SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở trường Tiểu học Sơn Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình

doc 25 trang binhlieuqn2 07/03/2022 5092
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở trường Tiểu học Sơn Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_boi_duong_hoc_sinh_gioi_tieng_viet_o_t.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt ở trường Tiểu học Sơn Thủy - Lệ Thủy - Quảng Bình

  1. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt CHƯƠNG 3. MỘT SỐ BIỆN PHÁP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI MÔN TIẾNG VIỆT Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC SƠN THỦY - LỆ THỦY - QB 3.Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. 3.1. Phát hiện học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi môn Tiếng Việt. Những học sinh có khả năng về môn Tiếng Việt có những biểu hiện sau: - Các em có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngôn từ, yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện. Có những em ước mơ thành nhà văn, nhà báo hoặc trở thành cô giáo. Phần lớn các em không hờ hững trước những vẽ đẹp của ngôn từ trong văn chương, gắng ghi nhớ và ghi chép những câu thơ, câu văn mình yêu thích. VD: đọc 2 câu thơ: "Con xót lòng mẹ hái trái bưởi đào Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế" Các em sẽ hiểu được hình ảnh rất cụ thể: mẹ lúc nào cũng sẵn sàng chăm sóc con của người chiến sĩ, lo lắng cho con, làm tất cả những gì mà con cần. - Các em có những phẩm chất tư duy có tính thống nhất, tư duy phân loại, phân tích, trìu tượng hoá, khái quát hoá. Có năng lực quan sát, nhận xét ngôn ngữ của mọi người và của chính mình. - Các em còn có óc quan sát hiện thực, biết liên tưởng, giàu cảm xúc. VD: Có em dùng cụm từ "Trăng đắp chiếu" thay cho hình ảnh trang bị mây che phủ. Như vậy ta có thể thấy được các em có khả năng tư duy nghệ thuật, có khả năng biến vẽ đẹp tự nhiên thành vẽ đẹp của ngôn từ, biết phát hiện những tín hiệu nghệ thuật để dùng ngôn từ biểu đạt nội dung. - Về khả năng sử dụng từ: những học sinh giỏi Tiếng Việt thường có khả năng sử dụng các tính từ, từ tượng hình, tượng thanh, sử dụng những câu có các thành phần phụ như: trạng ngữ, định ngữ, bổ ngữ khi viết câu văn sáng, rõ ý, bộc lộ được tư tưởng tình cảm của mình đối với hiện thực được nói tới. Chẳng hạn cách diễn đạt của 2 học sinh trung bình và giỏi môn Tiếng Việt về cùng một nội dung. "Chúng em đã đến quảng trường Ba Đình, quảng trường này rất có ý nghĩa vì tại đây Bác Hồ đã đọc Tuyên ngôn độc lập cũng vì thế lăng Bác đặt ở đây". "Thế là chúng em đã được đến quảng trường Ba Đình lịch sử, nơi đây Bác Hồ đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. cũng chính nơi đây, toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ cho Người". Đoạn văn của em học sinh khá nó có tác động không phải chỉ vào lý trí mà cả tình cảm người đọc. Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 16
  2. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt Vậy vấn đề đặt ra là cần phải phát hiện những học sinh có khả năng giỏi Tiếng Việt từ lúc nào? Nên tổ chức bồi dưỡng từ lớp nào? Trên thực tế, có nhiều trường khi chẩn bị theo học sinh giỏi các cấp mới tập trung học sinh để ôn luyện, có nhiều trường tổ chức từ lớp 4, nhưng theo những vấn đề trên việc bồi dưỡng phải được tổ chức thường xuyên không phải chỉ ở các lớp bồi dưỡng mà ở các tiết học, các môn học các em cần phải được uốn nắn và phát hiện. 3.2. Bồi dưỡng hứng thú