SKKN Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học

pdf 26 trang binhlieuqn2 03/03/2022 5680
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • pdfskkn_loi_quan_hoc_sinh_vao_tiet_hoc_qua_nhung_cau_truyen_ke.pdf

Nội dung tóm tắt: SKKN Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học

  1. Vào thời gian trên tại Thuỷ Điển, nhà hoá học Slie cũng đã tìm ra oxi bằng nhiều cách: nhiệt phân muối nitrat, nung nóng muối magienitrat, và cả bằng chưng cất hỗn hợp sanpêt với axit sufuric. Ông gọi khí mới là “không khí lửa”. Bản luận văn này mãi đến năm 1777 mới xuất bản. Nếu căn cứ vào năm xuất bản thì tác giả phải là Sile không thể đồng chấp nhận được là Pritxli. Tuy nhiên có những chứng cứ khác bảo đảm nhà hóa học Thụy Điện đã tìm ra ít nhất ba tháng trước nhà hóa học Anh. Chứng cứ đó là: năm 1775 một nhà hóa học Thụy Điện khác tên là Becman (T. Becman) đã công bố một bài báo nói về sự thật khám phá ra “không khí lửa” bởi nhà hóa học Sile. Như vậy, vấn đề công bố trên tạp chí, nhất là tạp chí chuyên ngành, là cơ sở để giữ bản quyền tác giả. Năm 1774, trên một tờ báo nhà hóa học Baiyawng (P. Bayen) cho rằng có một dòng khí nặng hơn không khí thường, đã dính vào kim loại trong quá trình nung. Ông đã thu được dòng khí đó khi mhiệt phân hợp chất của thủy ngân. Ông còn nói thêm rằng khí này có thể biến kim loại thủy ngân thành hợp chất màu đỏ. Đáng tiếc ông không tiếp tục đề tài của mình. Ở Pháp còn một nhà hóa học nữa, tên tuổi quen thuộc với chúng ta, đó là Lavoadie, vào thời gian này cũng đang nghiên cứu nguyên nhân tăng khối lượng của kim loại khi nung. Nhà khoa học này đã nghi ngờ về tính khoa học của thuyết nguyên tố. Ông đã nghiên cứu một chất khí cháy trong không khí và nhận định rằng không khí không phải là một vật thể đơn giản. Trong không khí có phần duy trì sự cháy. Phần duy trì sự cháy là chất khí thuận lợi nhất cho sự hô hấp. Đến tháng tư năm 1775, Lavoadiê đã đọc một bản báo cáo trước viện hàn lâm khoa học Pari, trong đó ông tuyên bố đã khám phá ra Oxi, ông viết rằng oxi được tìm ra đồng thời bởi Sile, Pitxli và ông. Tuy nhiên, về phương diện pháp lí người ta chỉ thừa nhận Pritxli và Sile mà thôi. Lí do là tháng 10 năm 1774, hai tháng sau khi làm thí nghiệm đốt thủy ngân 15
  2. oxit Pritxli có sang Pari và có kể lại cho Lavoadie nghe những thí nghiệm mà ông đã làm. Cho dù Lavoadie không được công nhận công đầu trong việc tìm ra oxi, nhưng toàn thế giới đều công nhận công lao vô cùng to lớn của Lavoadie trong việc làm cho nguyên tố oxi có tầm quan trọng hàng đầu. Lavoadie ý thức được hơn ai hết vai trò của nguyên tố này. Có được oxi trong tay, Lavoadie đã giải thích đúng đắn sự tăng khối lượng của kim loại khi nung. Ông đã thức tỉnh các nhà hóa học thế giới cuối thế kỉ 18, làm cho họ tự nguyện bỏ thuyết nhiên tố và công nhận thuyết mới về sự cháy tức là “thuyết oxi”. Cây cối là nguồn cung cấp oxi lớn nhất cho khí quyển. Con số tính được là vào khoảng 400 000 triệu tấn / năm. 3. SELEN (Se) (1817) Bộ ba