, lớp còn có những thành tích nổi bật sau: Lớp có nề nếp tốt: Các em ngoan, hiền, biết vâng lời làm theo và làm đúng với lời chỉ bảo của cô giáo, trong lớp chú ý nghe cô giáo giảng bài. Là lớp rất đoàn kết, các em luôn thương yêu giúp đỡ lẫn nhau trong học tập, trong lao động, có tinh thần tự giác, trách nhiệm cao. Thực hiện tốt 5 điều Bác Hồ dạy, Đa số các em tích cực trong mọi hoạt động, nhất là trong học tập. Đặc biệt ban cán sự của lớp rất có năng lực, các em mẫu mực, học tốt, viết chữ đẹp, nhanh nhẹn, luôn làm tốt mọi công việc được giao. Về rèn luyện giữ gìn vở sạch, viết chữ đẹp: Đa số các em có ý thức giữ gìn sách vở sạch, đẹp luôn bao bọc, nhãn tên, viết bài đầy đủ, không quăn góc, không bôi bẩn, không xé rách , chữ viết luôn luôn trau dồi, rèn luyện dưới sự uốn nắn, hướng dẫn của cô giáo. Đặc biệt có một số em viết tốt như: em Thuyên Nguyên, Bảo Trâm, Minh Thuận, Quỳnh Trân - Về trang trí lớp: Đạt giải A Trong một thời gian thực tế áp dụng các biện pháp, giải pháp nêu trên từ đầu năm đến nay, kết quả thu được khả quan hơn rất nhiều. Kết quả hai môn Toán, Tiếng Việt đạt chất lượng cao hơn so với đầu năm, số lượng các em thuộc các nội dung trên giảm đáng kể, điều này cho tôi thấy được phần nào an tâm hơn khi làm công tác chủ nhiệm lớp. Với kết quả này, tôi sẽ tiếp tục duy trì, áp dụng và luôn giúp đỡ các em cho đến cuối năm học, tôi tin rằng kết quả cuối năm sẽ đạt được như mong muốn. 2. Phạm vi áp dụng, vận dụng vào thực tiễn: 2.1. Phạm vi áp dụng: 16
- Sáng kiến kinh nghiệm áp dụng tại lớp 2C Trường TH&THCS Trần Quý Hai trong năm học 2019-2020. Tiếp tục vận dụng cho giáo viên làm công tác chủ nhiệm ở tiểu học. 3. Đề xuất, kiến nghị Mỗi giáo viên, ai cũng muốn học sinh của mình chăm ngoan, học giỏi, phát triển toàn diện, để sau này trở thành người có ích cho xã hội. Mỗi học sinh Tiểu học như những cây non, chúng ta cần uốn nắn, chăm chút cẩn thận, nhẹ nhàng chỉ bảo, nêu gương nhiều hơn là khiển trách để giúp học sinh tự tin vào bản thân mình và phát triển toàn diện hơn. Đứng trước vai trò, vị trí, tầm quan trọng của một giáo viên chủ nhiệm tôi luôn tìm tòi, học hỏi trau dồi nhiều kinh nghiệm hơn nữa, để sao cho lớp mình chủ nhiệm luôn đạt được kết quả và thành tích cao trong mọi lĩnh vực. Chắc chắn rằng giải pháp đưa ra còn nhiều hạn chế, thiếu sót do đúc kết từ kinh nghiệm giảng dạy của cá nhân. Trên đây là một giải pháp nhằm tạo không khí vui vẻ cho học sinh tiểu học để nâng cao hiệu quả chủ nhiệm. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của Ban giám khảo và các đồng chí, đồng nghiệp để bản thân có nhiều biện pháp hay hơn, góp phần làm tốt hơn nữa công tác chủ nhiệm cũng như giảng dạy của mình. Thủ trưởng đơn vị Quảng Ngãi, ngày tháng năm 2020 Người viết Nguyễn Thị Minh Sang 17