SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang

doc 21 trang thulinhhd34 6250
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang", để tải tài liệu gốc về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên

Tài liệu đính kèm:

  • docskkn_mot_so_bien_phap_nham_nang_cao_nhan_thuc_va_ki_nang_su.doc

Nội dung tóm tắt: SKKN Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng Tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang

  1. Việt đang bị giảm sút nghiêm trọng. Và một sự thật đáng buồn là học sinh trung học phổ thông - những người đã và đang được học văn hóa, được tiếp thu những thành tựu khoa học – lại là những người sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng nhất. Học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang cũng không nằm ngoài xu thế ấy. Là một giáo viên giảng dạy bộ môn Ngữ văn, tôi không khỏi trăn trở trước thực trạng trên. Và để chấn chỉnh, định hướng kịp thời, hướng học sinh đến cách thức giao tiếp có văn hóa, tôi quyết định nghiên cứu và đưa vào ứng dụng sáng kiến: Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang. 2. Tên sáng kiến Một số biện pháp nhằm nâng cao nhận thức và kĩ năng sử dụng tiếng Việt của học sinh trường THPT Nguyễn Thị Giang. 3. Tác giả sáng kiến - Họ và tên: Khuất Thị Lý - Địa chỉ : Trường THPT Nguyễn Thị Giang - Số điện thoại: 037 387 1672; E_mail: lykhuatvt@gmail.com 4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến Tác giả sáng kiến. 5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến Sáng kiến có thể áp dụng trong lĩnh vực giảng dạy tiếng Việt của giáo viên Ngữ văn trong nhà trường trung học phổ thông. 6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu Ngày 01/10/2018 7. Mô tả bản chất của sáng kiến 7.1. Nội dung sáng kiến 7.1.1. Những biểu hiện cơ bản của việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở một bộ phận học sinh hiện nay 2
  2. a. Xu hướng đơn giản hóa - Đây là khuynh hướng phổ biến nhất. - Một số kí tự học sinh thường dùng phổ biến qua nhắn tin, qua chát: Ngôn ngữ (gốc) Ngôn ngữ (sáng tạo) (cười) haha Kaka (cười) hihi Hjhj À Àh anh A Ăn cơm ăn kum Ba (cha) Papa Bà xã Vx bạn you, pạn Bé Pé bệnh Bịnh biến phiến, bín biết pít, pek,bk bình thường Bt buổi Bỉu buồn pùn, bùn bực mình pựx mìn Cái Káj cảm ơn Tks Có Koa con Kon con gái Girl con trai Boy 3
  3. cơm Kưm của Kủa cút Kút cưng Kưng cười Kười chà Ckàz chảnh chó c2 chào bye bye chắc Chắt chết Chjt chia tay Ct chim Chym chịu Ckju cho Choa chó Tró chồng Ck chúc ngủ ngon g9, chux ngủ ngon chuyện chiện, chyn chửi Ekuj Dạ Dzạ đang Dag đánh lộn Wuynh lộn đánh nhau Pk đâu Âu đẹp Chẹp đẹp gái chẹp gái 4
  4. đẹp trai đẹp zai Đi Đj điên Đin điện thoại Đt Đó Đok đồng (đơn vị tiền Việt Nam k, kooo (trên game oline) được đk, đc Em E Em yêu i*, ey Ế Ếk ê (dùng gọi ai đó) Êt ghét Gket Gì J Gia kiệm (tên địa danh) Gkịm giận Jận giấy Jay giờ H giữ gìn ju jin hên xui hin xuj hiểu Hju học Hox hôm (qua) Hum hôn kis, hun Im Jm kia Kiêu kiêu Kiu 5