học tập: Hứng thú là một khâu quan trọng, là một hiện tượng tâm lý trong đời sống mỗi người. Hứng thú tạo điều kiện cho con người học tập lao động được tốt hơn. Nhà văn M.gocki nói: "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc". Việc bồi dưỡng hứng thú học tập môn Tiếng Việt là một việc làm cần thiết. Để tạo được sự hứng thú học tập cho các em, người giáo viên bồi dưỡng phải tạo được sự thoải mái trong học tập, phải làm cho các em cảm nhận được vẽ đẹp và khả năng kỳ diệu của ngôn từ trong tất cả các giờ học, các môn học để các em nghiêm nghiệm, để kích thích vốn từ sẵn có của từng em. VD: Giới thiệu bài: Chúng ta đã được học rất nhiều bài về mẹ". "Bao tháng năm mẹ bế con trên đôi tay mềm mại ấy". "Mẹ là ngọn gió của con suốt đời", "Bình yên nhất là đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy gầy, xương xương". Hôm nay cô cùng các em lại tìm hiểu một bài thơ có tựa đề "Mẹ" của nhà thơ Bằng Việt. Chúng ta cùng đọc xem bài thơ này có gì khác với các bài thơ mà các em đã học nhé. Cả nhữg bài về từ ngữ, ngữ pháp cũng không gây cho các em cảm giác khô khan, chán học nếu chúng ta biết gây hứng thú cho học sinh, nếu giáo viên nắm được vấn đề và dùng phương pháp thích hợp để gây chú ý của học sinh. Cho các em tiếp xúc càng nhiều càng tốt với những tác phẩm văn chương, những mẫu câu sử dụng cú pháp hay, mẫu mực như Lê Trí Viễn đã nói "không làm thân với văn thơ thì không nghe lời thầy được tiếng lòng chân thật của nó". Cùng với sự tiếp xúc về văn chương còn có thể kể cho học sinh nghe về cuộc đời riêng của các nhà văn, nhà thơ nổi tiếng, xuất xứ của những câu chuyện hay, tác phẩm đặc sắc, tổ chức nói chuyện văn thơ, ngoại khoá Tiếng Việt. 3.3. Bồi dưỡng vốn sống: Hiện nay các giáo viên khi dạy bài tập làm văn cho học sinh thường thiên về dạy các kỹ thuật mà giáo viên cung cấp cho các em những chất liệu cuộc sống để tạo nên cái hồn của bài viết. Khi một học sinh khó khăn trước một bài văn giáo viên thường cho rằng các em không nắm vững lý thuyết viết văn mà quên rằng nguyên nhân làm cho các em không có hứng thú viết là các em đã không tạo được mối quan hệ của mình với nội dung yêu cầu của đề bài. Nghĩa là các em thiếu nội dung, thiếu chi tiết, thẩm định hướng quan sát nên không có gì để viết hoặc viết các ý không trình tự lôgic. Nguyên nhân đó là việc thiếu hụt vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh. Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 17
  3. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt Trên cơ sở đó chúng tôi rút ra kinh nghiệm rằng: Để bồi dưỡng vốn sống cho học sinh cần phải cho các em quan sát, trải nghiệm những gì chuẩn bị viết. VD: Khi hướng dẫn các em quan sát con đường để thực hiện bài viết. Tuy nhiên không nên hiểu quan sát một cách khô cứng mà giáo viên cần làm cho việc quan sát thực tế vùng không ảnh hưởng đến óc tưởng tượng của các em, giúp các em loại bỏ những chi tiết rườm rà không cần thiết. Nhưng sự tưởng tượng dù có bay bổng đến mấy cũng phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sốg. Người giáo viên phải đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở tạo nguồn cảm hứng, khơi dậy suy nghĩ trong các em trong quá trình quan sát. Nên nhớ rằng, giáo viên cần tạo cho học sinh một tình cảm hứng thú, sự tò mò với vật quan sát nếu không sự quan sát sẽ không đạt được mục đích. Bên cạnh đó, giáo viên cần xây dựng cho học sinh có hứng thú và thói quen đọc sách. Khi đọc sách, cảm hứng các em được khơi thông tạo nên sự rung động trong tình cảm, tâm hồn làm nảy nở những ước mơ đẹp. Từ đó khơi dậy năng lực hành động, bồi dưỡng tâm hồn. Người xưa nói "Trong bụng chưa có ba vạn quyển sách, trong mắt chưa có núi sông kỳ lạ của thiên hạ thì chưa học được văn". 