lưu huỳnh, selen, telu gọi là họ chancogen, thuộc phân nhóm chính nhóm VI. Lưu huỳnh vì có ở trạng thái tự sinh nên đã được loài người biết đến thời thượng cổ. Lẽ ra nguyên tố selen được tìm ra sớm hơn nhiều, bởi vì nó thường lẫn trong khoáng vật của lưu huỳnh và mỏ lưu huỳnh. Năm 1817 nhá hóa học Thụy Điện Bacdeliut mới tìm ra được selen trong bã thải của các nhà máy điều chế axit sunfudric. Tháng 9 năm 1817, Becdeliut cùng người trợ lí của mình là Gan (G. Gahn) đi kiểm tra nhà máy sản xuất axit sunfudric. Hai ông quan sát thấy trong axit mới điều chế có một kết tủa hơi có màu. Đưa kết tủa đốt trên ngọn đèn hàn thì nó biến thành những hạt có ánh chì và có mùi củ cải tía. Quan niệm của một số nhà hóa học thời kì ấy cho rằng đó là dấu hiệu của nguyên tố telu, bởi vì telu là nguyên tố tương tự như lưu huỳnh đã được tìm ra cuối thế kỉ 18. Phân tích kĩ nhiều lần kết tủa, Becdeliut kết luận rằng trong kết tủa có chứa một kim loại chưa biết, tính chất của nó giống với tính chất của telu. 16
  3. Kết quả của việc nghiên cứu kết tủa và một số tính chất của nguyên tố đã được công bố trên tạp chí “Niên giám hóa học và vật lí”. Ông đề nghị đặt tên nguyên tố mới là selen, theo tiếng Hi Lạp có nghĩa là mặt trăng (vệ tinh của trái đất). Cùng nhóm với telu, nguyên tố này có những tính chất tương tự và được dùng làm tế bào quang điện và để nắn dòng điện xoay chiều. Những máy ảnh hiện đại có bộ phận đo ánh sáng làm bằng selen. 4. Telu (Te) (1782) Nhóm VI của bảng hệ thống tuần hoàn có 2 phân nhóm. Phân nhóm phụ: Cr, Mo, W được tìm ra cuối thế kỉ 18. Phân nhóm chính gồm có O, S, Se, Te, Po. Trong nhiều sách giáo khoa, người ta quen gọi bộ ba nguyên tố: lưu huỳnh, selen, telu là họ chancogen, để chỉ 3 nguyên tố này trong nhóm VIA. Chữ “chalcos” theo tiếng Hi Lạp có nghĩa là vỏ quả đất. Nói là họ hàng cũng đúng, bởi vì chúng giống nhau về tính chất hóa học. Hơn nữa, Se và Te là vệ tinh của S. Đáng tiếc, Se trốn quá kĩ sau S và Te nên mãi đến đầu thế kỉ 19 mới xuất hiện, thành thử họ chancogen rất gần về huyết thống nhưng tuổi tác lại rất xa nhau! Telu coi như 3 lần được cấp giấy khai sinh, lần thứ nhất là vào năm 1782, một kỉ sư mỏ nước Áo tên là Mulơ đẫ phân tích hóa học một thứ quặng trắng được tìm thấy ở nước Áo và đã tách được ở dạng hạt kim loại, trông có vẻ giống antimo. Sau một năm nghiên cứu ông cho biết đó là một kim loại chưa biết. Để vững lòng tin, ông đã gởi một mẫu quặng đến các nhà khoáng vật nổi tiếng Thụy Điện Becman. Mẫu quặng quá bé không đủ để kết luận. Thời gian trôi Ngày sinh thứ 2 là 25 – 1 – 1798. Tại viện hàn lâm khoa học Beclin, nhà hóa học Đức Claprot đã thông báo về việc tìm ra từ quặng màu trắng một nguyên tố mới mà ông gọi là Telu. Tiếng La Tinh “telus” có nghĩa là “quả đất”. Thật tình mà nói Claprot đã nhận mẫu quặng mà Mulơ đưa cho nhưng ông cho rằng ông mới xứng đáng là người tìm ra nguyên tố telu. 17