  5. khiếp Khíp khóc khox, koh khóc hix hix không k, o, hok, hum khùng Khjn khùng khùng khìn khìn lắm k'm, lém Lấy Lax luôn Juôn Mà Mòa Mẹ mama, mọe mình Mìk muốn Mún Nè Nak Nó Nóa nói chuyện nc, pm, nói chỵn nghe Nge nghĩ Ghĩ nha Heng nhắn tin tn nhiều nhju, nhiù nhờ Nhok nhớ Miss như thế nào Ntn ông xã Ôx ơi Ui 6
  6. phòng trọ Pt phúc Pux qua Wa quá góa, wa quen Wen quê Wế quên Wên quyển sách wyen sak Rồi ùi, gòi, rùi, rùj, roj sao Seo sặc Sặx Sốt (đang là chủ điểm) Hót sớm Súm tạm biệt pp. pipi Tao Kao tiền lúa, máu, tìn tình cảm Tc tình yêu t/ju Tôi Tui thằng Thèng Thì Tky thích Thik thích thít, thick thôi thoj, thui thương Xương trong Trog 7
  7. trời Chaj trước trướk, trc uống nước un nc Ừ uk, ừa vẫn Zẫn vậy zậy, z, vz Yêu iu b. Xu hướng phức tạp hóa - Xu hướng này tuy không phát triển mạnh mẽ như xu hướng thứ nhất nhưng nó vẫn tồn tại như một cách để thể hiện sự khác biệt “sành điệu”của giới trẻ. Trong xu hướng phức tạp hóa, một trong những nét đặc trưng cần phải nhấn mạnh đó là cách thể hiện, trình bày nội dung văn bản. Với mong muốn được thể hiện, khẳng định bản thân (do tâm lý lứa tuổi) xu hướng này vì thế, càng được phát huy mạnh mẽ. - Sự phức tạp trước hết được thể hiện thông qua hàng loạt các biểu đạt tình cảm đi kèm. Ví dụ: :(( buồn :) cười :))))) rất buồn cười. - Sự phức tạp còn được thể hiện trong cách trình bày cầu kỳ. Ví dụ: “ThiẾu zẮng a e hUmz thỂ shỐng thÊm 1 fÚt jÂy nÀo nỮa” (Thiếu vắng anh, em không thể sống thêm một phút giây nào nữa). c. Xu hướng tạo ra những lời nói cố định Những câu giới trẻ hay sử dụng là: Chảnh như con chó cảnh 8
  8. Chán như con gián Chuyện nhỏ như con thỏ Biết chết liền Đã xấu còn xa, đã si đa còn xông pha hiến máu Bó tay chấm cơm Bó tay con gà quay Bực như con mực Ăn trông nồi ngồi trông xó Cái khó ló cái ngu Buồn như con chuồn chuồn Đen như con mèo hen Đẹp trai có gì là sai Đói như con sói Dở hơi tập bơi Không mày đố thầy dạy ai Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ Một điều nhịn là chín điều nhục Ngu như con bò thích hát hò Xấu như con gấu Yêu là phải nói như đói là phải ăn Ngất trên cành quất Xấu nhưng biết phấn đấu Nếu xét về nội dung ta thấy có một số câu phù hợp với cách lí giải của tuổi teen là nói cho vui, Xấu như con gấu; Đói như con sói; Chuyện nhỏ như con thỏ; Chán như con gián; Chảnh như con chó cảnh. Nhưng ta còn nhận thấy bên cạnh những câu nói có thể chấp nhận được còn là những câu nói dựa vào thành ngữ gốc mà biến đổi, làm mất hết ý nghĩa của thành ngữ và nó mang lại một thông tin sai 9
  9. lệch hoàn toàn với thành ngữ ban đầu mà người Việt sử dụng Không mày đố thầy dạy ai; Một con ngựa đau cả tàu được ăn thêm cỏ; Một điều nhịn là chín điều nhục; Ăn trông nồi ngồi trông xó. Và khi những câu nói quen thuộc này được giới tuổi teen sử dụng để giao tiếp với người lớn. Giáo viên chúng ta cũng từng là nạn nhân của những câu nói trên khi đôi lần hỏi bài học sinh trả lời trống không “biết chết liền” đây là những tình huống nằm ngoài ý muốn của người đứng lớp. - Những lời nói cố định như vậy được sử dụng rất rộng rãi: 10