3.2. Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt. 3.2.1. Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng từ ngữ được chia làm 2 mảng. *. Kiến thức lý thuyết về từ và khả năng nắm nghĩa sử dụng. a. Bồi dưỡng lý thuyết về từ: Nội dung không vượt ra ngoài 12 bài lý thuyết về từ: từ đơn, từ ghép, từ láy, từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại, các kiểu từ láy, các dạng từ lấy, nghĩa của từ láy, từ tượng hình, tượng thanh, từ nhiều nghĩa, cùng nghĩa, trái nghĩa. b. Phân loại nhận diện từ theo cấu tạo. - Dựa vào số lượng tiếng của từ chia ra từ đơn và từ ghép. - Khi phân loại nhóm từ đa âm phải dựa vào mối quan hệ giữa các tiếng trong từ. + Nếu có quan hệ về mặt ngữ nghĩa: từ ghép. + Nếu có quan hệ về mặt ngữ âm: từ láy. Lưu ý trong tiếng Việt có những từ thuần Việt như: tắc kè bồ bóng, bồ kết hay những từ vay mượn như: xà phòng, mít tinh là những từ đơn đa âm không nên sử dụng làm ngữ liệu để phân tích. Trong trường hợp học sinh đưa ra giáo viên cần phân tích mặt âm, mặt nghĩa để kết luận. Các từ 2 tiếng có sự giống nhau về âm như: chôm chôm, thằn lằn, ba ba, thuồng luồng tuy không phải là từ láy nhưng đều được xem là từ láy. Các kiểu từ như: ồn ào, ầm ỉ, ọc ạch, ỏn ẻn đều được xem là từ láy và được giải thích là khuyết âm phụ đầu. Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 18
  4. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt Các từ như cong queo, cuống quýt, kinh coong cũng là từ lóng có phụ âm đầu viết dưới dạng những con chữ khác nhau. - Về phân biệt từ ghép tổng hợp, từ ghép phân loại. + Từ ghép tổng hợp: giữa các tiếng có quan hệ đẳng lập mang tính tổng hợp khái quát nghĩa của những từ đơn hợp thành. VD: nhà cửa, ruộng vườn, núi sông + Từ ghép phân loại: có yếu tố cụ thể hoá, cá thể hoá nghĩa cho yếu tố kia. VD: Xe đạp, xe máy, xe điện Lưu ý: Một số từ tuỳ từng ngữ cảnh mà xếp, có khi là từ ghép tổng hợp, có khi là từ ghép phân loại. VD: Từ "Sáng trong" trong câu "một tấm lòng sáng trong như ngọc" là từ ghép tổng hợp, có thể đổi thành "trong sáng". Nhưng trong câu "con hãy mua cho bố cái bóng đèn sáng trong, đừng mua bóng đèn sáng đục" thì là từ ghép phân loại. c Làm giàu vốn từ hay luyện kỹ năng nắm nghĩa từ và sử dụng từ cho học sinh. - Dạng 1: Yêu cầu học sinh giải nghĩa từ hay thành ngữ cụ thể. VD: Em hiểu thành ngữ "Gió chiều nào che chiều ấy" là thế nào? Hay "lao động trí óc" là gì? - Dạng 2: Cho những từ có cùng yếu tố cấu tạo. VD: Phân biệt nghĩa của các từ "mẹ đẻ", "mẹ nuôi", "mẹ kế", "mẹ ghẻ" - Dạng 3: Yêu cầu hoạt động kể ra các từ theo chủ đề. - Dạng 4: Yêu cầu phân loại từ theo nhóm nghĩa và đặt tên cho nhóm. - Dạng 5: Dạng để sửa lỗi từ dùng sai. - Dạng 6: Đặt câu, viết đoạn văn với những từ cho sẵn. - Dạng 7: Điền từ vào chỗ trống. Trên đây chỉ liệt kê một số dạng, còn nhiều dạng khác nữa giáo viên phải nắm chắc, cho học sinh tiếp cận nhiều lần thì bài kiểm tra mới đạt hiệu quả cao. 3.2.2. Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng ngữ pháp. Trong các đề thi học sinh giỏi phần ngữ pháp thường chiếm số điểm 07/20. Các dạng đề và những điều cần lưu ý gồm: a. Khái niệm câu và bản chất của câu: Các em thường nhầm trạng ngữ là câu, nhầm ngữ danh từ là câu thường đặt câu thiếu thành phần vì vậy nên tập trung vào các dạng bài tập. Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 19