  4. Cũng xin nói thêm về một người nữa có liên quan đến việc tìm ra nguyên tố telu đó là nhà hóa học, thực vật học P. Kiteibel người Hunggari. Năm 1789, ông nhận được một khoáng vật molipden có chứa bạc nhưng ông đã tách ra được một nguyên tố mới. Đáng tiếc, ông không công bố những phát hiện của mình mà chỉ mô tả những gì tìm được qua thư từ trao đổi với một số bạn đồng nghiệp. Trong một thời gian dài telu được coi như một kim loại. Năm 1832, sau khi tìm được selen, Becdeliut cho thấy có sự rất giống nhau giữa lưu huỳnh, selen và telu. Từ đó trở đi, telu được đưa vào danh sách những phi kim. Là một phi kim, telu cho những hợp chất mà nó thể hiện mức oxi hóa -2, +4, +6. Nó có giá trị trong những ngàng kĩ thuật hiện đại. Những hợp chất của nó với kim loại, những telua, có tính chất bán dẫn và có độ nhạy cao đối với các bức xạ. Vì thế chúng dùng làm ống kín truyền hình. Kim loại chì có pha thêm telu sẽ có thêm những tính chất mới như bền cơ học, bền hóa học. Trộn với thủy tinh, nó làm tăng chiết suất của thủy tinh. 5. POLONI (Po) (1898) Nguyên tố này chiếm ô 84. Tính chất của nguyên tố này được Mendeleev tuyên đoán năm 1870, căn cứ vào vị trí của nó trong cùng nhóm với lưu huỳnh, selen và telu. Theo ông, khối lượng nguyên tử của nó khoảng 212 (con số thực tế 209). Những tính chất khác của nguyên tố và hợp chất của nó cũng gần giống với những điều tiên đoán của Mendeleev. Tuy nhiên phương pháp hóa học thông thường đã nói trước đây không áp dụng được để phát hiện ra nguyên tố này, bởi vì nó thuộc dòng dõi của những nguyên tố phóng xạ tự nhiên. Liền sau khi Beccoren khám phá ra hiện tượng phóng xạ, nhà nữ vật lí học Balan Mari Sklađôpska (1867 – 1934), vợ của giáo sư Pie Curi (1859 – 1906), bắt tay nghiên cứu có hệ thống hiện tượng này. Bởi vì tia phóng xạ có khả năng ion hóa không khí, nên bà đã dùng máy điện nghiệm (electroscope) để đo. Bà muốn 18
  5. biết, ngoài uranium ra còn có những tính chất nào khác tương tự về tính chất như uranium không? Đề tài luận án tiến sĩ của bà đã được thực hiện theo hướng này. Bà phát hiện quặng uranium thiên nhiên có tính phóng xạ gấp nhiều lần so với oxit nguyên chất của nó. bà bắt đầu tách quặng ra nhiều phân đoạn và xác định tính phóng xạ của chúng. lúc này Pie cùng cộng tác với bà. Phân đoại tách với bimut sunfat có tính phóng xạ gấp 400 lần so với uranium. Vì bitmut sunfua tinh khiết không có tính phóng xạ, nên bà đưa ra giả thuyết rằng trong phân đoạn này chắc rằng phải có một chất phóng xạ mạnh tồn tại dưới dạng tạp chất. Tại cuộc họp của viện hàn lâm khoa học Pari ngày 18 – 7 – 1989, ông bà Curi đã đọc bản báo cáo nhan đề “về một chất phóng xạ mới có chứa trong quặng uranium”. thuật ngữ “tính phóng xạ” lần đầu tiên được đưa ra trong bảng báo cáo này, để nhấn mạnh nguyên tố được tìm ra bằng một phương pháp mới. Họ đề nghị đặt tên nguyên tố này là polonium, có nghĩa là nước Balan (pologne, tiếng Pháp chỉ nước balan). Trước đây phương pháp quang phổ được dùng để nhận biết nguyên tố mới với lượng vô cùng bé, thì từ giờ trở đi có thêm một phương pháp mới, phương pháp đo độ phóng xạ, để nhận biết