  10. d. Hiện tượng nói tục Các từ thường trực ở cửa miệng của nhiều học trò mà ta thường xuyên thấy qua các tin nhắn trên Facebook: “Đ.M”, “vl”, đcm, Điều này làm xấu đi hình ảnh tiếng Việt rất vốn rất giàu và đẹp. e. Hiện tượng sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện Việc sử dụng ngoại ngữ một cách tùy tiện là vấn đề nhức nhối. Ngay từ năm 1925, nhà báo Nguyễn An Ninh đã trăn trở: Nhiều người An Nam thích bập bẹ năm ba tiếng Tây hơn là diễn tả ý tưởng cho mạch lạc bằng tiếng nước mình. Hình như đối với họ, việc sử dụng Pháp ngữ là một dấu hiệu thuộc giai cấp quý tộc, cũng như sử dụng nước suối Pe – ri – ê (Perrier) và rượu khai vị biểu trưng cho nền văn minh châu Âu. Nhiểu người An Nam bị Tây hóa hiện nay tưởng rằng khi cóp nhặt những cái tầm thường của phong hóa châu Âu họ sẽ làm cho đồng bào của mình tin là họ đã được đào tạo theo kiểu Tây phương. Thái độ mù tịt về văn hóa châu Âu như thế không nên làm chúng ta ngạc nhiên. Vì chỉ có những người đã hiểu biết vững một nền văn hóa rồi mới có khả năng thưởng thức một nền văn hóa ngoại bang. Những kiểu kiên trúc và trang trí lai căng của những ngôi nhà thuộc về những người An Nam được hun đúc theo cái mà những người ở Đông Dương gọi là văn minh Pháp, chứng tỏ rằng những người ở An Nam bị Tây hóa chẳng có được một thứ văn minh nào. Việc từ bỏ văn hóa cha ông và tiếng mẹ đẻ phải làm cho mọi người An Nam tha thiết với giống nòi lo lắng. (Trích “Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức” – Nguyễn An Ninh) Vấn đề này đã từng được Trần Đức Nguyên - Trần Việt Phương đề cập đến trên báo điện tử Vietnamnet ngày 03/03/2007: Dạo này, dường như ngày càng có nhiều người, nhất là lớp trẻ, khi nói và viết tiếng Việt thường chen tiếng mrớc ngoài, chủ yếu là tiếng Anh. Hồi nước ta còn thuộc Pháp, thói quen dùng chen tiếng Pháp cũng đã khá phổ biến và được gọi 12
  11. là nói “tiếng lai”. Phải nhận rằng, trong sự phát triển mau lẹ của khoa học và còng nghệ, nhất là của tin học và công nghệ thông tin, nhiều thuật ngữ mới ra đời, mà do chưa kịp có từ tương ứng trong tiếng Việt, nên buộc phải dùng thuật ngữ bằng tiếng nước ngoài khi nói cũng như khi viết. Song điều đáng nói là, đang có nhiều người cứ thích nói bằng tiếng Anh những từ hoàn toàn có thế diễn đạt được bằng tiếng Việt, và hãnh diện coi đó là thời thượng, là “sành điệu ”. Tiếng Việt, ngôn ngữ của dân tộc, không chỉ là biểu hiện của vẻ đẹp truyền thống cũng như sự hiện đại hóa về tư duy của con người, của đất nước, mà còn khẳng định vị thế của văn hóa Việt Nam. Vậy mà việc sử dụng thứ ngôn ngữ được coi là tiếng Việt, nhưng không có trong từ điển tiếng Việt, của các bạn trẻ hiện nay đang là trào lưu nổ rộ. Đó là cách các bạn trẻ thể hiện phong cách? Có lẽ đúng hơn là một sự lai căng, biến tướng tiếng mẹ đẻ, và đó là vấn đề đáng lên án và cần phải loại trừ.Việc xen kẽ những từ ngữ nước ngoài