  5. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt + Các ví dụ sau ví dụ nào đã thành câu, ví dụ nào chưa thành câu? Vì sao? Hãy chữa lại cho đúng. + Chữa câu sai sau đây bằng 2 cách b. Cấu tạo ngữ pháp của câu, các thành phần câu đó là các dạng bài tập: yêu cầu học sinh chỉ ra các thành phần của câu cho sẵn. + Yêu cầu học sinh tìm bộ phận chính của câu. + Dạng yêu cầu học sinh kết hợp các thành phần câu. + Dạng mở rộng nòng cốt câu bằng cách thêm thành phần phụ. c. Kiến thức về dấu câu và kỹ năng sử dụng dấu câu. - Dạng: cho một đoạn không có dấu câu, yêu cầu học sinh tự đánh dấu câu vào chỗ thích hợp. - Dạy chữa lại những chỗ đặt dấu câu không đúng. d Kiến thức về từ loại, kỹ năng xác định từ loại. - Dạng: Yêu cầu học sinh tìm danh từ, động từ, tính từ trong câu, đoạn văn 3.2.3. Bồi dưỡng cảm thụ văn học: Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học là một quá trình lâu dài và công phu trong phân môn tập đọc. Bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học trước hết là bồi dưỡng vốn sống cho các em có vốn sống, các em mới có khả năng liên tưởng để tiếp cận tác phẩm. Giáo viên cần tạo điều kiện để các em tiếp xúc với nhiều tác phẩm, không nên cảm thụ hộ, biến học sinh thành người minh hoạ cho mình. Giáo viên là người gợi mở, dẫn dắt cho sự tiếp xúc của học sinh với những tác phẩm hay. Hoạt động của giáo viên chỉ có tác dụng hỗ trợ cho cảm xúc thẩm mỹ nảy nở trong hoạt động. Cần tôn trọng những suy nghĩ, cảm xúc thực thơ nâng trong trẻo của học sinh và nâng chúng lên ở cấp độ cao hơn, đồng thời giáo viên phải trang bị cho các em một số kiến thức về văn học như hình ảnh, chi tiết kết cấu tác phẩm, các đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, những biện pháp tu từ Một trong những biện pháp có hiệu quả nữa là giúp học sinh đọc diễn cảm có sáng tạo, nó giúp học sinh nâng cao khả năng cảm xúc thẩm mỹ và kích thích các em khám phá ra cái hay, cái đẹp của văn chương. Khi cho học sinh tiếp xúc tác phẩm, giáo viên cần có hệ thống câu hỏi, bài tập liên tưởng. Đó là những câu hỏi về ý nghĩa tác phẩm giúp học sinh hiểu mục đích thông báo của văn bản, đánh giá nhân vật, thái độ, tình cảm tư tưởng của tác phẩm, giá trị nghệ thuật những từ ngữ hình ảnh gây nhiều ấn tượng. 3.2.4. Bồi dưỡng làm văn. Làm văn là nơi thử thách cho học sinh các kỹ năng Tiếng Việt, vốn sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học. học sinh phải thể hiện cảm xúc, suy nghĩ bằng Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 20
  6. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt ngôn ngữ nói và viết, từ đó rèn cách nghĩ, cách cảm nhận thật sáng tạo, luyện cách diễn tả chính xác, sinh động, hồn nhiên với những nét riêng độc đáo. Trước hết để luyện tập kỹ năng viết văn của học sinh cần có những đề bài tốt, giáo viên cần biết lựa chọn đề, biết tự ra đề bài gần gũi thân thiết với cuộc sống hàng ngày của các em nhưng cũng tránh lặp lại gò bó, nhàm chán. Bên cạnh đó: giáo viên cần rèn luyện cho học sinh kỹ năng tìm hiểu, phân tích đề, quan sát, tìm ý, kỹ năng diễn đạt, viết đoạn và hoàn thiện bài viết. Trong khâu luyện làm văn, khâu đánh giá chữa lỗi rất quan trọng. giáo viên cần chấm, chữa bài cho từng em thật kỹ để giúp các em thấy được những thiếu sót của mình, tự rút kinh nghiệm sửa chữa nên tạo không khí thoải mái, tranh luận khi chữa bài. 3.2.5.Quan tâm chỉ đạo bồi dưỡng đội ngũ giáo viên. Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục cho nên bồi dưỡng đội ngũ giáo viên cũng đặt ra hàng đầu trong nhà trường tiểu học. Trong thực tiễn giáo dục hiện nay cho thấy ở đâu có thầy cô giáo giỏi thì ở đó có nhiều trò giỏi.Dân gian có câu”Thầy nào trò nấy”. Với công tác bồi dưỡng học sinh giỏi thì càng đòi hỏi những giáo viên có kiến thức rộng, toàn diện, tinh thông nghiệp vụ, có phương pháp giảng dạy tốt, có lòng nhiệt tình, yêu nghề mếm trẻ. Để có một đội ngũ giáo viên đều tay, vững vàng tay nghề là cả một quá trình bồi dưỡng lâu dài phảI có từng biện pháp thích hợp. Giáo viên phải được tham gia bồi dưỡng và tự bồi dưỡng một cách thường xuyên. * Kết quả đạt được qua các năm: - Năm học 2008- 2009: Dự thi 07 em( 5%) cả 7 em đạt giải huyện và 4 em được chọn vào đội tuyển để dự thi tỉnh. Kết quả có 3 em đạt giải tỉnh( đồng đội xếp thứ 4 toàn huyện ) - Năm học 2009-2010: Dự thi 07 em( 5%) có 7 em đạt giải huyện.( đồng đội thứ 5) - Năm học 2010-2011: Dự thi 06 em( 5%) có 6 em đạt giải huyện.( Đồng đội xếp thứ 2 toàn huyện ). Trong đó có 5 em được chọn vào đội tuyển dự thi tỉnh. Kết quả đạt 4 giải cá nhân.( 1 giải Nhì; 2giair ba và 1 giải KK.) Sau ba năm thực hiện dạy học và quản lý tại trường TH Sơn Thủy, phong trào giáo dục nói chung học sinh giỏi, học sinh năng khiếu của trường ngày một tiến bộ đi lên đạt ở mức cao ổn định. Năm học 2010-2011 ngoài thi học sinh giỏi môn Toán và Tiếng Việt các em còn được dự thi Olympic Anh văn và giải Toán qua mạng. Trong số các em đạt giải thì có 2 em đoạt giải Nhất-Nhì của tỉnh và được chọn vào đội tuyển của Sở GD-ĐT Quảng Bình để dự thi quốc gia. Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 21
  7. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt C. PHẦN KẾT LUẬN 1. Một số kết luận: Qua nghiên cứu trình bày ở trên chúng tôi khẳng định mục đích nghiên cứu đặt ra đã được hoàn tất. Trong quá trình nghiên cứu chúng tôi xin rút ra một số kết luận sau: - Để bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng việt, hiệu quả trước hết phải có những giáo viên vững về kiến thức, kỹ năng thực hành Tiếng việt, có vốn sống, vốn cảm xúc phong phú. - Thực sự yêu nghề, tâm huyết với công việc bồi dưỡng học sinh giỏi. - Thường xuyên học hỏi trau dồi kiến thức, đọc sách báo để ngày càng làm phong phú thêm vốn kiến thức của mình. - Có phương pháp nghiên cứu bài, soạn bài, ghi chép giáo án một cách khoa học. - Tham mưu nhiều sách báo tài liệu có liên quan, giao lưu học hỏi các bạn đồng nghiệp có nhiều kinh nghiệm, các trường có bề dày thành tích. - Tạo sự giao tiếp cởi mở, thân thiện với học sinh, mẫu mực trong lời nói, việc làm, thái độ, cử chỉ có tâm hồn trong sáng lành mạnh để học sinh noi theo. - Giáo viên phải khơi dậy niềm say mê, hứng thú của học sinh đối với môn học Tiếng việt, luôn phối hợp với gia đình để tạo điều kiện tốt nhất cho các em tham gia học tập. Trong quá trình nghiên cứu, xuất phát từ cơ sở lý luận và thực trạg công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng việt ở Trường tiểu học Lý tự Trọng - thị xã Đông Hà - tỉnh Quảng Trị. Đề tài xin mạnh dạn đề xuất một số biện pháp có tính thực tiễn phù hợp với tình hình bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng việt hiện nay. - Tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. + Phát hiện những học sinh có khả năng trở thành học sinh giỏi Tiếng Việt. + Bồi dưỡng hứng thú học tập. + Bồi dưỡng vốn sống. - Bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng Tiếng Việt. + Bồi dưỡng kiến thức kỹ năng