nguyên tố mới với lượng ít ỏi như vậy. Tuy nhiên, lúc đầu hai nhà khoa học này đã lầm khi cho rằng bitmut và poloni có tính chất hóa học rất giống nhau. poloni là một nguyên tố phóng xạ nên càng khó nghiên cứu tính chất hóa học của nó. Nhiều người bi quan cho rằng đó chẳng qua là bitmut có lẫn một số dấu vết của những chất phóng xạ. Đến năm 1902, nhà hóa học người Đức Macvan dùng 2 tấn quặng urani để thu phân đoạn bitmut và bằng phương pháp hóa học đã tách ra được một chất có tính phóng xạ mạnh mà ông gọi là “telu phóng xạ”. Theo ông, nguyên tố này đặt trong nhóm VI, nó có khối lượng lớn hơn bitmut vào khoảng 210. Cuộc tranh luận khoa học nổi lên, về bản chất về bản chất của poloni và telu phóng xạ. Nhiều nhà khoa học đứng về phe của ông bà Curi. 19
  6. Cuối cùng sự so sánh cho thấy telu phóng xạ chính là pololni. Quyền tác giả của ông bà Curi được thế giới xác nhận. Đến năm 1912 thì nguyên tố này chính thức chiếm ô 84 trong bảng các nguyên tố hóa học. Cho mãi đến năm 1946 mới điều chế ra được kim loại poloni. poloni có chu kì phân rã 138 ngày, nó phát ra tia anpha + Lĩnh vực áp dụng:Trong phần đầu của chương Oxi- Lưu Huỳnh giáo viên có thể sơ lược tóm tắt qua về 1 số nguyên tố nhóm VIA để học sinh có thể cảm thấy bài học trở nên nhẹ nhàng, dễ nhớ và học sinh hứng thú học hơn. * VÍ DỤ 4: Nhà bác học Michael Faraday Michael Faraday sinh ra trong một gia đình nghèo, bố làm nghề thợ rèn. Ngay từ nhỏ cậu bé Faraday đã tỏ ra thông minh và ham học. Một hôm thầy giáo rất ngạc nhiên khi thấy Faraday đến lớp muộn, tay không mang cặp sách, vẻ mặt rầu rầu. Ông vội hỏi: "Có chuyện gì vậy, Faraday?". Faraday nghẹn ngào, nói không rõ tiếng: "Thưa thầy, con đến xin phép thầy thôi học để ở nhà trông em, vì dạo này bố con không có việc làm, mẹ con phải đi giặt thuê, kiếm thêm tiền nuôi gia đình". Và cậu bé òa lên khóc nức nở. Thầy giáo đặt tay lên đôi vai gầy gò của Faraday và nói: "Hãy dũng cảm lên Farday! Phải bỏ học nửa chừng như em là một điều đáng tiếc, nhưng em phải giữ vững lòng tin vào cuộc sống và luôn ghi nhớ những tấm gương hiếu học của người xưa. Cái khó là mài giũa ý chí cho bền " Đời sống gia đình ngày càng khó khăn, Faraday được bố dẫn đến xin việc tại "Hiệu bán sách và đóng sách Ribô" ở Luân Đôn. Ông chủ hiệu sách cho chú bé ở hẳn trong xưởng với điều kiện phải giúp ông ta mọi việc vặt trong nhà. Còn chú bé chỉ có một nguyện vọng duy nhất là, buổi tối xong xuôi công việc, được phép đọc sách. Và, theo lời khuyên của Ribô, Faraday làm quen với các cuốn sách về khoa học. Cậu bé bắt đầu đọc cuốn "Những mẩu chuyện về hóa học" của Macxê. Vừa đọc được mấy trang đầu, cậu đã ngạc nhiên: "Thì ra không khí mà mọi người đang hít thở lại là một hỗn hợp nhiều thứ khác nhau!". Và Faraday nhỏm dậy, cầm cây nến đi soi tìm một cái chậu đựng nước và một cái cốc. Cậu thấy nghi hoặc những 20