không còn quá xa lạ trong những mẩu đối thoại hằng ngày của giới trẻ. Ví dụ: - Ngày Valentine, cậu định mua quà gi tặng người yêu? - Mai nhớ mang laptop nhé! - Có gì cứ call cho tôi. - Hello bạn 7.1.2. Nguyên nhân dẫn đến việc sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở một bộ phận học sinh hiện nay a. Nguyên nhân khách quan - Xã hội ngày càng phát triển, lối sống phương Tây ồ ạt tràn vào Việt Nam. Giới trẻ là những người nhạy bén nhất. Họ học tập, sáng tạo, áp dụng và làm ra cái mới để thể hiện mình. Tuy nhiên, vì còn trẻ nên các em chưa khẳng định được 13
  12. việc thể hiện mình như vậy là đúng hay sai, các em muốn thay đổi nhưng chưa biết cách thay đổi như thế nào cho phù hợp. - Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế đó là trong chính tả của Tiếng Việt vẫn còn tồn tại sự bất hợp lý khi sử dụng nhiều ký hiệu để biểu thị cùng một âm vị: K,Q, C cùng để biểu thị âm vị / K/; hay Z, d, gi cùng để biểu thị âm /z/.v.v. b. Nguyên nhân chủ quan - Thứ nhất: do sự giảm sút tình yêu tiếng Việt, ý thức giữ gìn và bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt không được coi trọng - Thứ hai: do xu hướng lai căng, xính ngoại, thích “hiện đại”, thích được thể hiện cá tính của giới trẻ. Tâm lý “thích sành điệu, thích được xem là dân chơi” của đa phần giới trẻ. - Thứ ba: do sự thiếu hụt những tri thức cơ bản về ngôn ngữ nói chung và tiếng Việt nói riêng - Thứ tư: do cách giao tiếp, ứng xử thiếu văn hóa của một bộ phận không nhỏ học sinh như: nói tục, chửi bậy, dùng từ, đặt câu không đúng nghĩa, không phù hợp với hoàn cảnh, nội dung, mục đích giao tiếp - Thứ năm: do việc tiếp xúc thường xuyên với cách sử dụng ngôn ngữ một cách tùy tiện của những bài viết không chuẩn mực trên mạng 7.1.3. Giải pháp khắc phục tình trạng sử dụng tiếng Việt thiếu trong sáng ở một bộ phận học sinh hiện nay Từ những thực trạng và nguyên nhân sử dụng tiếng Việt như trên, là giáo viên giảng dạy Ngữ văn, tôi xin được đưa ra một số giải pháp nhằm giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt trong giai đoạn hiện nay như sau: a. Giáo dục cho học sinh ý thức quý trọng tiếng Việt Mỗi âm thanh, từ ngữ, quy tắc trong tiếng Việt là di sản quý báu của ông cha để lại. Di sản đó giúp mọi người hiểu biết, có nhân cách, nuôi dưỡng cho dân tộc 14
  13. trường tồn, phát triển. Muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần có tình yêu sâu sắc, quý trọng di sản của cha ông, phải quý trọng tiếng nói của dân tộc như những tấc đất ở biên thùy. Trong quá trình giảng dạy, giáo viên Ngữ văn cần phân tích cho học sinh thấy được cái hay, cái đẹp của tiếng Việt; lồng ghép giáo dục tình yêu tiếng Việt qua các ngữ liệu trong phần đọc – hiểu. Từ đó, hình thành trong các em ý thức quý trọng tiếng Việt. b. Cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt Giáo viên cần cung cấp cho học sinh những hiểu biết cần thiết về tiếng Việt. Đó là những hiểu biết về chuẩn mực và quy tắc tiếng Việt trong các phát âm, chữ viết, cách dùng từ, đặt câu, tạo lập văn bản, giao tiếp có thể tích lũy kinh nghiệm từ thực tế giao tiếp hay trau dồi qua sách báo nhưng vẫn tuân thủ quy tắc của tiếng Việt. c. Giáo dục cho học sinh trách nhiệm cá nhân trong hoạt động sử dụng tiếng Việt - Giáo viên giáo dục học sinh trách nhiệm cá nhân trong hoạt động sử dụng tiếng Việt: + Muốn giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt cần diễn đạt đủ, đúng và chuẩn mực và quy tắc trong tiếng Việt, chuẩn mực không phủ nhận những sự chuyển đổi linh hoạt và sáng tạo, không phủ nhận cái mới. Tuy nhiên sáng tạo không nên sai quy tắc của câu, cái mới luôn cần phải phù hợp với quy tắc chung, những điều đó tạo nên sự phong phú cho tiếng Việt. + Bên cạnh việc giữ những phẩm chất đẹp đẽ của tiếng Việt cần dung nạp những yếu tố tích cực để tăng thêm từ vựng và phong phú trong ngữ pháp của tiếng Việt. + Trong tiếng Việt cần quan tâm tới nhiều yếu tố trong đó văn hóa và cách ăn nói lịch sự cần phải được quan tâm hàng đầu để có thể giữ gìn sự trong sáng của 15
  14. tiếng Việt. Sự trong sáng của tiếng Việt được thể hiện ở những biểu hiện và các phương diện khác nhau, đó là tính chuẩn mực, có quy tắc của tiếng Việt, đó là sự không lai căng, pha tạp và tính lịch sự, văn hóa của lời nói Trong những hoạt động sử dụng tiếng Việt có thể áp dụng sáng tạo riêng nhưng vẫn phải tuân theo quy tắc chung của tiếng Việt, cần tránh những các thể hiện thô tục, kệch cỡm để lời nói vừa đúng, vừa hay, vừa có văn hóa. + Giáo viên Ngữ văn có thể xây dựng thành những đề văn nghị luận xã hội về hiện tượng sử dụng ngôn ngữ của chính học sinh. Từ đó các em được trình bày sự hiểu biết và những suy nghĩ của bản thân về việc sử dụng tiếng Việt của chính mình. Ví dụ 1: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu từ câu 1 đến câu 4: Chưa chữ viết đã vẹn tròn tiếng nói Vầng trăng cao đêm cá lặn sao mờ Ôi tiếng Việt như bùn và như lụa Óng tre ngà và mềm mại như tơ Tiếng tha thiết, nói thường nghe như hát Kể mọi điều bằng ríu rít âm thanh Như gió nước không thể nào nắm bắt Dấu huyền trầm, dấu ngã chênh vênh Dấu hỏi dựng suốt ngàn đời lửa cháy Một tiếng vườn rợp bóng lá cành vươn Nghe mát lịm ở đầu môi tiếng suối Tiếng heo may gợi nhớ những con đường 16
  15. Một đảo nhỏ xa xôi ngoài biển rộng Vẫn tiếng làng tiếng nước của riêng ta Tiếng chẳng mất khi Loa Thành đã mất Nàng Mị Châu quỳ xuống lạy cha già. Tiếng thao thức lòng trai ôm ngọc sáng Dưới cát vùi sóng dập chẳng hề nguôi Tiếng tủi cực kẻ ăn cầu ngủ quán Thành Nguyễn Du vằng vặc nỗi thương đời. (Trích Tiếng Việt - Lưu Quang Vũ, Thơ Việt Nam 1945-1985, NXB Giáo dục, 1985, tr.218) Câu 1. Sự mượt mà và tinh tế của tiếng Việt được thể hiện ở những từ ngữ nào trong khổ thơ thứ nhất? Câu 2. Kể tên hai biện pháp tu từ được sử dụng trong khổ thơ thứ hai và thứ ba. Câu 3. Nêu nội dung chính của đoạn trích. Câu 4. Từ đoạn trích, anh/chị hãy bày tỏ cảm nghĩ của mình về tiếng Việt. Ví dụ 2: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: (1) Tiếng Việt có những đặc sắc của một thứ tiếng đẹp, một thứ tiếng hay. Nói thế có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng hài hòa về mặt âm hưởng, thanh điệu mà cũng rất tế nhị, uyển chuyển trong cách đặt câu. Nói thế cũng có nghĩa là nói rằng: tiếng Việt có đầy đủ khá năng để diễn đạt tình cảm, tư tưởng của người Việt Nam và để thỏa mãn cho yêu cầu của đời sống văn hóa nước nhà qua các thời kì lịch sử. (2) Tiếng Việt, trong cấu tạo của nó, thật sự có những đặc sắc của một thứ tiếng khá đẹp. Nhiều người ngoại quốc sang thăm nước ta và có dịp nghe tiếng nói của 17
  16. quần chúng nhân dân ta, đã có thể nhận xét rằng: tiếng Việt là một thứ tiếng giàu chất nhạc. Họ không hiểu tiếng ta, và đó là một ấn tượng, ấn tượng của người “nghe” và chỉ nghe thôi. Tuy vậy lời bình phẩm của họ có phần chắc không phải chỉ là một lời khen xã giao. Những nhân chứng có đủ thẩm quyền hơn về mặt này cũng không hiếm. Một giáo sĩ nước ngoài (chúng ta biết rằng nhiều nhà truyền đạo Thiên Chúa nước ngoài cũng là người rất thạo tiếng Việt), đã có thể nói đến tiếng Việt như là một thứ tiếng “đẹp” và “rất rành mạch trong lối nói, rất uyển chuyển trong câu kéo, rất ngon lành trong những câu tục ngữ”. (Đặng Thai Mai, Tiếng Việt, một biểu hiện hùng hồn của sức sống dân tộc, trong Tuyến tập Đặng Thai Mai, Tập II, NXB Văn học, Hà Nội, 1984). Câu 1: Chọn ra câu chủ đề của đoạn trích trên? . Câu 2: Đoạn trích trên được viết bằng phương thức biểu đạt nào? . Câu 3: Đoạn (2) có những phép liên kết nào? Nêu tác dụng của các phép liên kết đó trong việc thể hiện nội dung chủ đạo của đoạn văn. . Câu 4: Trong khoảng 5-7 dòng, hãy trình bày suy nghĩ của anh (chị) về việc giữ gìn sự giàu đẹp của tiếng Việt của bộ phận giới trẻ hiện nay. Ví dụ 3: Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: " Tiếng nói là người bảo vệ quý báu nhất nền độc lập của các dân tộc, là yếu tố quan trọng nhất giúp giải phóng các dân tộc bị thống trị. Nếu người An Nam hãnh diện giữ gìn tiếng nói của mình và ra sức làm cho tiếng nói ấy phong phú hơn để có khả năng phổ biến tại An Nam các học thuyết đạo đức và khoa học của châu Âu, việc giải phóng dân tộc An Nam chỉ còn là vấn đề thời gian. Bất cứ người An Nam nào vứt bỏ tiếng nói của mình, thì cũng đương nhiên khước từ niềm hi vọng giải phóng giống nòi [ ] Vì thế, đối với người An Nam chúng ta, choi từ tiếng mẹ đẻ đồng nghĩa với từ chổi sự tự do của mình " (Nguyễn An Ninh, Tiếng mẹ đẻ - nguồn giải phóng các dân tộc bị áp bức, Theo 18
  17. Ngữ văn 11, Tập hai, NXB Giáo dục, 2014, tr. 90) Câu 1. Hãy xác định phong cách ngôn ngữ của đoạn trích trên. Câu 2. Trong đoạn trích, tác giả chủ yếu sử dụng thao tác lập luận nào? Câu 3. Theo tác giả, tiếng nói có tầm quan trọng như thể nào đối với vận mệnh của dân tộc? Câu 4. Từ đoạn trích, anh/chị hãy nêu quan điểm của mình về vai trò của tiếng nói dân tộc trong bối cảnh hiện nay.