từ ngữ. + Bồi dưỡng kiến thức kỹ năng ngữ pháp. + Bồi dưỡng cảm thụ văn học. + Bồi dưỡng làm văn. Đề tài triển khai nghiên cứuvà dạy thực tế tại Trường tiểu học Sơn Thủy nhiều năm và được tập thể cán bộ giáo viên tán thành. Đề tài chỉ có tác dụng trả lời câu hỏi làm thế nào để nâng cao hiệu quả bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt. Những vấn đề còn lại đã được đặt ra trong phần thực trạng là định hướng nghiên cứu tiếp của đề tài ở một giai đoạn và mức độ khác. Hy vọng các biện pháp đề ra Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 22
  8. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt sẽ có thể áp dụng tốt ở các trường tiểu học có điều kiện tương tự như trường tiểu học Sơn Thủy. 2. Bài học kinh nghiệm. Từ thực tiễn áp dụng công tác bồi dưỡng HSG-HSNK trong những năm qua tôI đã đúc rút lại ngắn gọn thành những bài học sau. + Quán triệt và nâng cao nhận thức tầm quan trọng của công tác bồi dưỡng học sinh giỏi. + Xây dựng kế hoạch chỉ đạo công tác bồi dưỡng học sinh giỏi cụ thể ngay từ đầu năm học và bố trí cán bộ quản lý phụ trách. + Chỉ đạo nâng cao chất lượng giáo dục đại trà. + Chú trọng công tác bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho giáo viên một cách thường xuyên. + Chỉ đạo tốt công tác tuyển chọn học sinh giỏi để xây dựng đội tuyển chính xác cao. + Phân công giáo viên tham gia dạy bồi dưỡng phảI có kinh nghiệm ,năng lực ,nhiệt tình với công việc. + Tăng cường đẩy mạnh công tác kiểm tra ,ngoại khóa, uốn nắn kịp thời. + Đầu tư về CSVC-trang thiết bị dạy học nhất là tài liệu phục vụ cho hoạt động BDHSG. + HS đI học phải có đầy đủ tài liệu theo yêu cầu của người dạy.( phô tô ). Giáo viên dạy cần phải quan tâm đến kiến thức cơ bản trọng tâm, tuyệt đối không dạy tủ, làm thay mà giúp cho HS từ một dạng bài để làm được nhiều bài tương tự. + Huy động nguồn lực cộng đông cùng quan tâm nyhuw kinh phí thù lao, kinh phí khen thưởng thích đáng. 3. Kiến nghị: - Đối với nhà trường nên tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi ngay từ lớp 2 chú trọng hơn công tác khảo sát, lựa chọn học sinh vào lớp bồi dưỡng học sinh giỏi. - Chuyên môn nhà trường nên tổ chức các buổi ngoại khoá Tiếng Việt báo cáo kinh nghiệm học tập bộ môn - Ngoài việc động viên tinh thần và trách nhiệm, nhà trường và phụ huynh tăng thêm phần kinh phí bồi dưỡng và kinh phí thưởng cho GV-HS đạt giải huyện và tỉnh. Sơn Thủy, ngày 30 thang 4 năm 2011 Người viết Võ Đức Kế Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 23
  9. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt HT Trường TH Sơn Thủy TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Văn Huệ - Tâm lý học tiểu học - NXBGD - 1997 2. Lê Bá Miên - Bài giảng Đại cương ngôn ngữ, từ vựng học - Trường ĐHSPHN2. 3. Lê Phương Nga - Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở tiểu học - NXBĐHQGHN 1999 4. Phạm Thị Hoà - Bài giảng phương pháp dạy học Tiếng việt - Trường ĐHSPHN2. 5. Bộ sách Tiếng Việt tiểu học nâng cao - NXB giáo dục. 6. Tài liệu Bồi dưỡng Tiếng Việt của PGD Lệ Thủy; sưu tầm các đề kiểm tra ,thi HSG qua hàng năm . 7. Thông tư 35/ TTLT - BGDĐT - BNV ngày 23/ 8/ 2006 hướng dẫn định mức biên chế viên chức ở các cơ sở giáo dục công lập (Em Bùi Nhật Minh nhận cờ giải Nhất tỉnh) Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 24
  10. Một số biện pháp bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt ( Đ/c Võ Đức Kế- HT nhận giấy khen về UDCNTT ) Người thực hiện: Võ Đức Kế – Trường Tiểu học Sơn Thủy 25