  7. điều tác giả cuốn sách đã nói, vì vậy cậu quyết định tự tay làm lại một thí nghiệm đơn giản có hướng dẫn trong sách. Cậu gắn một mẩu nến lên cái nút bấc thả nổi trên mặt chậu nước, rồi đánh diêm đốt nến cháy úp cái cốc đậy kín cả nút bấc lẫn nến. Ngọn lửa lụi dần rồi tắt ngấm! Cậu loay hoay đo mực nước trong cái cốc úp sau khi nến tắt. Cậu thấy rằng đúng là phần khí còn lại trong cốc chiếm khoảng 4/5 thể tích. Cậu vui sướng, reo lên khe khẽ. Dưới ánh nến đỏ quạch tỏa khói khét lẹt và đôi lúc bị gió thổi tạt đi, cậu bé say mê đi tìm những lời giải đáp cho những thắc mắc của mình. Nếu không có ông Ribô thức giấc lúc nửa đêm giục cậu đi ngủ thì có lẽ Faraday đã thức suốt sáng để đọc cho xong quyển sách. Cậu tắt nến đi ngủ, trong lòng vẫn còn nao nức lạ thường: "Kì này phải cố để dành tiền mua ống thí nghiệm và một ít axit". Được sự động viên giúp đỡ của gia đình, ông Ribô và bè bạn, Faraday tranh thủ dự các lớp học buổi tối do Hội triết học tổ chức. Anh thợ trẻ - chưa học hết lớp 2 tiểu học - chăm chú nghe giảng, ghi chép rất đầy đủ và sau đó đóng xén cẩn thận quyển vở ghi của mình. Anh hối hả trau dồi kiến thức để bù lại thời gian đã mất không được cắp sách đến trường. Lòng ham học của anh được giáo sư hóa học Humphrey Davy, hội viên Hội Khoa học Hoàng gia Luân Đôn chú ý. Dù chỉ được số lương ít ỏi, Faraday hăng hái nhận làm thư kí ghi chép cho nhà bác học Davy. Không những ghi chép rất chính xác các tư tưởng khoa học của Davy mà anh còn tham gia ý kiến vào việc phân tích các số liệu thực nghiệm, nhận xét các kết luận khái quát của nhà bác học. GS ngày càng mến và tin Faraday. Ông đã ra sức vận động cho Faraday được nhận vào làm việc chính thức ở Hội Hoàng gia. Cuối cùng, ngày 1-3-1813 anh thợ trẻ Faraday được chính thức nhận làm phụ tá ở phòng thí nghiệm của giáo sư Davy. Cuộc đời của Faraday đã bước hẳn sang một trang mới. + Lĩnh vực áp dụng: Khi dạy về phần “ Điện Phân” giáo viên có thể cung cấp thông tin này cho học sinh để các em hiểu được rằng không phải nhà bác học vĩ đại nào cùng được sinh ra và lớn lên trong 1 gia đình giầu có mà có những nhà bác học vĩ đại đã vượt qua bao khó khăn gian khổ để có được những thành tựu 21
  8. khoa học lớn cho nhân loại.Từ đó khích lệ, động viên các em cần cố gắng nhiều hơn trong học tập và cuộc sống. * VÍ DỤ 5: Nhà bác học Ernest Rutherford Ernest Rutherford sinh ngày 30 tháng 8 năm 1871 ở Nelson, New Zealand. Ernest Rutherford là con trai của James Rutherford, một nông dân, và vợ của ông là Martha Thompson, quê quán ở Hornchurch, Essex, Anh Quốc. James là dân nhập cư từ Perth, Scotland, "để nuôi trồng cây đanh và các con". Ernest sinh ra ở Spring Grove (bây giờ là Brightwater), gần Nelson, New Zealand. Tên gọi của ông bị đánh vần sai thành Earnest khi đi làm giấy khai sinh. Ông học ở trường Havelock School và sau đó là trường Nelson College rồi giành được học bổng học ở trường Canterbury College, University of New Zealand nơi ông là chủ tịch hội đồng tranh luận. Rutherford đã nghiên cứu hiện tượng phóng xạ từ đầu thập niên 1900. Ông đã phát hiện ra ba dạng tia phát ra từ các chất phóng xạ. Ông (cùng với Soddy) đã đưa ra thuyết phân