+ Phát hiện lỗi sử dụng trong giao tiếp, trong bài kiểm tra của học sinh, khoanh tròn sửa lỗi đặc biệt những lỗi sai do cố tình sử dụng sai cách dùng từ như hiện nay. Trừ điểm thành phần bài kiểm tra đối với trường hợp sai nhiều lần. Giáo viên Văn nên có bảng thống kê bài kiểm tra các lỗi sai kể cả sai chính tả để xem mức độ thay đổi. Ví dụ: SỐ LỖI CHÍNH TẢ, CÁCH DÙNG TỪ HỌ VÀ TÊN BÀI SỐ 1 BÀI SỐ 2 BÀI SỐ 3 BÀI SỐ 4 NGUYỄN VĂN A NGUYỄN VĂN B + Giáo viên cũng có thể cho học sinh rèn luyện kĩ năng sử dụng tiếng Việt qua việc đưa ra các bài tập yêu cầu học sinh phát hiện, mô tả lỗi và sửa lỗi trong một số văn bản chưa chuẩn mực. d. Xây dựng trong nhà trường phong trào giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt - Việc giáo dục cần bắt nguồn từ thực tế, từ những câu chuyện, những tình huống thật xảy ra trong cuộc sống. Thầy cô - những người có ảnh hưởng trực tiếp đến các bạn trẻ, những người định hướng, giúp các em hoàn thiện vốn ngôn ngữ của mình cần phải là những tấm gương về sử dụng ngôn ngữ, kiến thức ngôn ngữ. - Thường xuyên thiết lập các kênh đối thoại để từ đó khích lệ, nhắc nhở hay chấn chỉnh hoạt động ngôn ngôn ngữ của học sinh. - Nhà trường và Đoàn thanh niên cần có những buổi sinh hoạt ngoại khóa về vấn đề sử dụng tiếng Việt đúng chuẩn. 19
  18. 7.2. Khả năng áp dụng của sáng kiến Sáng kiến hoàn toàn có thể áp dụng trong thực tế giảng dạy của tất cả các giáo viên, đặc biệt là giáo viên giảng dạy môn Ngữ văn. 8. Những thông tin cần được bảo mật Không. 9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến - Giáo viên phải nắm chắc những quy tắc sử dụng tiếng Việt; nói và viết theo chuẩn để làm gương cho học sinh; chú ý quan sát, uốn nắn học sinh trong lời ăn tiếng nói và cả chữ viết. - Học sinh phải có ý thức học tập, tu dưỡng, coi giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt là nhiệm vụ, trách nhiệm của mỗi cá nhân. 10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến 10.1. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tác giả Số lối vi phạm Lớp Sĩ số Bài viết số 1 Bài viết số 1 Bài viết số 1 Bài viết số 1 10A6 37 22 14 11 4 12A2 39 28 17 14 7 12A4 29 19 14 10 6 10.2. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân - Các đồng nghiệp trong cơ quan khi đưa sáng kiến trên áp dụng vào thực tiễn giảng dạy tiếng Việt đều thấy học sinh có những chuyển biến tích cực hơn, trong bài làm văn, các lỗi dùng từ tiếng Việt giảm đi đáng kể, kết quả học tập môn Văn được nâng lên. - Học sinh phát huy được những năng lực sử dụng ngôn ngữ, giao tiếp, sử dụng tiếng Việt trong sáng hơn. 20
  19. 11. Danh sách những tổ chức/cá nhân đã tham gia áp dụng thử sáng kiến STT Tên tổ chức/ Địa chỉ Phạm vi/ Lĩnhvực cá nhân áp dụng sáng kiến 1 Lê Mai Anh Trường THPT Dạy học Ngữ văn Nguyễn Thị Giang 2 Lê Thị Hiền Trường THPT Dạy học Ngữ văn Nguyễn Thị Giang 3 Nguyễn Thị Phượng Trường THPT Dạy học Ngữ văn Nguyễn Thị Giang Vĩnh Tường, ngày tháng 02 năm 2019 Vĩnh Tường, ngày 15 tháng 02 năm 2019 Thủ trưởng đơn vị Tác giả sáng kiến Nguyễn Thị Tuyết Oanh Khuất Thị Lý 21