rã phóng xạ; đã chứng minh sự tạo thànhheli trong quá trình phóng xạ, đã phát hiện ra hạt nhân nguyên tử và nghiên cứu mô hình của hạt nhân nguyên tử, đặt cơ sở cho thuyết hiện đại về cấu tạo nguyên tử. Năm 1907, ông là giáo sư vật lý ở trường Đại học Manchester. Năm 1908, ông được tặng giải thưởng Nobel hóa học cho các công trình chứng minh rằng các nguyên tử bị phân rã trong hiện tượng phóng xạ. Từ năm 1919, ông làm việc ở Cambridge và Luân Đôn. Tại đây, ông đã thực hiện sự chuyển hóa nhân tạo đầu tiên giữa các nguyên tố bền (còn gọi là kỹ thuật giả kim thuật). Cụ thể là ông đã biến nitơ thành ôxy bằng cách dùng các hạt alpha bắn phá vào chúng. Ngoài giải thưởng Nobel hóa học, Ernest Rutherford đã được nhận nhiều vinh danh khác. Ông đã được bầu làm viện sĩ cùaViện hàn lâm giáo hoàng về Khoa học và viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Khoa học Liên Xô (nay là Viện hàn lâm Khoa học Liên bang Nga). 22
  9. + Lĩnh vực áp dụng:Giáo viên có thể cung cấp thông tin này cho học sinh ở bài “Thành phần nguyên tử” vì đây là một bài học rất trìu tượng và khó với học sinh nên 1 câu truyện nhỏ ngoài lề có thể làm cho bài học trở nên nhẹ nhàng hơn, học sinh tập trung hơn. Để có những tiết học đạt hiệu quả cao nhất, luôn là niền chăn trở, suy nghĩ là mục đích hướng tới của từng giáo viên có lương tâm và trách nhiệm nghề nghiệp, nhưng đây không phải là điều đạt được rễ ràng. Người giáo viên phải nhận thức rõ vai trò là người “Thắp sáng ngọn lửa” chủ động lĩnh hội tri thức trong từng học sinh. Trong nội dung đề tài “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học” tôi đã đề cập đến một số vấn đề xung quanh cuộc sống và có ý nghĩa thực tiễn lớn thông qua các bài học cụ thể. Tôi hy vọng đây là vấn đề gợi mở ra một quan điểm trong dạy học hóa học, mặc dù trong đề tài này tôi không đề cập đến mọi vấn đề liên quan. IV. HIỆU QUẢ CỦA VIỆC ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Riêng bản thân tôi nhờ vận dụng phương pháp dạy “Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học” kết hợp với nhiều phương pháp khác tôi đã đạt được một số kết quả nhất định: Học sinh trở nên thích học hóa hơn, thích những giờ dạy của tôi nhiều hơn, thậm chí có cả những học sinh đã về nhà tự tìm hiểu, nghiên cứu về các nhà bác học rồi lại đến hỏi tôi. Trong giờ học, tôi đã kết hợp hài hòa trong phong cách dạy của mình có thể làm cho giờ học mang không khí thoải mái, nhưng khả năng tiếp thu bài cũng rất tốt. Như tôi đã khẳng định: Thời gian dành cho vấn đề này là không nhiều “ Nó như thứ gia vị trong đời sống không thể thay cho thức ăn như thiếu nó thì kém đi hiệu quả ăn uống”, ngoài ra thì còn phụ thuộc vào người chế biến cần phải linh hoạt và khéo léo. Bất cứ một vấn đề gì nếu chúng ta quá lạm dụng thì đều không tốt. Vì Thế tôi vẫn luôn nghĩ: Dạy như thế nào cho tốt là một điều không dễ. 1. Kết quả đối chứng: 23
  10. Thực tế giảng dạy cho thấy các lớp không hoặc ít áp dụng so với lớp áp dụng kể chuyện thường xuyên có sự khác nhau rõ rệt. Số lượng học sinh hiểu bài ngay tại lớp chiếm tỷ lệ khá cao. Ví dụ gần đây nhất năm học 2003 – 2014 giảng dạy ở trường tôi đã có số liệu cụ thể theo bảng sau: Không Kết quả học tập Mức độ áp Lớp khí học dụng đề tài Giỏi Khá Tb Yếu Kém tập Áp dụng Sôi nổi, 10A6 thường hăng hái 35.5% 29% 25.8% 9.7% 0% xuyên phát biểu Không áp Ít sôi nổi, 10A5 dụng hoặc ít 8.8% 20.6% 26.5% 32.4% 11.8% trầm hơn áp dụng PHẦN III. KẾT LUẬN I. Ý NGHĨA CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM Việc sử dụng vấn đề “ Lôi quấn học sinh vào tiết học qua những câu truyện kể về các nhà bác học, về lịch sử tìm ra các nguyên tố hóa học” có thể khắc phục được các vấn đề tồn tại theo phương pháp truyền thống mà tôi đã nêu ở trên. Việc áp dụng đề tài này khá đơn giản nhưng hiệu quả rất tốt nên sẽ giúp được nhiều giáo viên có hứng thú, say mê khi lên lớp hơn vì khi đó học sinh sẽ yêu thích môn học hơn, tích cực trong học tập hơn.Cũng qua những câu truyện kể có ích sẽ giúp ích cho các em nhiều trong cuộc sống của mình. Khi người giáo viên vận dụng linh hoạt thì có thể làm cho học sinh say mê nghiên cứu khoa học hơn. Không chỉ môn Hóa học mà theo tôi đề tài này còn có thể vận dụng được đối với nhiều môn học khác để mang lại hiệu quả cao trong nhiều tiết học cho học sinh. 24
  11. II- NHỮNG NHẬN ĐỊNH CHUNG VỀ VIỆC ÁP DỤNG KHẢ NĂNG PHÁT TRIỂN CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Sáng kiên kinh nghiệm này có thể áp dụng trong chương trình THPT kể cả các môn khoa học khác. III- NHỮNG BÀI HỌC RÚT RA TỪ QUÁ TRÌNH ÁP DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM. Trong quá trình áp dụng không nên quá lạm dụng những câu truyện kể để không mất quá nhiều thời gian của học sinh và gây phản tác dụng. Người giáo viên phải chịu khó tìm hiểu và chọn lọc thông tin trước khi cung cấp cho học sinh. Khi lồng các câu truyện kể đó giáo viên phải gắn với bài học về cuộc sống để mỗi học sinh có thể hiểu và cảm nhận được ý đồ mà giáo viên muốn thực hiện. IV- Ý KIẾN ĐỀ XUẤT - Đối với Ban lãnh đạo các Nhà trường: Cần quan tâm, động viên và khích lệ giáo viên tích cực sáng tạo, đổi mới trong phương pháp dạy học để có nhiều cách làm hay, hiệu quả. - Đối với Sở Giáo dục và Đào tạo: Cần công khai rộng rãi những cách làm hay, hiệu quả trong ngành để tăng cường sự trao đổi, học tập giữa các giáo viên, để ngày càng nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục và đào tạo. Trong quá trình thực hiện đề tài này không tránh khỏi sự thiếu sót. Tôi rất mong được sự quan tâm giúp đỡ, đóng góp chỉ bảo ân cần của các độc giả để bản thân tôi được hoàn thiện hơn trong giảng dạy cũng như SKKN này có tác dụng cao trong việc dạy và học. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Bát Xát, tháng 5 năm 2014 Người thực hiện Đoàn Thu Hiền 25
  12. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Sách về lịch sử các nhà bác học 2.Sách : Hóa học thật là kì thú 3.Sách tham khảo tại thư viện trường THPT số I Bát Xát. 4. Mạng Internet 26